Trang

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2018

233. NGÀY THU BUỒN 2

10. CHÙM THƠ VĂN VIẾT VỀ MÙA THU 2018

 NGÀY THU BUỒN 2. NHỚ LƯU QUANG VŨ – XUÂN QUỲNH…

Hôm nay 29/8 cách đây đúng 30 năm gia đình nhỏ của Lưu Quang Vũ bị tai nạn giao thông thảm khốc tại chân cầu Phú Lương, Hải Dương. Tôi viết những dòng này để tưởng niệm:
-         Nhà viết kịch tài hoa của đất nước Lưu Quang Vũ, đa tài đoản mệnh.
-         Nhà thơ Xuân Quỳnh- người phụ nữ đa đoan và bạc phận.
-         Cháu Lưu Quỳnh Thơ, tuổi thiên thần và vô tội.
                                                              Nhà thơ Xuân Bảo
                                                ***
Hà Nội tháng 8 năm 1988.
Tôi lưu lại thủ đô gần 1 tháng và viết thêm được cái bút ký Hà Nội cơn lốc tháng bảy. Trong tác phẩm  có những đoạn:…Kỳ lạ thay. Đôi mắt em vẫn đượm nét u sầu, ủ dột. Và vầng trán ấy nặng trĩu ưu tư. Và với anh, em rất gần lại rất xa. Chúng ta lại sóng bước trên từng viên đá lát của đường phố Hà Nội. Chúng ta lại vào Nhà hát Lớn, vào rạp Công Nhân, Hồng Hà. Những vở kịch không vui sao lắm thế? “Đêm mùa hạ cay đắng”, “Những đứa con oan nghiệt”, “15 ngày kháng án”, “Mảnh đời ngộ nhận” và “Ông không phải là bố tôi”. “Nhân danh công lý”, “Sống mãi tuổi 17”, “Nàng Sita”, “Hẹn ngày trở lại”, “Nếu anh không đốt lửa”, “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Lời thề thứ 9”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Bệnh sĩ”…
          Tôi còn nhớ một buổi sáng hạ tuần tháng 8 năm 1988, nhận lời mời của Vũ tôi cùng Thanh Hà vào Nhà hát Lớn xem tổng duyệt vở Bệnh sĩ.
Tôi ở cùng phố Huế với Lưu Quang Vũ và quen biết Lưu Quang Vũ khi ông kết hôn với Tố Uyên và về ở ngôi nhà 96 phố Huế - nơi trước giải phóng thủ đô là khách sạn Lục Quốc – sau này chính quyền Hà Nội tịch thu. Phần phía dưới làm cửa hàng mậu dịch quốc doanh bán bách hóa tổng hợp. Các tầng trên bố trí nhà tập thể cho các văn nghệ sĩ, trong đó có gia đình nhà biên kịch Lưu Quang Thuận, thân phụ của Vũ; có gia đình nhà văn Hà Mậu Nhai và Ngô Thị Thái và nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khác.
Tôi cũng quen biết với gia đình Tố Uyên khi đang ở tại số nhà 67 Huyền Trân công chúa (sau giải phóng thủ đô đổi thành phố Bùi Thị Xuân). Tố Uyên là con của một gia đình trí thức. Bố là giáo sư. Tôi đã học tiếng Anh với thầy khi ông phải dạy thêm vào buổi tối để kiếm sống. Tố Uyên có người chị tên là Tố Uyển, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, được phân công về dạy bên Đông Anh. Tố Uyển là vợ của nhà báo Hoàng Dương, phó trưởng ban Ban Công Thương của Việt Nam Thông tấn xã. Tôi được Hoàng Dương nhờ xin Sở Giáo dục Hà Nội (hồi này chưa có chữ Đào tạo đi kèm) cho Tố Uyển chuyển về dạy trong nội thành để được cùng chồng chăm nom gia đình.
 Các tác phẩm của Lưu Quang Vũ đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng công chúng. Tác phẩm ông nổi bật lên từ những năm sau chiến tranh, đặc biệt là những năm 1980. Ông đã từng sống những năm tháng tuổi trẻ trong chiến tranh, vào bộ đội chiến đấu và trở về sống trong một thời kỳ khó khăn của nước nhà. Các vở kịch, thơ, truyện ngắn của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn và in đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông. Mới 40 tuổi, Lưu Quang Vũ đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của ông đều được các đoàn kịch, chèo gây dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng. Các tác phẩm của ông đã làm sôi động sân khấu Việt nam và dậy sóng trong lòng nhân dân thời kỳ đó.
Lưu Quang Vũ không chỉ viết kịch mà còn làm thơ và viết truyện ngắn. Thơ Lưu Quang Vũ bay bổng, tài hoa, giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Rất nhiều bài thơ được bạn đọc yêu thích như: Và anh tồn tại, Tiếng Việt, Vườn trong phố, Bầy ong trong đêm sâu.... Truyện ngắn của Lưu Quang Vũ mang đậm phong cách riêng.
Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài nhưng đoản mệnh! Và ứng theo câu truyền ngôn “sinh nghề, tử nghiệp”!
                                                ***
Sau ngày Quốc khánh 2/9/1988, tôi về Biên Hòa được mấy hôm thì nghe tin gia đình nhà viết kịch tài ba bị tai nạn giao thông khủng khiếp tại đầu cầu Phú Lương (Hải Dương). Đau đớn và tiếc thương, tôi không muốn nhắc đến nguyên nhân vụ tai nạn thảm khốc này.
 Như vậy tính đến hôm nay (29/8/1988 – 29/8/2018) vừa tròn 30 năm, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và cháu Lưu Quỳnh Thơ mãi mãi ra đi không về! Tôi viết những dòng này để bày tỏ niềm thương xót cho một “tài hoa của đất nước” – người đã để lại cho hậu thế một gia tài kịch bản đồ sộ - làm rung động day dứt lòng người; để lại niềm ái mộ đối với môt tài thơ đa đoan và bạc mệnh Xuân Quỳnh và oán giận con tạo sao nỡ đang tay cướp đi một sinh linh bé bỏng Lưu Quỳnh Thơ, không làm gì nên tội!
Bên bờ Phước Long Giang, một ngày thu buồn – ngày giỗ lần thứ 30 của gia đình nhỏ Lưu Quang Vũ
.
8 GIỜ SÁNG NGÀY 29/8/2018

