Trang

Thứ Tư, 19 tháng 2, 2020

300. TÔI LÀM BÀI THƠ LỘC VỪNG HỒ GƯƠM



300. TÔI LÀM BÀI THƠ LỘC VỪNG HỒ GƯƠM

                                                          Hồi ức của nhà thơ Xuân Bảo

Tổng thống Mỹ Giôn-xơn lấy cớ tàu Madoc bị ta ngăn chặn ngoài khơi rồi la lối lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ”, kiếm chuyện đưa máy bay ra bắn phá miền Bắc. Ngày 5-8-1964 chúng tấn công vào Quảng Ninh. Một máy bay bị quân và dân ta bắn rơi và tên quan hai An-va-rêt bị bắt làm tù binh.
      Miền Bắc đi vào cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại của Hoa kỳ. Hà Nội khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Ông già bà cả, các cháu thiếu nhi, những người không có nhiệm vụ chiến đấu đều sơ tán về các vùng lân cận, có khi phải đi xa hơn. Chung quanh Hồ Gươm được đào hầm trú ẩn. Đặc biệt có cái hầm cá nhân tròn như cái cống, có nắp đậy hẳn hoi, được đào rất nhiều quanh hồ. Báo động thì nhảy xuống hầm đậy nắp lại. Hết báo động thì dở nắp ra nhảy lên. Có một chuyện cười ra nước mắt. Đó là khi còi báo động khẩn trương hú lên có một bà đầm đang dạo quanh Bờ Hồ vội vàng nhảy xuống hầm cá nhân thì ở dưới đó đã có người. Cái váy của bà đầm trùm lên như cái dù làm cho cậu ta tưởng là phi công Mỹ nhảy dù ?! Hà Nội dạo này người đi ngoài phố đều đội mũ rơm để tránh bom. Nhà máy điện Yên Phụ thì thả lên trời không biết cơ man nào là bong bóng để đề phòng máy bay Mỹ ném bom phá hoại.
     Máy bay địch cách Hà Nội 50 cây số thì đã có loa phóng thanh báo: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội 50 cây số. Các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu!”. Nếu chúng vào thì còi nhà hát lớn hụ lên liên hồi và tiếng súng rộ lên khắp nơi. Nếu chúng chỉ lảng vảng rồi cút thì loa lại vang lên: “Đồng bào chú ý. Máy bay địch đã bay xa”. Mọi sinh  hoạt của thủ đô trở lại bình thường , người nào việc nấy. Hà Nội bình thản chống trả chiến tranh phá hoại của Mỹ như vậy đó.
          Trên đường Đinh Tiên Hoàng, trước nhà máy đèn, phía bên bờ Hồ Gươm có một cây lộc vừng chín gốc chờm ra mặt hồ. Lộc vừng mỗi năm ra hoa hai lần vào tiết xuân và sang kỳ thu phân lại cho hoa lần nữa. Nói như nhà văn Nguyễn Tuân: hoa tía như kết chỉ tơ điều, đính vào những dây tua lọng thõng buông xuống từ lòng một cái tán tàn xanh đặc. Hoa lộc vừng trải xuống mặt hồ như một tấm thảm đỏ. Đến mùa thay lá thì lá rụng vàng một màu vàng vương giả khấp lối đi, nệm cỏ. Trẻ con nhặt lá vàng lộc vừng để chơi.
          Ngày đó, các nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi và nhiều văn nghệ sĩ khác thường uống bia hơi quán ven hồ. Bia hơi Trúc Bạch được sản xuất tại nhà máy Bia Hà Nội, thời Tây thường gọi là bia Ô-mèn. Mỗi người chỉ được mua 3 cốc vại. Ngành ăn uống Hà Nội có sáng kiến dập dẹp cái nắp bia chai rồi đục lỗ ở giữa ( thường gọi là đồng xèng), rồi xâu dây thép vào. Một đầu để cạnh cô mậu dịch viên đong bia. Đầu kia ở ngoài quầy. Khách uống bia khi xếp hàng phải nắm lấy cái đồng xèng đó và đẩy dần đồng xèng đi theo kiểu xếp hàng thứ tự. Thương binh thì được ưu tiên mua trước. Chúng tôi thường được cậu Trương Tấn Nghĩa, cầu thủ của Đội bóng đá Thể Công mua giùm, khỏi phải chờ lâu. Không biết cậu ta lấy đâu ra cái "thẻ thương binh" mà luôn luôn có cái bìa màu đỏ dắt ở túi ngực. Sau này tôi mới vỡ lẽ cái bìa đó là quyển sách nhỏ, trước tác của Mao Trạch Đông mà Đại sứ quán Trung Quốc thường phát không cho độc giả. Tôi đoán chắc Nghĩa quen biết các nhà văn Nam Bộ, vì Nghĩa cũng là người miền Nam tập kết và rất có cảm tình và ngưỡng mộ  cụ Nguyễn Tuân.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng  ngồi dưới tán hoa lộc vừng đó để viết mấy chương tùy bút “Những ngọn đèn xanh…và những nhịp còi” từ cái hồi Đệ nhị Thế chiến. Dưới bóng cây lộc vừng  già kia sau gần ba chục năm ông lại ngồi suy ngẫm về trách nhiệm và vinh quang để rồi cho độc giả Hà Thành thấm thía hơn, tự hào hơn với Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi.( Tùy bút của Nguyễn Tuân).
Sau này, những khi đi công tác với Nguyễn Thạch Toàn, cháu đích tôn của nhà văn, tôi thường nhắc lại kỷ niệm này. Nguyễn Thạch Toàn là con của tướng Trần Xuân Trường, con trai cả của nhà văn Nguyễn Tuân. Tên thật của tướng Trần Xuân Trường trước khi gia nhập quân đội là Nguyễn Thạch Toàn, ông cho con trai mang tên ông.
Những chùm hoa lộc vừng bên Hồ Gươm



