Trang

Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

213. ĐÁM CƯỚI MỘT THỜI GIAN KHÓ.

213. CHÚNG TÔI LÀM LỄ CƯỚI TRONG THỜI GIAN KHÓ.
(MỘT ĐÁM CƯỚI THEO ĐỜI SỐNG MỚI)

Hồi ức của nhà thơ Xuân Bảo.

          Sau Hiệp định Genève, năm 1954, tôi tập kết ra Bắc trong quân ngũ, ở Đại  đội 235 của Huyện đội Triệu Phong do ông Lê Trường Lữ làm đại đội trưởng. Làng Thượng Phước có hơn phần nửa quân số gồm có tôi, Lê Ngọc Ngoãn, Lê Ngọc Bích, Bùi Hũu Tư, Lê Văn Thượng, Trần Thị Dàn, Lê Thị Phụ. Tôi nhớ anh Lê Ngọc Ngoãn được tạm thời làm tiểu đội trưởng tiểu đội 1. Lúc này tôi đã 20 tuổi. Tôi và một số chiến sĩ có trình độ văn hóa cấp II nên được chọn đi học Khóa Kế toán cấp tốc tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An. Sau 3 tháng mãn khóa, tôi và một số anh chị em, trong đó có Tân Thủy, Kim Biên, người Huế được điều ra công tác tại Chi sở Mậu dịch Đặc biệt Thanh Hóa, đóng ở Bái Thượng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Chi sở này làm nhiệm vụ thu mua những mặt hàng thuốc bắc như thiên niên kiện, sa nhân, đậu khấu và các mặt hàng xuất khẩu khác. Tháng 2 năm 1955 thì giải thể. Tôi và một số anh chị em khác được điều qua Công ty Lương thực Thanh Hóa. Lúc này, ông Lưu Trọng Lạc, em ruột nhà thơ Lưu Trọng Lư làm chủ nhiệm. Nơi đây, tôi quen biết Lưu Lương Sơn và Lưu Thanh Sơn. Hai người con gái của ông Lưu Trọng Lạc.  Lưu Thanh Sơn là bạn gái của Hồ Viết Năng, bạn tôi. Sau này, trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Viết Năng là Trưởng nhóm Văn công bộ đội 559.

                                                                   Cô dâu đang trang điểm.

             Ngày 1 tháng 1 năm 1955, Cụ Hồ và Chính phủ về thủ đô ra mắt đồng bào tại sân Vận động Quần Ngựa. Tháng 3 năm đó, tôi lại được chọn đi học tại trưởng Thương nghiệp Trung ương của Bộ Nội thương, đóng tại 66 phố Hoàng Hoa Thám, Khu Ba Đình, Hà Nội. Trường này có lần được Bác Hồ đến thăm. Sau khi tốt nghiệp, tôi là một trong số 200 cán bộ được cử lên tăng cường cho Khu Tự trị Thái Mèo (sau này đổi thành Khu Tự trị Tây Bắc). Khi Khu Tự trị đã ổn định. Bọn phỉ Đèo Văn Long, Vàng Pao và vài nhóm khác bị tiêu diệt. Một số cán bộ tăng cường được điều động đi làm nhiệm vụ khác hoặc đi học.

          Tôi lại được chọn đi học Khóa Hóa nghiệm lương thực để về làm việc ở Cục Máy xay, thuộc Tổng cục Lương thực. Tôi đang thực tập tại nhà máy Xay Đáp Cầu thì lại được điều động về làm giáo vụ tại Trường Huấn luyện Cán bộ, lúc này đóng tạm trong nhà dân tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Năm 1959, 1960 tôi được điều sang công tác tại Ban Cải tạo Công Thương nghiệp tư bản tư doanh của Sở Lương thực Hà Nội. Rồi sau đó sang làm việc tại Công ty Vật liệu Xây dựng rồi về Công ty Bông Vải Sợi May mặc Hà Nội.