Nhà thơ Xuân Bảo







Thứ Ba, 28 tháng 8, 2018

232. Một ngày thu buồn 1.


CHÙM THƠ VĂN VIẾT VỀ MÙA THU 2018.

232. MỘT NGÀY THU BUỒN 1-   CÓ MỘT TÊN LỪA ĐẢO TẦM CỠ

Năm 1988, châu Âu sôi động mùa bóng đá EURO 88 tôi về thủ đô để tìm thêm tư liệu về một doanh nhân tự nhận mình là tỷ phú đôla của Việt Nam. Ông ta tự xưng là doanh nghiệp Phú Mỹ Hưng. Xin đừng nhầm với Phú Mỹ Hưng nam Sài Gòn. Khi đến làm việc với Sở Giao thông vận tải Đồng Nai (lần đầu), đoàn của ông ta đi xe thuê. Điều này tôi biết được là cái tính hay hỏi của nhà báo. Trong đoàn còn có vài ba người mà sau này phó giám đốc sở GTVT nhận ra là có một vị tướng từng là thủ trưởng của ông ta từ hồi ở Đoàn 559 Vận tải Trường Sơn; một vị có tên là Phạm Tất D. cũng là giáo sư, tiến sĩ gì đó, cán bộ cao cấp của một bộ ngành nào đó?
          Tôi được giám đốc sở Nguyễn Thanh Hồng mời dự họp với 2 tư cách. Một là đại diện phía Công đoàn ngành. Hai là, để đưa tin. Sau cuộc họp, Sở mời các vị trong đoàn ra nhà hàng Quyết Thắng dùng cơm. Tôi được ngồi cùng bàn với vị giám đốc Phú Mỹ Hưng. Tôi để ý thấy sau khi đứng lên, trên bàn có bao thuốc lá ba số 555 còn chừng dăm điếu, ông giám đốc nhanh nhẹn nhặt lấy và đút túi quần. Hành vi này của vị giám đốc làm tôi nghi ngờ cái danh xưng “tỷ phú đôla” này ngay từ phút gặp đầu tiên.
          Và lần diện kiến thứ hai, tôi đề nghị giám đốc sở mời thêm đại diện phòng Cảnh sát hình sự tỉnh tham dự. Lần này, đoàn không đi xe thuê mà điện thoại cho giám đốc sở cho xe của sở xuống số nhà…Mai Văn Lựu đón. Lần này, không có các vị khách như lần trước mà chỉ có thêm một người đàn bà. Theo ông ta thì đây là vợ ông ta. Xe đỗ, ông giám đốc xách theo một cái lon, vốn là lon đựng sơn đã qua sử dụng. Vào phòng họp, ông ta đưa cái lon này ra và lấy cái que vục lên một cục màu đen và giới thịêu: Đây là loại nhựa đường tốt nhất hiện nay, chưa có mặt trên thị trường Việt Nam.
Sau vài ba lần gặp gỡ với Phú Mỹ Hưng, Sở Giao thông vận tải Đồng Nai đã tiến hành liên doanh với cái tên Vinahuco. Sau này, sự việc đổ bể cán bộ, công nhân sở đã mỉa mai gọi chệch ra là Vinahulua (vi-na-hu-lừa). Trụ sở Vinahuco đặt tại Công ty Xe khách Đồng Nai. Khi làm lễ ra mắt có nhiều vị quan chức của tỉnh tới dự, có diễn văn khai mạc, có huấn thị, có hứa hẹn, có cúng thổ thần và thiên địa bằng một con heo quay chừng hơn dăm chục ký và hoa quả, có tiệc tùng nâng ly chúc tụng thành công…
Vinahuco có cả đại diện đặt tại Hà Nội. Đây là nơi mà mấy tháng sau, ông trưởng cơ quan đại diện đã liên hệ với Ủy ban Nhân dân thành phố bố trí trực thăng cho vợ chồng ông giám đốc Vinahuco bay lên tham quan thủy điện Hòa Bình? Ông ta còn “nổ”: tàu chở 10 ngàn tấn gạo viện trợ cho dân ta đã về tới phao số 0 ngoài biển. Sau đó thì là số 0 thật vì chẳng có hạt gạo nào của ông ta cả!
Tôi hoàn thanh bài điều tra và non một năm sau thì Vinahulua ra ma và vị giám đốc này vào nhà pha bóc lịch!
Buồn thật!

