Trang

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2018

219. Bài thơ viết cách đây nủa thế kỷ




219. Bài thơ viết cách đây nửa thế kỷ.

1.CÒN ĐÓ CHÚT TÌNH BUỔI XẾ TÀ

Ngày này cách đây đúng 2 năm. Đó là 25/02/2016. Bích Hạnh từ HàNội vào Biên Hòa và ngày 31 Tháng 3 2016 tôi đã poste lên MXH bài viết này.

Ở cái tuổi 77 mà còn gắng sức để vượt hơn 1700 cây số từ Hà Nội vào Sài Gòn là một điều đáng quý. Có lẽ chuyến đi này của Bích Hạnh là chuyến đi “dối già” để thăm thú mảnh đất cuối trời phương Nam. Để gặp lại những bà con thân thích, bạn bè thuở thiếu thời và gặp lại “người tình trong mộng”.
Tôi đón Bích Hạnh và các cháu Nguyễn Thị Minh Lạng, Thúy Bắc vào một sáng mùa xuân mà “Thiều quang chín chục đã ngoài một phần hai”, tức là vào ngày 17 tháng hai Giáp Thân, nhằm ngày 25 thảng 3 năm 2016. Trong câu chuyện hàn huyên, chúng tôi nhắc đến nhiều kỷ niệm ch1 đây vế Hà Nội. Bích Hạnh còn nhớ và nhắc lại: chiều 22 tháng 2 năm 1976, trên sân ga Hàng Cỏ (ga Hà Nội), Bích Hạnh và Huyền Anh ra tiễn gia đình chúng tôi vào Nam. Trong giờ phút lưu luyến này, tim tôi như thắt lại. Xa rồi 20 năm sống giữa lòng thủ đô yêu quý, biết mấy buồn vui, biết bao niềm thương va nỗi nhớ!
Như vậy, đến hôm nay là vừa tròn 40 năm, 1 tháng và 3 ngày (22-2-1976 – 25 -3-2016), chúng tôi xa Hà Nội đến với Trấn Biên (Biên Hòa). Cây xoài cát Lộc Hà trong sân nhà chúng tôi cũng đã xấp xỉ 39 tuổi. Bích Hạnh nhớ hồi cách đây gần 28 năm, cây xoài mới cao chỉ chừng quá tầm tay với, thế mà đã cho trái trĩu cành. Đó là năm mà Châu Âu vào mùa bóng Euro 1988. Năm đó tôi về Hà Nội và đã viết nên cái bút ký “Hà Nội cơn lốc Tháng Bảy”. (Xem toàn văn trên Blog: xuanbaohanoi.blogspot.com). Tôi làm mấy câu thơ để ghi lại sự kiện này.

Còn đó chút tình buổi xế tà
Vượt ngàn dặm ngái đến cùng ta.
Hoàng hôn tím đậm trời Biên Trấn
Vương vấn giọt buồn nỗi cách xa!
Xuân Bảo
(bên bờ Phước Long Giang, sáng 30 tháng 03 năm 2016).




2. BÀI THƠ VIẾT CÁCH ĐÂY NỬA THẾ KỶ.

Bài thơ này đã được in trong tập “Mấy nhành hoa tím”         Nhà Xuất bản Đồng Nai ấn hành năm 1997.

Đã tám mùa xuân
                             Gửi Bích Hạnh

Biết em tám mùa xuân
Trọn tám mùa thương nhớ
Xa em tám mùa xuân
Tám mùa đào vẫn nở

Em lại tới cùng anh
Mưa buồn qua cửa
Nhựa vẫn chuyển cành xanh
Mà khối tình tan vỡ

Biết nói gì với em
Khi thuyền rời xa bến
Đây lời thơ tâm tình
Gửi em niềm thương mến

Hà Nội đã vào xuân
Xa em da diết nhớ
Nghe triều dậy lòng anh
Sóng triền miên vỗ vỗ.

                   Hà Nội, xuân 1968.
                                  Xuân Bảo

Bên bờ Phước Long Giang, ngày 22 tháng 03 năm 2018

218. MỘT KỶ NIỆM VỚI ĐIỆN ẢNH VN


218.MỘT KỶ NIỆM NHỎ VỚI ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM.

Hồi ức của nhà thơ Xuân Bảo

Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 147/SL.