             Năm 1961, tôi đã 26 tuổi và bắt đầu nghĩ đến chuyện xây dựng gia đình. Tôi quen biết nhà tôi vào những tháng cuối năm 1960. Là đoàn viên Thanh niên, tôi phải báo cáo việc lấy vợ cho đoàn thể biết, cho chính quyền biết, cho Đảng biết.
Khi biết tôi sắp lấy vợ là con nhà tư sản Tân Việt thì bí thư Đảng ủy Ph. Đ. Q. đã hai lần khuyên tôi nên từ bỏ ý định cưới con nhà tư sản. Ông nhẹ nhàng phân tích cho tôi rõ giai cấp tư sản là giai cấp đối kháng của cách mạng. Ông còn xác định cho tôi hãy đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản để không ngừng rèn luyện đạo đức, tư tưởng và tác phong của người cán bộ. Tôi không nghe theo lời răn đe đó nên cùng với Thúy Minh ra Ủy ban Hành chính xin làm giấy kết hôn. Sau 1 tháng, chúng tôi được cấp Giấy kết hôn hợp pháp.

Cô dâu đang trang điểm.

             Có trong tay tờ Giấy kết hôn, chúng tôi vào các cửa hàng Mậu dịch để sắm đồ cưới. Cửa hàng Mậu dịch quốc doanh Đồ gỗ bán cho một cái giường đôi gỗ thường. Cửa hàng Mậu dịch quốc doanh Bách hóa bán cho 2 gói chè Thanh Hương, (chè loại 1), 5 gói chè Hồng Đào (chè loại 2) và chè cám loại 3 thì được mua tự do. Cửa hàng Bách hóa còn bán thuốc lá theo tiêu chuẩn đám cưới có 2 tút thuốc Điện Biên, 3 tút thuốc Tam Đảo và 5 tút thuốc Trường Sơn. Thuốc thơm Thăng Long thì không có trong tiêu chuẩn cưới nên không mua được. Cửa hàng Mậu dịch Bánh kẹo bán cho 2 kylô kẹo Hải Châu. Còn cái khoản bánh quy thì đem bột mỳ Liên Xô (bán theo tiêu chuẩn lương thực ăn độn) hàng tháng và đường tích cóp đã 3 tháng ra tiệm bánh quy xốp, quy gai của bà Khiết, phía phải phố Nguyễn Du cắt ngang phố Huế đặt làm 5 ký bánh quy xốp, quy gai và bánh xốp vòng. Chúng tôi lên Hàng Buồm mua mấy ký hạt bí rang rồi.

 Tôi được ông thủ trưởng Lê Xứng, người Huế coi như đứa em xa nhà chăm lo tận tình như người anh cả. Ông đứng ra làm chủ hôn và đại diện họ nhà trai lo việc đi hỏi, đi cưới vợ cho tôi. Ông bố trí cho tôi một căn phòng tân hôn gần 16 mét vuông trên gác 2 của Trạm May mặc số 7, đóng tại 58 phố Huế, cách nhà ông bà Tân Việt tại 60A phố Huế một căn. Ông chỉ đạo Chi đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh làm các công việc trang trí sân lễ Thành hôn, cho cho mượn địa điểm là phân xưởng may làm hội trường hôn lễ.