    Bên bờ Phước Long Giang, những ngày cuối tháng Tám năm 2018
                             Nhà thơ Xuân Bảo




Thứ Tư, 15 tháng 8, 2018

231. MỘT SỰ TRÙNG HỢP KỲ LẠ

231. CHÙM THƠ VĂN VIẾT VỀ MÙA THU 2018.

5. MỘT SỰ TRÙNG HỢP KỲ LẠ.

Ngày 11 tháng 8 vừa qua, 2 nhà trí thức Việt Nam qua đời. Đó là nhạc sĩ Tô Hải và nhà báo Bùi Tín. Nhạc sĩ Tô Hải, tên đầy đủ là Tô Đình Hải, quê huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, sinh tại Hà Nội ngày 24/9/1927. Nhà báo Bùi Tín, tên đầy đủ là Bùi Thành Tín, Thành Tín cũng là bút danh, quê xã Liên Bạt, Hà Đông, sinh tại cố đô Huế ngày 29/12/1927, thân sinh là cụ Bùi Bằng Đoàn (1889–1955) là Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945), Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I (1946–1955).
Hai người này đồng tuế, cùng thọ 91 tuổi, cùng vào đảng CSVN và cùng ly khai. Lại cùng mất một ngày (11 tháng 8 năm 2018). Nhạc sĩ Tô Hải mất tại Việt Nam. Nhà báo Bùi Tín mất tại Paris.
Tôi có những kỷ niệm với 2 vị này. Với nhạc sĩ Tô Hải, tôi nhớ hồi năm 1954, các đơn vị bộ đội địa phuơng của 2 Tỉnh đội Quảng Trị và Thừa Thiên tập kết ra Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Chúng tôi được bố trí ở nhà dân tại làng Tiên Điền, quê hương của đại thi hào Nguyễn Du. Chúng tôi đã được phái đoàn của chính phủ về thăm. Tôi nhớ, trong đoàn có Bộ trưởng không bộ Bồ Xuân Luật, có bà Hà Thị Quế, chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, có ông Lê Nam Thắng, tư lệnh Khu IV và vài vị khác. Trong đoàn có nhạc sĩ Tô Hải, lúc này đang là Trưởng đoàn Văn công Liên khu IV. Đoàn về, nhạc sĩ Tô Hải ở lại với bộ đội chúng tôi và dạy chúng tôi bài hát Trên đồi Him Lam. Tác giả bài hát là nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
Lời bài hát có 3 đoạn như sau:
1.Hôm qua đánh trận Điện Ɓiên
Ϲhiến hào xuất kích đồi Him Lam ta tiến vào
Đột phá, tiêm đao tiến đánh vào.
Đi mở đường thắng lợi ba tháng đổ mồ hôi ta tới đâу
Quуết diệt cho hết quân thù.
Ϲhúng ta dốc lực, sức ta lớn mạnh mau, dồn lũ chúng nó xuống vực sâu.
Ở đâу chúng ta không quên
Quê hương kia ruộng đất thân уêu đang chờ đợi
Đoàn quân đã đi là thắng
.
2: Hôm qua pháo nổ Điện Ɓiên
Lá cờ quуết thắng cầm trong taу ta tiến vào
Ɓộc phá nhắm lô-cốt đánh vào.
Khi mở “đột phá khẩu” máu đã đổ vì dân ta nhắc câu
Máu đổ ta tưới luống càу.
Ϲăm thù lũ giặc quуết tâm ta vượt lên nợ máu chúng baу phải trả ngaу.
Ở đâу chúng ta không quên bao anh em đồng chí hу sinh trong trận nàу
Ɲguуện câu quуết tâm ta phải thắng.
3. Hôm naу thắng trận đầu tiên
Xác thù ngã xuống đồi Him Lam
Ta cắm cờ đường mới chúng ta kéo pháo vào.
Qua nhọc nhằn gian khổ ta thấu tỏ lòng dân ta tới đâу góp lực để thắng trận nàу.
Tin về thắng trận Ɓác Hồ rất mừng vui đồng lúa thắm tươi lại càng vui
Ɲgàу naу chiến công vinh quang đem dâng lên tổ quốc thân уêu đang đợi chờ.
Điện Ɓiên chúng ta sẽ toàn thắng.