Ngày 15/3/1953, giữa Thủ đô Gió ngàn, tại khu Đồi Cọ, bản Bắc thuộc xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 147/SL đặt Phòng Điện nhiếp ảnh trong Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thành “Doanh nghiệp Quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam” - tiền thân của Điện ảnh cách mạng Việt Nam. Từ đó, ngành Điện ảnh Cách mạng Việt Nam chính thức ra đời và từng bước phát triển.
Trên hành trình bôn ba khắp năm Châu để tìm đường cứu nước, vào những năm hai mươi của thế kỷ XX, Bác Hồ đã được tiếp cận với nền điện ảnh thế giới. Bác đã hiểu rất sâu sắc vai trò và sự tác động mạnh mẽ, trực tiếp, sâu rộng và phổ cập của loại hình nghệ thuật điện ảnh. Bên cạnh tư duy mẫn tiệp, sự nhìn xa trông rộng của một nhà chiến lược văn hóa kiệt xuất, Bác còn là “bạn đồng nghiệp” rất thân thiết và gần gũi đối với các nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam ngay từ những bước đi chập chững đầu tiên.
Năm 1953, thời điểm này, cuộc “kháng chiến trường kỳ chống Pháp” của nhân dân ta vào giai đoạn quyết liệt nhất. Quân dân ta chuyển giai đoạn từ “phòng ngự” sang “tổng phản công”. Trên toàn chiến trường Đông Dương, tướng Henri Navarre co cụm lại và xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ. Nhưng rồi “kế hoạch Navarre” cũng tan thành mây khói!
 Nhân dân Liên Xô đặc biệt quan tâm và viện trợ vô điều kiện cho Việt Nam. Trong lĩnh vực điện ảnh Việt Nam được đón tiếp nhà đạo diễn và quay phim nổi tiếng Roman Lazarevich Karmen.
Đối với nền điện ảnh cách mạng Việt Nam non trẻ, R. L. Karmen như người thầy, người anh, người bạn lớn. Bộ phim "Việt Nam" của ông đã để l1 lợiại dấu ấn và những kinh nghiệm sâu sắc cho nền điện ảnh Việt Nam.Sau này đổi thành “Việt Nam trên đường thắng lợi”.Đây là bộ phim màu đầu tiên.
 Ngày 18-7-1955, đạo diễn Roman Karmen vinh dự được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất.
Roman Karmen (1906 - 1978) là một trong những nhà làm phim tài liệu vĩ đại nhất thế kỷ XX. Cuộc đời nghệ thuật của ông rất đa dạng trong các vai trò: Đạo diễn, biên kịch, quay phim, nhà báo, nhà sư phạm điện ảnh. Những thước phim tư liệu mà Karmen để lại thật sự là những thiên anh hùng ca huyền thoại. Ông là người viết sử bằng máy quay.
Đạo diễn Roman Karmen cùng hai đồng sự Xôviết Evghenhi Mukhin và Vladimia Echurin được Nhà nước Liên Xô giao nhiệm vụ sang Việt Nam làm phim tài liệu vào những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ. Được sự chỉ dẫn của Bác Hồ, sự giúp đỡ tận tình của các đồng nghiệp và nhân dân Việt Nam, Karmen đã miệt mài lao động, hoàn thành xuất sắc bộ phim màu "Việt Nam" (1954) ghi lại những giây phút hào hùng nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những năm tháng hòa bình đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam.
Tháng 10/1954, từ chiến khu Việt Bắc, Roman Karmen về Hà Nội để chứng kiến giờ phút bộ đội ta tiếp quản Thủ đô. Theo lời kể của ông Lưu Phúc Thái, sĩ quan liên lạc dẫn đường cho đạo diễn Roman Karmen ở Hà Nội, đoàn làm phim đi trên 3 chiếc xe Commăngca, xuất phát từ làng Vòng lúc 5h30 sáng ngày 9/10, tiến vào trung tâm thành phố. Đường phố Hà Nội vắng vẻ, chỉ có những người lính Pháp chuẩn bị cho cuộc ra đi vĩnh viễn... Chợt Karmen muốn được quay cảnh bối rối của lính Pháp trước giờ rút khỏi Hà Nội nên đoàn làm phim tiến vào khu Cột Cờ, điểm không có trong kịch bản. Đến 16h30 cùng ngày, khi những chiếc xe cuối cùng của quân Pháp rút qua cầu Long Biên, Karmen quay cảnh nhân dân Hà Nội đổ ra đường với ngập tràn cờ hoa. Người người rộn ràng theo đoàn quân giải phóng tiến về Bờ Hồ. Đoàn xe của Karmen đi đầu, ông đứng trên xe, hiên ngang giữa rừng cờ hoa. Nhân dân reo hò và vị đạo diễn đã hướng ống kính máy quay ghi lại những hình ảnh cảm động ấy.
Sau bộ phim "Việt Nam", Karmen còn viết 2 cuốn sách về những kỷ niệm ở Việt Nam "Ánh sáng trong rừng sâu" (1957) "Việt Nam chiến đấu" (1958) với nhiều câu chuyện hay và cảm động. Ông cho biết, hình ảnh đoàn quân giải phóng tiến vào tiếp quản Thủ đô trong sự chào đón nồng nhiệt của đông đảo người dân Hà Nội là cảnh quay đẹp. Ông đã chuẩn bị cho những cảnh quay này rất kỹ với một niềm ưu ái và cảm hứng vô bờ. Karmen viết: "Bảy tháng ở Việt Nam, thời gian trôi nhanh đến mức không kịp nhận ra những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh đã qua, những ngày hòa bình đầu tiên đã đến. Trong tôi không thể nào phai mờ được những kỷ niệm về các cuộc gặp gỡ với nhân dân Việt Nam, những trẻ em, bộ đội, du kích, những bộ trưởng, thầy giáo, công nhân, nông dân… Lần đầu tiên trong đời, tôi đến đất nước và suốt đời tôi còn yêu mến nó".

