Trong khu này có trường tiểu học, chỉ đến cours élémentaire , thi xong Sơ học yếu lược thì được chuyển lên học ở trường Queignec, gần cầu Thanh Long.Tôi còn nhớ thầy giáo của lớp ba của tôi tên là Phong. Lên lớp, thầy mặc đồ nhà binh mang lon đội, tiếng Tây thường gọi là Sergent ( thầy đội ). Từ ngoài cổng Trại vào có một cái đền thờ, thờ ai thì tôi không biết, hai bên tường đền có đúc nổi tượng hai ông được gọi là Ông Thiện, Ông Ác. Ông nào cũng cầm gươm, mặt mũi bôi xanh bôi đỏ trông rất dữ tợn. Bọn trẻ chúng tôi mỗi khi đi qua đoạn đường này thường chạy cho nhanh vì sợ. Bên cạnh Trường có một cái nhà thương nhỏ, nó gần giống như trạm xá xã thời nay. Những đứa học trò chúng tôi dù không đau bụng cũng sang khai và xin các bà xơ cho thuốc trị bằng một cốc nước ngọt, ngọt như xi-rô. Trong Trại còn có một cái sân vận động để bọn trẻ chạy nhảy nô đùa. Có những đêm lửa trại, thường thường là vào những ngày lễ như Quốc khánh Pháp ( 14-7), lễ Noel và nhất là dịp Tết Nguyên đán. Những người lính Thượng trong đồn Mang Cá cùng ra chung vui. Bọn trẻ thì hát những bài tiếng Pháp như bài Écoutez chanter flambe…, bài J’ai deux amours, mon pays et Paris… Các bác lính Thượng thì hát bài của dân tộc họ. Tôi còn nhớ được mấy câu nhưng không hiểu nghĩa : “ Ộn ề mà rào ê đệ. Ấy chan dinh dan ê ri ôn mầy. Họ hát và nhảy múa quanh đống lửa trại, có cả cồng chiêng nhịp theo, rất vui.. Cũng tại cái sân vận động này cứ mỗi sáng, có một thầy cai mang cái kèn tây ra đứng ở góc sân huơ huơ cái kèn lên trời như là múa rồi thổi bài réveille matin ( đánh thức ban mai). Nhạc điệu tôi còn nhớ như vầy : tọn tèn tèn tèn tọn, tọn tin tìn tin tọn…Và cứ chiểu thứ bảy lại có bài tập ắc ê với tiếng hô ắc ê ( nhịp bước một hai của lính ) và lại có bài kèn đi kèm. Tôi còn nhớ giai điệu “ Mình ơi có đi Bờ Hồ, cùng ta ăn kem kẹo dừa, có đi là đi mình nhé ? Nếu mình ao ước cái chi”…hoặc theo điệu hành khúc ( en marche ) mà bọn trẻ chúng tôi chế ra như sau : “Mụ đi mô tui bắt mụ lại tui không cho mụ về”. Dân Huế coi đây là những bài hát của lính Tẩy.
Kỷ niệm ấu thơ thì còn nhiều, tôi xin trở lại bài viết về 2 bài thơ của Cha tôi. Bài thứ nhất, Cha tôi viết trước khi ông đi Côn Minh, có nhan đề là Liệu còn gặp gỡ. Cuộc đời người lính ra sa trường sống chết trong gang tấc, nên Cha tôi viết bài thơ này, nếu trở về trùng phùng tái hợp thì tốt nhưng nếu có mệnh hệ nào thì mong cho Mạ tôi “ gặp được chốn lửa hương”:
Lênh đênh anh tưởng là điều trân trọng
Ai hay chạnh nỗi niềm đôi ngả quan san
Lúc ra đi mỗi bước một ngừng
Con tàu chạy mỗi ga mỗi khuất
Mắt trông về Bến Sãi,(1) gan vàng thổn thức
Nhìn Chợ Hàn(2), lệ ngọc chứa chan
Gẫm tơ trời lắm nỗi đa đoan
Trách máy Tạo sớm đem đường thay đổi
Xưa những ước Thôi Trương (3) kỳ ngộ
Trước gió trăng sau lại đá vàng
Ai ngờ Ngưu Nữ đôi đàng (4)
Chưa sum họp vội vàng cách trở
Thôi thôi em đừng than đừng thở
Thoi thôi em đừng tưởng đừng trông
Thoi thôi em đừng tưởng đừng trông
Xưa Mạnh Lệ Quân ở chốn không phòng
Cũng có khi Tương Như hội ngộ
Chị Thúy Kiều ghe phen tân khổ
Cũng có lúc Kim Trọng tái phùng
Huống chi em chút phận má hồng
Bền giữ dạ ắt Hoàng thiên nào phụ
Anh nguyện cùng Ngọc Hoàng Thiên Địa
Sớm cho em gặp được chốn lửa hương
Còn như anh gánh gãy giữa đường
Liệu cùng em còn có ngày gặp gỡ ?
Nguyễn Xuân Tập
1933
Chú thích :
(1) Chợ Sãi ở gần Thành Cổ Quảng Trị
(2) Chợ Hàn tức chợ ở thị xã Quảng Trị
(3) Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy, chuyện tình đẹp của Tàu.
(4) Tức Ngưu Lang và Chức Nữ
Bài thơ này được Mạ tôi đọc lại cho tôi ghi âm lúc 9 giờ ngày 18-6-1999 khi Mạ tôi đã 84 tuổi. Nhưng đầu óc và tinh thần của Bà vẫn còn minh mẫn.
Và đây là bài thơ thứ hai, theo thể thơ Đường luật, Mạ tôi chỉ nhớ được 4 câu đầu :
Thung DUNG yên ngựa bước du xuân Học TẬP đắc thành sách Thánh nhân THUẬN nẻo đá nhào cơn bão tố SÃI tay đánh bạt bước gian truân Hạ nhật duyên ưa chưa tính đưọc Xuân xanh phận đẹp đã tới tuần Nhắn nhủ cùng em người tri kỷ Yêu nhau ta phải liệu cho xong
Câu đầu, chữ thứ hai DUNG là tên Mạ tôi Nguyễn Thị Kim Dung. Câu thứ hai, chữ thứ hai TẬP là tên Cha tôi Nguyễn Xuân Tập. Chữ đầu câu thứ ba THUẬN là chợ Thuận,quê Cha tôi. Chữ đầu thứ tư SÃI là Chợ Sãi ,đối diện làng Xuân Yên là quê Mạ tôi. Ngày xưa các Cụ thường ghép tên làng quê với tên mình, tên người yêu để làm những câu thơ tặng nhau, bày tỏ tình yêu lứa đôi nhưng không quên cội nguồn gốc gác của mình. Đó là một cử chỉ đẹp và lãng mạn. Bài thơ này tôi đã đưa vào bộ phim Bài thơ về Mẹ mà tác giả kịch bản và viết Lời bình là tôi, nhà thơ Xuân Bảo.
Biên Hòa, những ngày Mùa Thu,năm 2012
và mừng Đại lễ Vu lan Nhâm Thìn
Biên Hòa, những ngày Mùa Thu,năm 2012
và mừng Đại lễ Vu lan Nhâm Thìn
Anh ngủ ngon nhé!Chúc anh cùng toàn gia bình an!