Và sau đó mấy năm, ở Hà Nội, sinh viên trường Đại học Bách khoa đã dàn dựng bản hợp xướng Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy của nhạc sĩ Tô Hải. Đây là bản hợp xướng hay nhất của thời kỳ đó. Nhạc sĩ có đến 6 bản hợp xướng gồm: Hải Phòng rực sáng biển Đông, Sẵn sàng bắn, Lời Tổ quốc. Hẹn mùa mười tấn năm sau, Buồn vui và khát vọng. Và Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy. Lời bản hợp xướng này làm lay động lòng người bởi tính hoành tráng và thức dậy tình yêu quê hương tha thiết. Tôi còn nhớ bản hợp xướng có 4 chương gồm: Chương I: Larghetto Sustenuto; Chương II: Moderato Marcato; Chương III: Adagio Expressivo; Chương IV: Allegro con spirito.
Chúng tôi thích nhất là Chương III.
Chiều chiều dừng chân đỉnh non sườn núi
(Ai đi xa xôi nhưng lòng vẫn vui)
Ngó trông xa xa tận phía chân trời
(Có người thương yêu ngày đêm ngóng trông)
Quê hương yêu dấu bao người chờ trông
(Nơi quê hương xa xôi ai chờ mong)
Những đêm trăng rằm tiếng ca vang lừng
cùng người xa vắng đập lúa dưới trăng
Giờ này ở nơi xa xôi biên giới
Hát vang lời ca thiết tha yêu đời
Sông kia núi đó như giục lòng ta
Khó khăn mau vượt có chi thắng được tình yêu quê hương
Ngàn đèo ngàn non ngàn sông ngàn suối
(Ai đi xa xôi nhưng lòng vẫn vui)
Bước đi muôn nơi càng yêu quê nhà
(Có người thương yêu ngày đêm ngóng trông)
Ai buông tay hái ngó nhìn trời xa
(Nơi quê hương xa xôi ai chờ mong)
Nón nghiêng nghiêng chào thắt lưng hoa đào
Vờn bay trong nắng chiều xuống bên ta
Giờ này ở nơi xa xôi biên giới
Hát vang lời ca thiết tha yêu đời
Sông kia núi đó như giục lòng ta
Giữ yên biên thuỳ cho lòng Tổ quốc tiếng ca vang trời.
Kỷ niệm với nhà báo Bùi Thành Tín. Năm 1979, có một lần tôi đến Tòa soạn báo Nhân Dân ở 71 Hàng Trống Hà Nội và gặp anh ở đó. Anh cho tôi cuốn sách nhỏ Sài Gòn trong ánh chớp chói lọi của lịch sử. Cuốn sách này giúp tôi có tư liệu tham khảo để viết những bài báo về Chiến dịch Hồ Chí Minh như bài Một mũi tiến công về Sài Gòn và nhiều bài khác.
Cuối năm 1990, tôi thật sự ngỡ ngàng khi hay tin anh xin tỵ nạn chính trị ở Pháp! Biết làm sao được?
Bên bờ Phước Long Giang, những ngày mưa buồn tháng 8.
Nhà thơ Xuân Bảo..

Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2018

230. CHÙM THƠ VĂN VIẾT VỀ MÙA THU 2018


230. CHÙM THƠ VĂN VIẾT VỀ MÙA THU 2018

1. THÁNG TÁM RỒI ĐÓ.
Hôm nay đã bước sang ngày thứ nhất của tháng 8, Nhìn lại 7 tháng qua, thế giới cô biết bao biển động. Vui ít, buồn nhiều. Vui vì cuộc gặp mặt của hai lãnh đạo Mỹ và Triều Tiên đã bước đầu đem lại hòa bình cho nhân loại.
Buồn thì nhiều:
1.Lũ, lụt Tây Bắc và cả Hà Nội kéo theo sụt lở đất ở Hòa Bình.
2.Vỡ đập ở Lào, mang lũ đến sớm cho đồng bằng Củu Long.
3.Khảo thí thi PTTH ở Hà Giang ,Sơn La và vài nơi khác có chảnh phó chủ khảo vào nhà đá.
4.Tai nạn giao thông ngày càng nhiều và nghiêm trọng. Điển hình vụ 13 người chết trong ngày Vu quy biến ngày Đại hỷ thành Đại tang.
5. Có đến hơn chục tướng lĩnh của CA và QĐ vướng vòng lao lý.
6.Núi lửa phun trào ở Indonesia. Hỏa hoạn ở California.
Vui sao nổi?!

2. THU SANG EM ƠI.
Hôm qua 26/6 lịch âm, đã bước sang mùa Thu (tiết Lập thu). Trời đất vẫn vần vũ âm u. Lụt lội, hỏa họa, làm lòng người dân không yên.
Tuy nhiên, bao giờ mùa thu cũng đẹp. Vậy tôi muốn nhắc lại mấy câu thơ kết trong tác phẩm Hà Nội cơn lốc tháng 7, lấy từ bài thơ Màu thu của tôi (đã in sách Mấy nhanh hoa tím, xuất bản 1997) để nhớ về một mùa thu Hà Thành yên ấm ngày xưa:
Màu thu
Gửi Thu Hiền
Ơi ngọn gió thu lành
Mang mảnh trời thu xanh biếc
Mang mây chiều pha ráng bạc
Manh tình anh bay tới phương em.

Giữa mây chiều cánh chim cháy đỏ
Giữa bầu trời cánh chim say gió
Bay giữa khung trời, bay giữa cuộc đời
Là tình anh gửi về em đó

Ngoài kia, bên ngoài khung cửa sổ
Dập dìu cò trắng, lấp loáng trời xa
Ngọt ngào trong mỗi điệu dân ca
Anh gửi về em mênh mang nỗi nhớ

Ơi mùa thu xanh
Mùa của yêu đương vương vấn
Đôi mắt em in màu trời thu vành vạnh
Mùa thu sao đành vắng em
Anh nhìn đời qua cánh cửa phòng vuông vắn
Vẳng đâu đây khúc nhạc Su-be
Mùa thu ơi! Lòng ta bồi hồi
Em xa rồi…

Trong mây mùa thu em có thấy
Trong gió mùa thu em có nghe
Cánh chim bay trời thu đọng nắng
Mùa thu này cho anh gửi gắm
Tiếng lòng tìm tới phương em
                             Hà Nội - 1968
Bên bờ Phước Long Giang sáng 8/8/2018.
Xuân Bảo.