Tôi thi vào Trường Điện ảnh đầu tiên.

                    Đầu năm 1958, tôi đang thực tập tại nhà Máy xay Đáp Cầu (Băc Ninh) thì nhận được Giấy báo dự tuyển vào Trường Điện ảnh Việt Nam, khóa đào tạo đạo diễn và diễn viên đầu tiên. Tôi xin được nghỉ phép năm và tức tốc về Hà Nội. Tôi về ở tại nhà ba me nuôi của tôi là ông bà Vũ Văn Thư tại 20 ngõ Yên Ninh (Ba Đình).
          Ngày hôm sau (tôi không nhớ rõ là ngày nào) tôi đến nơi khảo thí. Ngôi nhà này nằm trên đoạn đầu đường Trần Phú, gần đường xe lửa. Phía sau là ngôi biệt thự 24 Cột Cờ, nơi ở của 2 nhà thơ lớn Cù Huy Cận và Xuân Diệu.
           Xuân Diệu có câu thơ nhắc nhở thiên hạ: “Nhà tôi 24 Cột Cờ/Ai yêu thì đến hững hờ thì thôi’. Tại đây tôi có vinh dự được làm quen với “ông phán finance Mỹ Tho Ngô Xuân Diệu” * và được nhà thơ tặng 2 tập thơ vừa mới xuất bản. Đó là tập Một Khối Hồng và tập Riêng Chung.Thời gian này tôi cũng chập chững bước vào Làng Thơ. Có lần tôi rụt rè đưa bài thơ mới làm cho thi sĩ. Ông xem xong, vò nát vứt vào sọt giấy loại! Tôi không tự ái mà 2 năm sau, tôi lại tới “24 Cột Cờ” đưa cho ông xem bài thơ của tôi đăng trên Người Hà Nội. Lần này, khi xem xong, ông chỉ phán có hai từ “Được đấy”!
. Cùng lớp đi thi đầu tiên này tôi có quen biết với Huy Phương, Lâm Tới, Tuệ Minh, Ngọc Lan, Minh Châu, Thượng Soạn, Bích Được và rất nhiều người khác, tôi không biết hết. Người thầy chấm thi là nghệ sĩ Huân công Mônakhov của Liên Xô. Tôi thi đến vòng “tiểu phẩm” thì bị loại.
*Nhà thơ Xuân Diệu có thời làm công chức “tài chính, thường gọi là ông phán finance tỉnh Mỹ Tho”.





Tôi đi đóng phim truyện “Lối rẽ trái trên đường mòn”.