Bàn là những chiếc máy khâu xếp dồn lại thành 3 hàng dọc, đủ chỗ ngồi cho hơn trăm khách. Ghế là những chiếc ghế đẩu thợ may ngồi hàng ngày. Bàn cô dâu chú rể là hai cái bàn và hai chiếc ghế tựa ba nan làm việc hàng ngày của bộ phận văn phòng.  Bàn này được phủ bằng vải sa tanh màu xanh nước biển, trên bàn có một bình hoa cắm đúng mười bông lay-ơn màu hồng.  Khăn trải bàn là những súc vải phin trắng, phông là vải phin xanh có sẵn trong kho của cửa hàng. Tất cả công nhân và cán bộ của Trạm đều được mời dự cưới (mời mồm). Đồng thời, mỗi người thợ cho mượn một bộ ấm chén pha trà, ba cái dĩa đựng bánh kẹo, hạt bí và một cái dĩa đựng bao thuốc lá và diêm Thống nhất. Tàn thuốc được gạt thẳng xuống sàn nhà. Một cái lọ hoa thủy tinh, loại rẻ tiền mà Hợp tác xã Thủy tinh Hà Nội thời đó sản xuất kỹ thuật còn quá thô sơ nên có nhiều bọt. Trên mỗi lọ hoa được cắm 2 nhành hồng. Người cho mượn chén dĩa ngồi ngay tại bàn đó lo tiếp tân luôn. Sau lễ, thì tự thu dọn các thứ cho mượn mang về. Nước sôi thì do bà Hai Thụy Khuê, lao công của Trạm đun nấu. Mấy nữ đoàn viên lo pha trà.
Thiếp mời cưới phần lớn khách là bạn bè của chú rể, cô dâu, được đánh máy trên giấy lụa hồng (pelure) và gửi trước mươi hôm, đối với những người ỏ xa. Trong nội ô thì mang thiếp đến tận nhà. Phong bì thì mua ở Bưu điện Chợ Hôm, ngay cạnh nhà, loại in sẵn có hai mục, trên cùng phía trái là địa chỉ có ghi chữ: Người gửi, giữa là 2 chữ Kính gửi, chung quanh có sọc nghiêng in đều khoảng 3 cm cách nhau xanh, trắng (trắng là màu có sẵn của giấy phong bì) và đỏ, nhìn như lá cờ tam tài của Tây Phú- lang- sa.
Phông treo gần hết chiều ngang bức tường của xưởng. Trên cùng phông có câu cắt giấy thủ công màu đỏ cờ: Vui duyên mới không quên nhiệm vụ! Chính giữa phông có hai chữ lồng in hoa B và M, nằm trong hình trái tim, cũng màu đỏ. Phía trên hai chữ B và M có đôi chim bồ câu màu trắng chụm hai cái mỏ hồng vào nhau, bốn cái chân bồ câu cũng màu hồng. Cạnh trái có một chữ Hỷ tiếng Tàu, màu đỏ nằm trong hình trái tim màu hồng. Phần dưới phông có mấy chữ: Hà Nội, ngày 4 tháng 2 năm 1961.
 Hai bức tường hai bên phân xưởng (nơi bấy giờ thành phòng hôn lễ) đã có sẵn những câu khẩu hiệu của xưởng may để nhắc nhở tinh thần lao động sản xuất của công nhân. Đó là những câu thường ngày, gần như câu kinh nhật tụng mà nơi nào cũng có: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng! Thi đua lao động sản xuất đạt năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều, giá thành hạ!
Đám cưới của chúng tôi không có màn đưa dâu vì hai căn nhà 58 và 60A phố Huế chỉ cách một căn 60 ở giữa. Đám cưới không có tiệc mặn! Chỉ có đốt một phong pháo ngắn mua của Mậu dịch quốc doanh, (tiêu chuẩn Tết Tân Sửu -1961 của bìa hộ gia đình). Vì đang là thời kỳ chiến tranh khốc liệt, cả nước lo cho tiền tuyến phương Nam. Hồi đó có câu: hạt gạo miền Bắc được cắn làm tư, một cho chiến trường B (miền Nam ruột thịt), một cho chiến trường C (bạn Lào) và một cho chiến trường K (bạn Campuchia). Phần tư còn lại cho miền bắc đang xây dựng nghĩa xã hội. Lương chúng tôi (cả hai người cũng chỉ hơn 100 đồng). Tôi hưởng lương cán sự 2, cộng với 12 % phụ cấp đắt đỏ của khu vực Hà Nội được 76 đồng 8 hào. Lương Mậu dịch viên của Thúy Minh kể cả phụ cấp đắt đỏ cũng không quá 50 đồng. Vậy nên, đám cưới không thể thuê ở những phòng cưới đắt tiền như Trăm Hoa, như Phú Gia…mà chỉ tổ chức tùng tiệm ở cơ quan. Đám cưới không có chụp ảnh, không có màn chú rể tặng nhẫn cưới cho cô dâu. Về của hồi môn, sau này, nhà tôi kể lại: cậu mợ (tiếng xưng hô của các gia đình Hà Nội thời đó) có cho con gái Thúy Minh một cái kiềng vàng, một đôi xuyến vàng và một cặp hoa tai mặt kim cương. Trong thời gian tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, ông Ng. cán bộ cải tạo thấy tôi đeo hoa tai bằng vàng. Ông Ng. hỏi: ngoài thứ này ra em có các loại trang sức nào khác không? Nhà tôi thật thà trả lời: có. Ông Ng. lại nói: em có biết những thứ này lấy ở đâu ra không? Ông Ng. trả lời luôn là của bóc lột đó. Nhà tôi nghe hai chữ “bóc lột” thì cả sợ và đem nộp mấy thứ đó cho ban Cải tạo. Thành thử, trong ngày cưới của chúng tôi không có của hồi môn là như vậy!