3. NẮNG THÁNG TÁM (LIGHT IN AUGUST).
Đầu tháng 8 năm nay, tôi may mắn được nhà văn Trần Nhã Thụy, Trưởng Chi nhánh Nhà Xuất bản Hội Nhà văn miền Nam biếu cuốn sách Nắng tháng Tám (Light in August). Đây là một tác phẩm lớn của nền văn học Hoa Kỳ. Tác giả là William Faulkner, (1897 – 1962) đã được tặng giải Nobel Văn học năm 1949. Và 2 giải Pulitzer năm 1955 và năm 1963. Ông là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế kỷ 20. Những sáng tác của Faulkner gây ảnh hưởng sâu rộng lên văn chương châu Mỹ La-tinh, Pháp, Nga…nếu không muốn nói là toàn cầu.
Hào quang của Faulkner
(Trích theo nhà văn Nhật Chiêu trong bài Hào quang của Faulkner nhân Kỷ niệm 50 năm ngày mất của W. Faulkner và Kỷ niệm 80 năm ngày phát hành Nắng tháng Tám).
 Nắng tháng Tám ra đời năm 1932 là tác phẩm trọng đại của W. Faulkner vào thời kỳ mà ông ném ra toàn kiệt tác, sau Âm thanh và cuồng nộ (1929), Khi tôi nằm chết (1930) và Absalom, Absalom! (1936).
Chen giữa những tác phẩm tân kỳ và phức tạp ấy, Nắng Tháng Tám dường như dễ đọc hơn, cho dù nó dài hơn 20 vạn từ! Nghệ thuật kể chuyện qua nhiều điểm nhìn, qua những làn sóng ý thức ở những kiệt tác trước đã lắng đi ở Nắng tháng Tám.
Nhưng không phải vì vậy mà tiểu thuyết này đơn giản hơn những bộ kia. Đây là hào quang của những gương mặt người. Và bao nhiêu chân dung là bấy nhiêu tính cách. Vẫn là những đối thoại đa thanh, những đối truyện đa thể, những độc thoại nội tâm đa đoan, những đảo chuyển thời gian đa tuyến và vô số suy tưởng đa nghĩa.
Màu da, giới tính, thiên nhiên, thành phố, tôn giáo, thế tục, cá nhân, cộng đồng va chạm và tương tác liên tục trong ánh sáng và bóng tối được Faulkner thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, vừa rực rỡ vừa thâm u, đầy ẩn nghĩa và sinh khí. Như thứ ánh sáng đầu thu kỳ diệu ở Mississippi. Như sự hoài thai và sinh nở.
Tám mươi năm nay, trong lòng độc giả, Nắng tháng Tám chính là hào quang của William Faulkner…
Các lời bình:
“Nói rằng Nắng tháng Tám là một màn trình diễn ấn tượng thật chẳng phải nói quá chút nào…Faulkner không chỉ tích hợp trong cuốn sách này thứ văn phong quyến rũ của sức mạnh và cái đẹp; ông còn cho phép một vài nhân vật của mình nếu không phải là nhân vật chính, thỉnh thoảng được quyền hành động vô cớ,  nằm ngoài những khuôn mẫu xã hội…Nghĩa là, Faulkner tự cho mình lý lẽ và sự thương cảm đối với hệ thống trong thế giới của ông”.
                                                          (Spectator)
“Quyển sách như rực lửa với sự phẫn nộ dữ dội trước bạo lực, sự ngu ngốc và lòng kiêu hãnh – một quyển sách tuyệt vời”.
                                                          (Arnold Bennett)
“Faulkner có một sức sáng tạo không mệt mỏi, trí tưởng tượng phong phú, và ông thường viết như một thiên thần”.
                                                          (Nhà văn Nhật Chiêu)
Nắng tháng Tám của William Faulkner thực sự là tinh hoa văn học của nhân loại. Trong đó số phận của CON NGƯỜI thật là vĩ đại. Macxim Gorki đã đề cập đến CON NGƯỜI trong lời tựa 27 mẩu chuyện nước Ý. “Chúng ta trìu mến chăm sóc hoa cỏ. Chúng ta yêu say mê nhiều thứ khác như hoa, nhưng chúng ta chưa chú ý đầy đủ đến việc săn sóc tâm hồn, săn sóc trái tim CON NGƯỜI. Chúng ta phải tập làm việc đó, vì dù cho cái xấu xa bề ngoài đó, CON NGƯỜI chẳng phải vẫn là cái gì vĩ đại nhất trên trái đất này hay sao?”.
Ở Faulkner, chúng ta lại thấy nhà văn đề cập đến CON NGƯỜI, ông nói: Con người bất tử, không vì giữa muôn loài, nó có tiếng nói không bao giờ tắt, mà chính vì nó có một tâm hồn, một tinh thần biết đồng cảm, hy sinh và chịu đựng. Bổn phận của nhà thơ, nhà văn là viết về những điều đó.
                                                                   (Nhà thơ Xuân Bảo)