Năm 1985, sau 27 năm thi hỏng vào ngành điện ảnh thì đột nhiên tôi được nhà đạo diễn - nghệ sĩ nhân dân Huy Phương cất công từ Hà Nội vào mời tôi tham gia đóng phim “Lối rẽ trái trên đường mòn”.
Đây là bộ phim nói về đề chủ đề công nghiệp hóa. Kịch bản văn học của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Nguyễn Mạnh Tuấn trước đó đã có kịch bản phim Đứng trước biển, chuyển thể từ tiểu thuyết Cù lao Chàm của cùng tác giả. Trên bảng giới thiệu phim có đạo diễn Huy Thành, phó đạo diễn Nhật Ninh, quay phim Lê Đình Ấn, âm nhạc Hồng Đăng. Các vai chính: Lâm Tới. Kim Chi, Kim Thành. Các vai khác có Lê Cung Bắc, Xuân Bảo, Ngọc Bích…Tôi được giao vai Chánh Thanh tra Bộ (Công nghiệp Nặng). Thời lượng là 97 phút. Con gái thứ hai của tôi Nguyễn Thúy Ngọc được phân công đóng vai quần chúng - công nhân của nhà máy Luyện Cán thép. Bối cảnh và phim trường  được chọn là Nhà máy Luyện Cán thép Vicasa nằm trong Khu Công nghiệp Biên Hòa.
Hiện tại trên Trang Phim hay Điện ảnh có Phim Lối rẽ trái trên đường mòn dược xếp vào danh mục “Phim Việt Nam cũ hay nhất”.













Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2018

217. 10 bài thơ viết về chủ đề Nguyên tiêu




Mục lục 10 bài thơ mang chủ đề Nguyên tiêu cuả nhà thơ Xuân Bảo sáng tác.

1.    1 Sông khuya
2.     Trăng Giêng
3.     Khúc Nguyên tiêu
4.     Khấn Nguyên tiêu
5.     Ngày Thơ Việt Nam
6.     Thuyền neo sông Đáy
7.     Xuân Thơ
8.     Mở Ngày Hội Thơ
9.     Chào Ngày Hội Thơ
10. Đánh giặc và làm thơ

Bài 1. Sông khuya
Trên sông nơi ấy Bác làm thơ
Gió thoảng thuyền trôi bóng tỏ mờ
Vằng vặc rằm giêng soi sóng nước
Bồng bềnh tiên cảnh dệt đường tơ
Giữa trời man mác lồng xuân tứ
Dưới ánh nguyên tiêu lộng ý thơ
Người vịnh Đường thi bàn quốc sự
Trăng vàng bát ngát đẹp như mơ
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang sáng 29 Tết Mậu Tuất (14/2/2018)

Bài 2. Trăng giêng
Lồng lộng trăng soi khắp mọi miền
Qua rồi bão tố bến bình yên
Trời quang mây tạnh ngày xuân đẹp
Vang vọng thơ Người " Nguyệt chính viên"
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang sáng 30 Tết Mậu Tuât (15/2/2018)

Bài 3.  Khúc Nguyên tiêu*
Ngày xuân rạng rỡ ánh thiều quang
Một khúc Nguyên tiêu vọng núi ngàn
Việt sử oai hùng trang tự chủ
Giang sơn một cõi vững âu vàng
___*Ngày Thơ Việt Nam được chính thức công nhận kể từ Nguyên tiêu Quý Mùi 2003
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang.Trưa mùng 1 Tết Mậu Tuất (16/2/2018)

Bài 4. Khấn Nguyên tiêu
Xin dâng lên một nén hương trầm
Khấn nguyện Nguyên tiêu dạo khúc ngâm
Thơ Bác nghìn sau vang mãi
Non sông ngời ngợi ánh trăng rằm.
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang, sáng mùng 2 Tết Mậu Tuất (17/2/2018)
Bài 5. Thơ với Ngày Thơ
Trăng lên sóng dậy cuộn đôi bờ
Non nước tưng bừng rộn tiếng tơ
Ngọn bút thêu vần mừng Tổ quốc
Cung đàn dệt mộng đón Ngày Thơ
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang, sang ngày mùng 4 Tết Mậu Tuất – tức ngày 19/2/2018.



Bài 6. Thuyền neo sông Đáy
Đôi bờ sông Đáy rợp trời xuân
Rạng rỡ “rằm giêng” dát ánh vàng
Việc nước bàn mưu tiêu diệt giặc
Thuyền về bát ngát ngập tràn trăng
Nhà thơ Xuân Bảo
          Bên bờ Phước Long Giang, trưa ngày mùng 3 Tết Mậu Tuất –  tức ngày 18/2/2018

Bài 7. Xuân Thơ
Ta vẽ lên trời ngọn bút thần
Chữ Thơ rạng rỡ giữa ngày xuân
Nguyên tiêu vằng vặc trăng rằm tỏ
Hằng nga lưu luyến với thi nhân
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang, năm 2011.