         Để nhớ về một nhà văn tài hoa của Hà Nội và của đất nước, tôi đã viết bài thơ Lộc vừng Hồ Gươm dưới đây:

                    Lộc vừng Hồ Gươm
                                           Kính Cụ Nguyễn Tuân
Soi mặt Hồ Gươm, bóng lộc vừng
Chuỗi hoa đèn thả sáng rưng rưng
Cây xanh bấy tuổi thêm bền chắc
Lá thắm bao năm vẫn ngập ngừng
Đón gió Tháp Rùa thì hạ chí
Vờn trăng Thê Húc tiết xuân hưng
Còn đây ghế đá người đâu vắng
Làn nước vô tình nỡ dửng dưng!
Xuân Bảo.

299.Về bài thơ: Đưa em lên cầu Long Biên.


299.Về bài thơ: Đưa em lên cầu Long Biên.

                                      Hồi ức của nhà thơ Xuân Bảo



     Năm 1955, tôi về Hà Nội học. Với phụ cấp it ỏi lúc đó, những học sinh sinh viên  chỉ đủ tiền ăn bếp tập thể, ngủ nghỉ ký túc xá và còn rất ít để mua khăn mặt, xà phòng giặt ( loại cục 72% dầu). Xà phòng thơm được coi là thứ xa xỉ phẩm nên chẳng bao giờ chúng tôi mơ tưởng đến.Thuốc đánh răng và bàn chải, mấy thứ này khi nào hết mới mua. Để giải trí, chúng tôi chỉ đi xem xi-nê-ma ban ngày , vé đồng hạng 2 hào/vé.  Có chủ nhật chúng tôi cuốc bộ từ rạp này đến rạp khác, mỗi rạp chiếu một bộ phim khác nhau. Cho nên được xem đủ 4 phim trong một ngày. Tối đến, đôi chân mỏi dừ. Thế mà có tối còn đi xem chiếu bóng ngoài trời của các bãi Lương Yên, Yên Phụ…Phim chiếu để nâng cao đời sống văn hóa cho dân vào ban đêm và không mất tiền mua vé.  Các món kịch nói, chèo, cải lương, ca múa nhạc thì năm thì mười họa, dành dụm được món tiền kha khá lại rủ nhau canh-ty mua vé đi xem. Còn các môn nhạc giao hưởng, thính phòng, nhạc kịch thì không bao giờ dám mơ tưởng tới.Phần lớn được tổ chức biểu diễn tại Nhà hát lớn, rạp hát Hồng Hà, giá vé rất đắt.
      Nhờ đi bộ mà chúng tôi thuộc từng con đường, góc phố của Hà Nội. Đặc biệt, chúng tôi thường đi lên cầu Long Biên, đi từ bên này sang bên kia rồi quay lại vừa đúng 3 cây số 6, mất gần tiếng đồng hồ, đếm được 19 nhịp, 20 trụ cầu cả thảy.Cầu được khởi công ngày 12-9-1898 và sau gần 36 tháng thì hoàn thành.. Kinh phí được huy động từ nguồn trái phiếu của chính phủ Pháp. Kết toán công trình là hơn 6 triệu 200 nghìn franc, so với dự trù ban đầu là 5.390.794 franc thì số tăng không đáng kể.
            Đứng trên cầu tha hồ ngắm con sông Hồng Hà quanh năm đỏ ngầu phù sa. Những lúc chiều xuống thì nơi đây là địa điểm lý tưởng cho ai muốn ngắm nhìn và chụp ảnh hoàng hôn Hà Nội. Khi mới tiếp quản thủ đô, Hà Nội chỉ có một ngôi nhà 6 tầng. Đó là Nhà in IDEO, sau này là Nhà in Báo Nhân Dân ở phố Tràng Tiền. 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hà Nội xây thêm được một công trình cũng 6 tầng tại phố Nguyễn Du để làm trụ sở cho Bộ Công nghiệp Thực phẩm. Đi dạo chơi trên cầu tôi tỷ mỷ ghi lại những chữ đúc nổi vào các thanh sắt dầm cầu. “Daydé & Pillé-Paris” là nhà cung cấp thép cho công trình này. Lại có dòng chữ số : “1899-1902”, ghi lại thời điểm chính thức khởi công và hoàn thành cầu.