                                                ***
Biệt lệ. W. Faulkner được chọn cho giải năm 1949, nhưng Ủy ban Nobel chỉ loan báo vào tháng 11 năm 1950. Ông đã đọc một bài diễn từ khi nhận giải vào tháng 12 cùng năm. Còn giải Nobel văn chương năm 1950 thì được trao cho triết gia người Anh, huân tước Bertrand Russell. Như vậy trong năm 1950 có 2 nhà văn nhận gỉaỉ cùng lúc cho 2 năm khác nhau.
Diễn từ nhận giải Nobel của W. Faulkner
(đọc tại Stockhom ngày 10 – 12 – 1950) Nhà văn Nhật Chiêu dịch
“Tôi cảm thấy rằng giải thưởng này không cho tôi như một con người mà trao cho tác phẩm của tôi – tác phẩm của một đoạn trường và mồ hôi của tinh thần con người, chẳng phải vì danh vọng, chẳng phải vì lợi nhuận mà chỉ dùng những chất liệu của tinh thần con người sáng tạo ra một cái gì mà chưa từng thấy trước đây. Thế nên giải thưởng này chỉ là  của tôi trong một sự ủy thác mà thôi. Cung hiến phần tiền thưởng sao cho xứng đáng với mục đích và ý nghĩa có từ ban đầu của nó thì có khác gì đâu – nhưng tôi muốn theo đó mà dùng giây phút được khen tặng này như một đỉnh cao mà từ đây tôi được các bạn trẻ nam nữ lắng nghe, những người sẵn sàng hiến mình cho niềm xao xuyến và lao khổ tương tự, thế nào trong đó cũng có một người một ngày kia sẽ đứng nơi tôi đứng hiện giờ.
 Bi kịch của chúng ta hôm nay là cùng chung nỗi lo sợ cụ thể, phổ biến kéo dài lâu rồi mà giờ đây chúng ta vẫn còn mang chịu. Không còn những vấn đề tinh thần nữa. Chỉ còn nghi vấn này: Khi nào chúng ta sẽ nổ tan tác đây. Do đó mà các bạn trẻ nam nữ cầm bút hôm nay đã lãng quên những vấn đề của tâm hồn con người đang giao chiến với chính mình, chỉ duy có điều ấy mới làm ra tác phẩm hay, bởi vì chỉ điều ấy mới đáng viết, xứng đáng với lao khổ và mồ hôi.
Phải học lại, phải tự nhủ rằng điều tệ hại nhất trong tất cả mọi người chính là sự sợ hãi; và tự nhủ rằng hãy vĩnh viễn quên đi niềm lo sợ, trong phòng viết chớ có dành chỗ cho điều gì khác ngoài những chân lý và niềm tin muôn đời của tâm hồn, những sự thật phổ quát nghìn xưa mà thiếu chúng thì mọi câu chuyện đều phù phiếm và tiêu ma. Đó chính là tình yêu và danh dự, trắc ẩn và tự hào, đồng cảm và hy sinh. Không như thế thì ta chỉ làm việc trong sự nguyền rủa mà thôi. Và chỉ còn viết về tình dục chứ không phải tình yêu, về những chiến bại mà chẳng ai mất mát chút ít giá trị nào, về những chiến công không có niềm hy vọng, càng không có trắc ẩn tình thương, những băn khoăn không gây nổi ngấn tích nào trên nhân loại, không để lại một vết sẹo nhỏ. Không còn viết về trái tim nữa mà về những hạch tuyến chẳng ra chi.
Chưa ôn lại những điều ấy thì chỉ viết như thể đang đứng lẫn đâu đó chờ đợi sự cùng tận của con người. Tôi quyết không chấp nhận sự cùng tận của con người. Rất dễ nói rằng con người bất tử chỉ vì giỏi chịu đựng, rằng khi tiếng chuông tận thế đã ngân tàn từ mỏm đá cuối cùng vô nghĩa, giữa hoàng hôn đỏ úa cuối cùng không có thủy triều lên, rằng ngay cả khi ấy vẫn còn âm thanh là tiếng nói yếu ớt không tắt của con người. Tôi quyết không chấp nhận điều ấy. Tôi tin rằng con người không chỉ chịu đựng mà hơn nữa sẽ vượt qua. Con người bất tử, không vì giữa muôn loài, nó có tiếng nói không bao giờ tắt, mà chính vì nó có một tâm hồn, một tinh thần biết đồng cảm, hy sinh và chịu đựng. Bổn phận của nhà thơ, nhà văn là viết về những điều đó. Có sứ mệnh giúp con người chịu đựng bằng cách nâng dậy tâm hồn con người, gợi nhớ lòng can trường và danh dự, hy sinh và tự hào, đồng cảm và trắc ẩn, cùng với sự hy sinh đã làm nên vinh quang trong quá khứ của con người. Tiếng nói của thi nhân không chỉ là tấm bia ghi công con người, mà còn là cột trụ giúp con người chịu đựng và vượt qua ”. ( Xuân Bảo nhấn mạnh đoạn kết).
                             Bên bờ Phước Long Giang,ngày 11/8/2018

               
         

                                                                                                                               


Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

229. NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27/7/2018


  1.   NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ VIỆT NAM 27-7.

  2. Trong 4 cuộc chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu, ngoài sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân, còn có hàng triệu chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang đã mãi mãi nằm xuống trong lòng đất Mẹ! Hài cốt có người được tìm về cố hương, nhưng cũng có người chưa được tìm thấy. Họ vẫn còn đâu đó trên mảnh đất hình chữ S này.