Bài 8.  Mở hội Ngày Thơ
Triều dâng sóng dậy tỏa đôi bờ
Đất nước hồng tươi lộng sắc cờ
Tứ gấm hân hoan tràn bến mộng
Lời hoa thắm thiết khẳm thuyền mơ
Nguyên tiêu khởi sáng lung linh ngọc
Thơ Bác tiếp vần óng mượt tơ
Nam Bắc tưng bừng vào hội lớn
Xuân về dào dạt đón Ngày Thơ
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang, năm 2010.

Bài 9. Chào Ngày Hội Thơ
Văng vẳng đất trời dội khúc ngâm
Nguyên tiêu tỏa rạng ánh trăng rằm
Đài Nghiên mãi đọng câu văn hiến
Tháp Bút còn nguyên dấu nét thần
Văn Miếu cờ thơ soi ngấn nước
Ba Đình lời Bác vọng muôn năm
Hồn thiêng dân tộc đúc hào khí
Dào dạt nguồn thơ đượm ý xuân
Nhà thơ Xuân Bảo
Bên bờ Phước Long Giang, đêm mùng 5 Tết Mậu Tuất tức 20/2/2018.

Bài 10. Đánh giặc và làm thơ
Việt Nam đánh giặc, giỏi làm thơ
Hun đúc khí thiêng tự bao giờ
Đại cáo Bình Ngô hồn Nguyễn Trãi
Tuyên ngôn Độc lập chí Già Hồ
Thanh gươm trừ bạo ngời trang sử
Ngọn bút tài hoa đẹp tiếng tơ
Non nước yên bình tình rạng rỡ
Ngàn năm văn hiến bụi không mờ.

Bên bờ Phước Long Giang, ngày thứ hai - Ngày Thơ Việt Nam, Nguyên tiêu Mậu Tuất – 2018
                                                  Nhà thơ Xuân Bảo