            Người Hà Nội  thời trước thường gọi tên cầu một cách dân dã là cầu Sông Cái hay còn gọi là cầu Bồ Đề và dân Hà thành cho đến khi ta vào tiếp quản thủ đô quen gọi tên cầu này là “Pont Doumer”.  Pont tiếng Pháp là cầu. Và Toàn quyền Đông Dương  Paul Doumer là người đưa ra ý tưởng làm cây cầu này. Trong Hồi ký của mình Paul Doumer viết: “Có một sự khẩn thiết xuất hiện ngay trong đầu tôi là việc xây dựng một cây cầu bắc ngang qua sông Hồng trước mặt Hà Nội. Thành phố bị ngăn cách  với các tỉnh phía tả ngạn bởi dòng sông rộng 1.700 mét bị tắc nghẽn bởi những bãi cát lúc lở, lúc bồi rất nhanh. Đối với người bản xứ, việc vượt sông rất khó khăn, tốn kém có khi nguy hiểm. Đường sắt Lạng Sơn phải dừng lại ở bờ tả ngạn, cách Hà Nội 3 km. Ý tưởng của tôi là xây dựng cho Bắc Kỳ một mạng đường sắt hội tụ ở Hà Nội, một đầu nối với biển, đầu kia với Trung Kỳ và chạy sang Trung Hoa. Không thể hình dung được là hai nửa của mạng đường lại bị ngăn cách bởi một con sông”…
      Theo thiển nghĩ của tôi, nên chăng ở hai đầu cầu Long Biên hiện nay gắn tấm biển ghi lại dấu tích của người đầu tiên có ý tưởng và sau đó đã bảo vệ thành công đề án xây dựng cầu Long Biên. Tấm biển đó chỉ ghi ngắn gọn : Tên người đề xuất, tên người làm dự án, tên công trình sư thiết kế ( tập đoàn Eiffel)), tên đơn vị thi công và ngày, tháng năm khởi công, ngày tháng năm hoàn thành.
                                                  ***
       Sau này, khi có người yêu, tôi thường cùng nàng đi dạo chơi trên cầu Long Biên.Vào những năm năm chín, sáu mươi, có những đêm chúng tôi lai nhau trên chiếc xe đạp để đi vòng quanh Hà Nội, bao giờ cũng từ điểm xuất phát đầu tiên là chân cầu Long Biên, lên Yên Phụ, Chèm Vẽ, vòng qua Diễn, xuống Tây Tựu, ra Văn Điển, về Giáp Bát rồi dọc theo Làng Tám về Mai Động leo lên đê Vĩnh Tuy, Lương Yên , dọc theo đường Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật và điểm dừng đúng vào nơi xuất phát ban đầu : chân cầu Long Biên.  Có một đêm Trung thu chúng tôi đi từ lúc trăng rằm mọc từ phía bên kia cầu, phía Gia Lâm và kết thúc hành trình dạo quanh Hà Nội thì trăng đã dần lặn ở phía Hồ Tây.
     Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, cầu Long Biên đã từng chứng kiến những đoàn tàu ngày đêm chở những người con thân yêu của hậu phuơng ra trận.