  3. Có thể:
  4.  …Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
  5.           Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
  6. Áo bào thay chiếu anh về đất
  7.           Sông Mã gầm lên khúc độc hành…
  8.                                             
  9.                                                (Quang Dũng)


  10. Nhân ngày này, tôi khóc những linh hồn bất tử bằng những vần thơ:

  11. Bài 1. Chiều nghĩa trang Trường Sơn.

  12. Gió Lào thổi hun hút
  13. Lao xao rặng bạch đàn
  14. Rừng Trường Sơn xào xạc 
  15. Như tiếng ai gọi hồn
  16. Đường 9 ơi, đường 9
  17. Vời vợi nắng Khe Sanh
  18. Bên khung trời bịn rịn
  19. Bao nấm mồ khuyết danh
  20. Nhớ năm xưa Tà Cơn
  21. Lửa đồn thù bốc cháy
  22. Nay xanh lại màu xanh
  23. Nơi các anh nằm lạị
  24. Quê hương lên hương mới
  25. Cà phê phơi phới bông
  26. Đỏ một màu ngói mới
  27. Giữa đại ngàn Đak-Rông
  28. Lao Bảo xuôi Hướng Hóa
  29. Về Cam Lộ lên Cùa
  30. Khói nhà ai vương tỏa
  31. Sau lũ lại được mùa
  32. Chiều nghĩa trang Trường Sơn
  33. Giữa hàng hàng bia mộ
  34. Xin thắp một nén hương
  35. Tưởng nhớ người nằm đó!

  36. Bài 2. Thăm lại Bến Cát.

  37. Về thăm quê em Bến Cát
  38. Cao su rụng lá cuối mùa
  39. Đồi xa lên hương cỏ mật
  40. Tìm người đồng đội năm xưa
  41. Tôi đến Lai Hưng, Mỹ Phước
  42. Gặp lại các Mẹ anh hùng
  43. Ôn chuyện Bến Tượng ngày trước
  44. Nhớ con, mắt mẹ rung rung
  45. Sông Bé oai hùng biết mấy
  46. Nổi danh trận đánh Phước Thành
  47. Tiểu đoàn 500 thuở ấy
  48. Nay còn sống được mấy anh
  49. Nơi đây các anh nằm lại
  50. Có đàn bướm trắng lượn quanh
  51. Có hoa bốnmùa thắm mãi
  52. Lời ru đất Mẹ yên bình
  53. Nghĩa trang chiều nay nắng nhạt
  54. Vẳng nghe chim gáy cúc cu
  55. Hồn người chiến sĩ bất khuất
  56. Hòa cùng tiếng hát chiến khu.

  57. Bài 3. Đền tưởng niệm Rừng Sác.


  58. Nhớ nhà văn,Anh hùng LLVT Lê Bá Ước,Tư lệnh Đoàn 10 Rừng Sác
  59. Con đường vươn mình ra phía biển
  60. Mùa xuân náo nức tiễn người đi
  61. Thương về Rừng Sác thời chinh chiến
  62. Đoàn Mười* hỏi có mấy ai về?
  63. Một nét tươi son Đền tưởng niệm
  64. Anh hùng sống mãi với non sộng
  65. Nhơn Trạch rộng thêm nhà máy mới
  66. Ta đi vời vợi nắng nghìn trùng
  67. *Bí số của Đoàn Đặc công Rừng Sác.

  68. Bài 4. Những con đường ra trận.


  69. “Thương về Ngã Ba Đồng Lộc"
  70. Thơ văn xuôi
  71.  Con người đi lâu mà thành con đường. Đường ra trận không thể chờ lâu, Ta phạt rừng mở lối, làm cầu qua núi cao qua khe sâu. Qua muôn ngàn cheo leo đèo dốc.
  72. Đối mặt từng giây, từng phút, ngày cũng như đêm với bom bầy bom tấn, với hỏa tiễn pháo chùm, con đường vẫn hiên ngang vươn mình ra phía trước. Hậu phương tiếp sức cho tiền phương, triệu triệu tấn lương thực, khí tài. Vạn vạn chiến binh.

  73. Đó là đường mòn “Hồ Chí Minh”, con đường xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Biết bao chiến sĩ làm đường đã ngã xuống vì con đường. Đường ra mặt trận mùa nào cũng đẹp. Những La Thị Tám, những tiểu đội anh hùng ngã ba Đồng Lộc và vô vàn anh hùng liệt sĩ anh hùng, liệt sĩ vô danh đã nằm xuống cho con đường mãi mãi dài ra. Họ ra đi cho đất nước sống còn.

  74. Nghĩa trang Trường Sơn chiều nay nhạt nắng. Gió Lào hun hút thổi đưa hương hồn những người đã khuất về với quê nhà. Đường mòn Hồ Chí Minh nay đã thành con đường công nghiệp hóa. Mãi mãi thắp sáng trong ta niềm tin và hy vọng.

  75. Bên bờ Phước Long Giang, 27/7/2018
  76.                                                                                                                                            Xuân Bảo