Ảnh chụp hôm sinh nhật Thúy Minh 77 tuổi.Ngày 6/11/1941 - 6/11/2017 tại Biên Hòa.

Chiều ngày 4 tháng 2 năm 1961, nhằm vào ngày 20 tháng Chạp năm Canh Tý, ông Lê Xứng dẫn theo mấy người đại diện chính quyền, đoàn thể gồm có các chị Nguyễn Thị Mỹ, Nguyễn Thị Đức, Ngô Thị Thái và chú rể, mang theo một mâm lễ gồm có một buồng cau, một xấp lá trầu, một chai rượu trắng (sản xuất tại nhà máy rượu Hà Nội - phố Nguyễn Công Trứ, khu Hai Bà) sang nhà ông bà Tân Việt để gọi là có chút lễ xin rước dâu. Ông bà nhạc tôi chấp thuận và miễn luôn cho cái lễ cúng gia tiên.
 Khác với đám cưới năm 1957 của chị Nguyễn Ngọc Bích, chị cả của vợ tôi, có xe ôtô Traction của hãng Cytroyen.  Loại xe mà nhà văn Vũ Trọng Phụng đã viết trong tiểu thuyết Giông tố. Xe chở Nghị Hách bị patinet giữa đường, gặp Thị Mịch…và mọi thứ chuyện xẩy ra trên xe.
Ông bà Tân Việt cũng có một chiếc xe loại này. Chúng tôi còn lưu giữ được những bức ảnh ông Tân Việt cùng với các ông cậu Trọng, cậu Chi lái chiếc xe này đi chơi chùa Trầm, chùa Trăm Gian trước giải phóng thủ đô 1954.  Mấy chiếc xe đưa dâu chị Ngọc Bích và chàng rể quý tử “cậu ấm kháng chiến” chạy mấy vòng quanh Hồ Gươm rồi mới về nhà mới ở phố Huyền Trân công chúa (sau đổi là phố Bùi Thị Xuân). Mặc dầu, nhà cô dâu cách nhà mới không đầy ba dãy phố. Ngôi nhà này là chú rể mua lại nguyên căn, thuê thợ sửa chữa, tân trang lại và mua sắm vật dụng là những thứ đồ cổ đắt tiền như sập gụ, tủ chè, sa lông Tàu…Bốn cô phù dâu được nhà trai may biếu không bốn chiếc áo gấm thất thể Thượng Hải. Bốn cậu phù rể được chú rể may tặng bốn bộ complet bằng dormueil màu trắng ngà, một loại tissu len rất đắt tiền.
Đám cưới của chị Ngọc Bích không biết có chi hết 20 triệu đồng không? Nhưng sau đó khoảng gần hai mươi ngày thì tờ báo tư nhân có tên Thời Mới do ông Hiền Nhân làm chủ bút đã đăng feuilleton bài 18 ngày trăng mật? Và tác gia Trần Huyền Trân có vở cải lương Ngược dòng, làm xôn xao dư luận Hà Thành?!
Áo cưới của cô dâu Thúy Minh, may bằng gấm thất thể (bảy màu) Thượng Hải – chiếc áo mà hôm 6/11/2017 vừa rồi – Thúy Minh mang ra mặc để phục dựng bộ ảnh cưới thì không mặc được vì chật. Đây là chiếc áo dài do hiệu may ta nổi tiếng Phúc Trạch ở phố Lương Văn Can đo may từ đầu năm 1957. Bộ complet croisé bằng tissue len của tôi may tại Trạm May mặc số 3, 63 hàng Trống. Tiền do ba me nuôi của tôi là ông bà Vũ Thư cho. Chiếc cravate màu đỏ thì mua ở hiệu Đức Minh, phố Tràng Tiền. Đôi giầy da đen thì thửa tại hiệu giầy Nguyên ở ngõ Văn Chương.
Đến giờ khai mạc, ông Lê Xứng thay mặt họ nhà trai nói mấy lời vắn tắt đại khái là đôi tân hôn làm lễ cưới chính thức được luật pháp công nhận. Ông chúc mừng đôi bạn trẻ “bách niên giai lão”! Chúc mừng ông bà Tân Việt có rể thảo! Chúc mừng cơ quan và nhà trai có cô dâu hiền! Ông tỏ lời cảm ơn quý vị tân khách có mặt hôm nay. Cuối cùng ông mời mọi người dùng tiệc trà.
Phần liên hoan văn nghệ do Chi đoàn Thanh niên chủ trì. Các bài hát cách mạng và kháng chiến được cất lên. Hát chay, không có nhạc đệm, không có micro. Cô Chu Minh Hằng và Kim Oanh góp vui bằng những vần thơ. Minh Hằng diễn ngâm bài thơ của nhà thơ Huy Huyền, trong đó có những câu:

Em ơi! Tiếng là cưới, có gì đâu, chỉ ấm nước cơi giầu
Bởi chúng mình thương nhau, mẹ cha làm lễ cưới
Bạn bè xa cũng tới, họ hàng gần cũng sang
Thêm đồng chí Ủy ban. Thế là vui biết mấy!

Cô Kim Oanh diễn ngâm bài thơ Mừng đám cưới Xuân Bảo – Thúy Minh của nhà thơ trào phúng Nguyễn Đức Xa, người làng Thanh Liệt, quê của tác giả Thất trảm sớ Chu Văn An. Cụ Nguyễn Đức Xa là nhà thơ trào phúng, đã có rất nhiều thơ châm biếm đăng trên báo Hà Nội mới, ở chuyên mục “Chuyện lớn chuyện nhỏ”.
          Dưới đây là nguyên văn nội dung bài thơ đó:

                              Tặng đôi bạn trẻ: XUÂN BẢO – THÚY MINH

                                                                   Nhân NGÀY CƯỚI 04-02-1961.

Xuân Bảo - Thúy Minh đôi bạn trẻ
Lễ Thành hôn vui vẻ giữa trời đông
Xuân đã tươi như một đóa hồng nhung
Tình lại đẹp như bản đàn nhà nhạc sĩ
Xuân Bảo Thúy Minh yêu nhau vì tâm lý
Nên hai bạn Minh - Bảo mến thương nhau
Uyên ương gối thắm tươi màu
Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời

                                                Thanh Liệt, 04/02/1961

Kính thưa hương hồn Bác NGUYỄN ĐỨC XA!
Câu thơ Chúc của Bác giờ đây chúng cháu vẫn lấy làm phương châm cho cuộc sống vợ chồng: “Uyên ương gối thắm tươi màu/Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời...”. Trong những năm gian khó của Hà Nội thời đánh Mỹ, dù gặp nhiều khó khăn trong đời sống, chúng cháu vẫn âm thầm lặng lẽ hy sinh cùng nhân dân thủ đô hoàn thành sứ mệnh đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Và hơn 40 năm sau giải phóng đất nước, còn bao nhiêu khó khăn thiếu thốn, chúng cháu vẫn thầm nhắc câu thơ của Bác để cùng nhau xây dựng tổ ấm gia đình.




Giờ đây, thế mà đã 58 năm trôi qua. Trong những năm khốc liệt của chiến tranh chống Mỹ cứu nước, vợ chồng chúng tôi vẫn toàn tâm toàn ý với chế độ. Và bây giờ tôi đã bước sang tuổi bát tuần, nhà tôi cũng suýt soát dưới tám mươi. Chúng tôi đã có chắt gọi bằng Cụ. Chúng tôi luôn tâm niệm câu chúc của anh Lê Xứng ngày đó: Bách niên giai lão! Và hai câu thơ của Cụ Nguyễn Đức Xa:

 Uyên ương gối thắm tươi màu
Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời!

Bên bờ Phước Long Giang – Kỷ niệm 58 năm ngày cưới 4.2.1961 – 4.2.2018