Cầu Long Biên bị bom Mỹ phá gãy

     Trên nóc cầu Long Biên những khẩu pháo cao xạ 12ly7, 14ly5 vươn thẳng lên trời cao. Cao xạ 100ly đặt ở thôn Gia Thượng và những ụ pháo Bãi Giữa ngày đêm căng mắt, chờ đón lũ giặc trời. Những chàng trai, cô gái của thủ đô, đầu đội mũ sao vuông, tay lăm lăm khẩu súng trường sẵn sàng nhả đạn vào máy bay Mỹ. Đợt 1, từ năm 1965 đến năm 1968, Mỹ ném bom 10 lần làm hỏng 7 nhịp và 4 trụ lớn. Lần 2, năm 1972, chúng đánh phá cầu 4 lần, phá hỏng hơn 1.500 mét, cắt đứt 2 trụ lớn.
    Cho đến hôm nay, tức là lúc tôi lại cùng người yêu năm xưa đi lên chiếc cầu đầy ắp kỷ niệm của những năm tuổi trẻ thì cầu Long Biên đã được hơn trăm tuổi, vắt sang hai thế kỷ và đọng lại trong tâm trí người Hà Nội bóng dáng con Rồng thời Lý. Hà Nội sắp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long- Đông Đô – Hà Nội.Tôi da diết nhớ tiếng búa gõ cạo rỉ ngày nào của những người thợ sơn cầu. Toán thợ này cứ thay phiên nhau gõ rỉ và sơn tất cả cây cầu. Đầu năm từ phía bên hữu ngạn và cuối năm lại quay lại điểm ban đầu. Và nhớ, chao ôi nhớ những ngày xưa thân ái khi lần đầu tôi về Hà Nội!
       Xin  tạm dừng bài viết kể về chuyện tôi đã làm bài thơ Đưa em lên cầu Long Biên, để một dịp khác, viết tiếp.

Dưới đây là bài thơ ấy:
   
Đưa em lên cầu Long Biên

Năm xưa
Anh cùng em
Đứng trên cầu Long Biên
Nhìn lên Bãi Giữa
Nương ngô mút mắt trời Chèm
Mạn Lương Yên, ca-nô, tàu thủy
Tấp nập vào ra chật bến Phà Đen

Con rồng thép uốn mình qua đôi bờ Hà Nội
Chở tuổi thanh xuân những cô gái, chàng trai
Đi vào cuộc trường chinh đánh Mỹ   
Còn đây những nhịp cầu gãy
Chứng tích thương đau
                               
Ta muốn nghe tiếng búa cạo rỉ
Của những người thợ sơn cầu
Như bản hòa tấu âm vang thế kỷ
Thao thiết chảy vào dòng sâu Nhĩ Hà

 Chiều nay trời trở lạnh
Ta lại đưa em lên  cầu Long Biên
Để nhớ về kỷ niệm
Nụ hôn đầu giữa trời đất mênh mang.
                  Đầu Ô Quan Chưởng, một chiều rét ngọt 3 -4 -2007
                                                      Xuân Bảo

                       

Bình minh lên trên cầu Long Biên.