216. Bác và Trăng (Tiểu luận)


                             BÁC VÀ TRĂNG
                                  Tiểu luận cuả nhà thơ Xuân Bảo.
Tự cổ chí kim, từ Âu sang Á, những nhà thơ không ngừng lấy cảm hứng từ “phong, hoa, tuyết, nguyệt”. Nguyệt- cái ánh sáng lung linh, huyền ảo, cao khiết giữa bầu trời đêm, giữa muôn vàn tinh tú của vũ trụ bao la thường đem lại nhiều cảm xúc cho nhà thơ.
Dù là ánh trăng non thượng huyền mỏng như lá lúa, mềm như liễu nhưng cũng đủ ngân lên:
“Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung…(1)”, hoặc trăng hạ huyền, ánh trăng sắp lặn  để cho mới đang đến dần thì vẫn cứ là đẹp:
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,,,(2)”
Trong cuộc đời của mình, Bác Hồ của chúng ta có đến ba bài thơ nói về trăng. Nhưng không phải:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây…(3) mà là thể hiện yêu vẻ đẹp trời đất của một thi nhân. Trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh đã viết:
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thủ lương tiêu nại nhược hà
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia
                                      (Vọng nguyệt)
Dịch thơ:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
                                        (Ngắm trăng)
Trong hoàn cảnh ngặt nghèo của sự tù túng, Bác của chúng ta vẫn biểu lộ một phong thái sống ung dung, ngắm trăng trong tư thế chủ động. Trong tù, ngay cả tự do còn khó kiếm. Ở đây rõ ràng là không có rượu và không có hoa. Dĩ nhiên rồi, nhưng người thơ Hồ Chí Minh lại thấy trăng như một người bạn tâm giao. Thấy trăng ngoài kia, trăng trên cao kia sao Bác lại bối rối nhỉ? (nại nhược hà). Chính trong cơn bối rối đó Bác lại thấy không thể nào hững hờ với trăng cho được. Một tâm hồn thơ mộng quá đỗi!
          Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
          Chỉ có những tâm hồn cao đẹp mới dạt dào, tinh tế trước một ánh trăng như trăng đêm nay. Người đã vượt lên và quên đi cảnh “trong tù không rượu cũng không hoa” rồi. Thật là lãng mạn! Hồ Chí Minh ngắm trăng ngoài cửa sổ. Còn trăng thì “nguyệt tòng song khích” qua song cửa nhà tù để “khán thi gia”. Nguời đây là người tù, là Bác của chúng ta đang ngồi tù. Ý thơ chuyển vận thật là tài tình từ người tù sang nhà thơ. Duy chỉ có cái song cửa nhà tù là thực tại thô bạo, nhưng chúng cũng phải bất lực trước con người thơ Hồ Chí Minh. Ở đây không hề thấy bi lụy (trước cảnh tù) mà chỉ còn lại sự hòa quyện giữa trăng và thi nhân. Dù ở vào hoàn cảnh nào Hồ Chí Minh vẫn vững vàng trong tư thế chủ thể của một con người – con người cách mạng – không có sức mạnh huyền bí hay thực tế phũ phàng nào lay chuyển được ý chí của một nhà cách mạng thực thụ.
            Trên đây là bài thơ Bác viết lúc ngồi tù vào khoảng năm 1942 (trích Nhật ký trong tù) lúc nước nhà chưa giành được độc lập cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công và hơn một năm sau đó (ngày 19-12-1946) toàn dân ta lại đi vào cuộc trường kỳ chống bọn thực dân Pháp. Chúng muốn xâm chiếm nước ta một lần nữa. Bác của chúng lại phải xa Hà Nội để lên Việt Bắc thành lập một “thủ đô gió ngàn” giữa núi rừng, lãnh đạo kháng chiến. Bác đi chiến dịch Thu Đông 1947. Bác lặn lội qua suối, qua khe. Trên mình ngựa, Bác qua các nẻo đường Việt Bắc. Cuộc kháng chiến dù bận trăm công nghìn việc, ở cương vị là vị Thống soái của quân đội, Bác đã từng nói: “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn thì cũng phải giành cho được độc lập”.
                Thế mà, nhà thơ Hồ Chí Minh đã ngắm một cảnh khuya, cảm nhận được “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” và lại thấy trăng – người bạn tâm giao – trong tán cây cổ thụ, trong hoa rừng “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”.
          Trên cao xanh kia là nguyệt – ánh trăng bao trùm lên tất cả với vẻ đẹp thuần khiết trong cái đêm khuya thanh vắng đến nỗi cho ta nghe được tiếng suối trong. Tuy nhiên nhà thơ đã tự nhắc nhở mình rằng: cảnh có đẹp đấy nhưng không thể nào ngủ được. Ngoài tấm long lưu luyến với trăng, Người còn lo bao nỗi lo khác mà trong đó:
          Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
          Đúng vậy, như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
          Bác ngồi đó với cây chì đỏ
          Chỉ đường đi từng phút từng giờ
          Ở đây không có cảnh giặc Pháp nhảy dù Băc Kạn, không có cảnh từng đoàn tù binh nối dài của hai sư đoàn thiện chiến Lepage va Charton đầu hàng bộ đội Việt Minh, không có tiếng bom rền, đạn xé cuả chiến tranh nữa, chỉ còn lại “cảnh khuya như vẽ”.
Dù có đẹp đến mấy thì với cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Bác phải lo toan, tính toán làm sao để đánh thắng quân thù. Đọc đến đây ta cảm nhận được một tư thế, một vóc dáng cuả nhà thơ thật vô cùng lớn lao, vô cùng vĩ đại. Đúng như câu:
Tiên thiên hạ chi ưu
           Hậu thiên hạ chi lạc
Một hồn thơ giản dị, một áng thơ mộc mạc và một tâm hồn nghệ sĩ đã rót vào bài thơ cái cốt cách vĩ đại mà chỉ có ở nhà thơ Hồ Chí Minh.
Thế mới biết nhà thơ Hồ Chí Minh, nhà quân sự lỗi lạc Hồ Chí Minh đã yêu trăng đến nhường nào. Bạn trăng cũng thường nũng nịu với thi nhân:
          Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Và Bác đã khất:
           Việc quân đang bận xin chờ trăng ơi!
Chú  thích
(1)   Thơ Đường
(2)   Thơ Trương Kế
(3)   Thơ Sóng Hồng

       Bên bờ Phước Long Giang-những Ngày Thơ Việt Nam, Giêng Mậu Tuất 2018.
                                                                  Nhà thơ Xuân Bảo