298.NGÀY XUÂN NGẪM VỀ LỄ TỊCH ĐIỀN




298.NGÀY XUÂN NGẪM VỀ LỄ TỊCH ĐIỀN

Nhà thơ Xuân Bảo.
                   Nước Đại Nam ta, vốn là một nước nông nghiệp. Trước đây, có đến 99%  người dân làm nông nghiệp, từ cày bừa,cấy hái, đến trồng tỉa; có những vùng đồi núi còn dùng đến canh tác thô sơ là chọc lỗ, bỏ hạt. Vì vậy, nền văn minh “lúa nước” của ta luôn được coi trọng.
Vì vậy mới có Lễ cày tịch điền. Lễ này xuất phát từ Trung Hoa. Nguyên xuất phát từ việc những người đứng đầu các bộ lạc trong xã hội nguyên thủy vào dịp đầu xuân dẫn dân chúng đi cày cấy. Lễ tịch điền là ngày hội xuân được tổ chức trong tháng giêng (tháng mạnh Xuân), nhưng không phải năm nào cũng tổ chức, Ruộng cày nằm ở phía nam kinh thành. Từ thời Chu, Hán trở đi đã tổ chức nhiều lần. Vào những năm tổ chức lễ tịch điền thì vua quan lần lượt xuống ruộng cày một vài đường đất nhằm khích lệ nông dân phát triển nông nghiệp, đặc biệt là phát triển nông nghiệp lúa nước. Sau khi đã làm lễ thái lao cúng Thần Nông, nhà vua đích thân xuống cày 3 luống, các vương công chư hầu cày 5 luống, cô khanh đại phu cày 7 luống, sĩ phu cày 9 luống. Sau đó thửa ruộng này sẽ được chăm sóc và sản phẩm sẽ dùng để tế lễ năm sau.
Đại Việt sử ký toàn thư chép là vào đầu xuân năm 987 vua Lê Đại Hành làm lễ tịch điền, cày ruộng để khuyến khích dân chúng trồng trọt sản xuất. Đó là lễ tịch điền đầu tiên ở Việt Nam. Sau đó đến thời nhà Lý, lễ này được tổ chức long trọng hơn và là một trong những ngày hội chính của triều đình vào mùa xuân. Đến đời Trần, do nạn giặc nhà Nguyên nên lễ Tịch điền không mấy quan trọng như trước. Tuy nhiên, khi có điều kiện, nhà vua vẫn đích thân làm lễ. Đến các thời nhà Hồ, thì hầu như phong tục này không còn được giữ. Lễ tịch điền được tiến hành đầu tiên dưới thời vua Lê Đại Hành.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Mùa xuân, năm Đinh Hợi 987, vua lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi (Duy Tiên, Hà Nam) được một hũ nhỏ vàng. Lại cày ở núi Bàn Hải, được một hũ nhỏ bạc, nhân đó đặt tên là ruộng Kim Ngân (Kim Ngân điền). "
Sau đó nghi lễ này được tiếp tục và trở thành một truyền thống kéo dài đến thời nhà Trần. Vào thời Lý, Vua Lý Thái Tông là người rất chăm lo cho nông nghiệp nước nhà. Vua đã nhiều lần tự mình xuống ruộng cày. Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại một số sự việc:
Lễ hội được khôi phục và tiến hành long trọng, thành kính dưới thời nhà Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục phần Chính biên đã ghi chép vào tháng 2 năm Mậu Tý (1828) vua Minh Mạng đã ban hành lời Dụ về việc cày ruộng tịch điền như sau:
"Vua bảo bầy tôi rằng: “Ðời xưa vua cày ruộng tịch điền, để lấy gạo làm xôi tế Giao Miếu, nhân thể để xét thời tiết làm ruộng khuyên giúp nông dân, thực là việc lớn trong vương chính. Cái điển ba đường cày, sách vở còn chứng. Nước ta đời Trần đời Lê gián hoặc có làm nghi điển ấy, nhưng phần nhiều giản lược. Trẫm từ thân chính đến nay, chăm nghĩ đến dân, thường lấy việc dạy dân chăm nghề gốc làm gấp. Hiện nay triều đình nhàn rỗi, giảng tìm phép xưa, thực là việc nên làm trước. Nên chọn đất ở Kinh thành làm chỗ tịch điền”. Bèn sai đặt ở hai phường Hậu Sinh và An Trạch, bên tả dựng đài Quan canh, đằng trước làm ruộng đế tịch, đằng sau làm điện thay áo, bên hữu đặt dàn Tiên Nông và đình Thần Thương thu thóc. Sai Trung quân Tống Phước Lương coi làm. Thưởng tiền cho thợ và biền binh làm việc 5.000 quan. Lại đặt sở Diễn canh (tập cày) ở phía Bắc cung Khánh Ninh, gọi là vườn Vĩnh Trạch. Sai bộ Lễ bàn định điển lệ. Hàng năm cứ tháng trọng Hạ (tháng 5) chọn ngày tốt làm lễ..."
Ở các nước nông nghiệp, vua đã biết chăm lo đến nghề nông thật là nên thay. Hơn nữa, như người xưa đã nói, hành động có công hiệu hơn ngàn lời nói. Chẳng thế mà kỷ cương phép nước giữ vững. Đất nước vững vàng, kinh tế cực phát triển, cũng nhờ công lớn lắm của các vua thời trước.
Sau thời phong kiến đôi khi các vị nguyên thủ Việt Nam cũng đích thân đi cày. Cũng có lần chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã xuống ruộng để cày vài đường làm nức lòng nhân dân miền bắc xã hội chủ nghĩa. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu cũng đã xuống ruộng kéo trâu cày vào các dịp kỷ niệm lễ ban hành luật "Người cày có ruộng".
Năm 2009, sau gần 100 năm ngừng tổ chức, lễ tịch điền được chính thức khôi phục tại Đọi Sơn thuộc tỉnh Hà Nam vào mùng 5-7 tháng giêng, và từ năm 2010, có sự tham gia của nguyên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Trương Tấn Sang.
Lễ Tịch điền năm Canh Tý này cũng được tổ chc tại Đọi Sơn.
(Còn nữa)
Bên bờ Phước Long Giang, Ngày  16 tháng Giêng Canh Tý
Nhà thơ Xuân Bảo.

297.ĐÁM CƯỚI MỘT THỜI GIAN KHÓ.


297. ĐÁM CƯỚI MỘT THỜI GIAN KHÓ.
CHÚNG TÔI LÀM LỄ CƯỚI TRONG THỜI GIAN KHÓ.

Hồi ức của nhà thơ Xuân Bảo.

Lời phi lộ.Hồi ức này tôi viết từ năm 2017, nay bổ sung thêm một số tình tiết để mọi người biết rõ những ngày Hà Nội còn trong thời bao cấp. Mọi hoạt động chỉ gìành cho “Tất cả vì tiền tuyến”; “ Tất cả để chiến thắng” giặc Mỹ xâm lược.

Nhớ 1. Chúng tôi đã hát cho Bác Hồ nghe.

        Năm 1960, nhân dân ta đón chào một sự kiện mới: Đại hội III Đảng Lao động Việt Nam họp và đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam, lúc này cũng đã chuyển thành tên Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh. Hơn 1200 đoàn  viên thanh niên ưu tú của Thành đoàn Thanh niên Hà Nội được huy động vào việc chuẩn bị cho Dạ hội Chào mừng thành công của Đại hội Đảng. Thành lập Dàn Hợp xướng lớn để cùng với Đoàn Giao hưởng Hợp xướng Việt Nam biểu diễn trong đêm Dạ hội.
Đại hợp xướng chia thành nhiều bè, mỗi bè từ 200 diễn viên trở lên, đó là các bè basse (giọng nam trầm), bè baryton (giọng nam trung), bè tenor (giọng nam cao), bè alto (giọng nữ trầm), bè soprano (giọng nữ cao hay còn là giọng kim). Tối đến, các sân trường rộn rã tiếng tập hát. Tôi được phân vào bè basse do nhạc sỹ Phan Thanh Nam hướng dẫn.
       Các bài hát được chính thức trình diễn trong đêm nhạc hội gồm: Chào mừng đảng Lao động Việt Nam của nhạc sỹ Đỗ Minh; bài Ca ngợi Hồ Chủ Tịch của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước, lời của Lưu Hữu Phước và Nguyễn Đình Thi; bài Cờ Tháng Tám của nhạc sỹ Phan Thanh Nam... Kết thúc là bài ca Kết đoàn – ca khúc nổi tiếng thời bấy giờ mà mọi người dân Việt Nam đều thuộc.
       Người chỉ huy Đại hợp xướng là nhạc sỹ Nguyễn Hữu Hiếu, Trưởng đoàn Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam . Sân khấu được bố trí tại vườn Bách Thảo, nhìn ra mặt hồ nhỏ, có mấy con thiên nga trắng muốt (của Liên Xô tặng) đang bơi lội. Phía tay phải là núi Nùng, thường gọi là Nùng Sơn, biểu tượng non sông của Thăng Long – Đông Đô - Hà Nội: Núi Nùng, Sông Nhĩ. Phía sau là đường Hoàng Hoa Thám, chạy từ Phủ Thủ tướng lên Bưởi- nơi có sân vận động Quần Ngựa – đã long trọng đón tiếp Bác và T.Ư Đảng về Thủ đô ngày 1.1.1955.
    Đêm 3.9.1960
   Trời Hà Nội vào thu, hàng ngàn người dân Hà Nội tề tựu đông vui trong vườn Bách Thảo. Các sân khấu nhỏ ngoài trời rộn rã tiếng đàn, tiếng hát. Các sàn đấu thể thao cũng náo nức lạ thường.
   Dàn Đại hợp xướng trang phục gọn gàng: nam, quần tây xanh, áo sơmi trắng dài tay; nữ, áo dài, quần trắng. Các nhạc công khoác áo gilet và thắt nơ đen. Màu trắng của dàn Đại hợp xướng nổi bật giữa thảm cỏ xanh trong bầu trời đêm Thăng Long tráng lệ. Khuôn mặt ai ai cũng ngời niềm vui khôn tả. Không khí Đại nhạc hội như lắng lại, khi từ đầu phía Phủ Chủ tịch xuất hiện một đoàn người, đi đầu là một cụ già râu tóc bạc phơ nền nã trong bộ đồ bà ba lụa nâu, chân đi dép lốp cao su Bình Trị Thiên. Đó chính là Bác Hồ, vị Cha già của dân tộc. Tiếp theo sau là các vị: Mukhiđinốp, đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô; Lý Phú Xuân, đại diện Đảng Cộng sản Trung Quốc; Francoise Biou, Đảng Cộng sản Pháp; Đanghê, Đảng Cộng sản Ấn Độ... và còn rất nhiều các vị khác đại diện cho các Đảng Cộng sản và công nhân thế giới tới dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam .
  Bước đi khoan thai của Bác dừng lại trước sân khấu lớn- nơi Dàn Đại hợp xướng đang chờ đợi giây phút trang nghiêm bắt đầu. Hơn 1.000 trái tim như muốn ngừng đập. Có người đã bật khóc khi nhìn thấy Bác.
  Khi Đoàn đại biểu dừng lại. Các nhạc công đứng lên nhường ghế. Bác khoát tay từ chối. Và trong một phút hết sức bất ngờ, Bác ngồi xuống bãi cỏ. Các đại biểu đều làm theo. Những bài ca hùng tráng bắt đầu cất lên. Chúng tôi, những thanh niên Hà Nội được dịp hát cho Bác nghe đã hát như muốn vỡ tung lồng ngực, hát như chưa bao giờ được hát một cách say sưa đến thế. Chúng tôi đã cất tiếng hát từ trái tim tuổi trẻ. Nhạc trưởng Nguyễn Hữu Hiếu hào hứng chỉ huy đến nỗi đũa nhạc gãy làm đôi, phải thay cái khác. Những người dự hội vây quanh sân khấu vòng trong, vòng ngoài.
   Câu cuối bài ca Kết đoàn kết thúc, Bác nhanh nhẹn đứng lên và đi đến bục chỉ huy. Bác ra hiệu. Hiểu ý, nhạc trưởng Nguyễn Hữu Hiếu trân trọng trao chiếc gậy chỉ huy cho Bác. Bác đứng lên bục và giơ cao đũa nhạc. Bài ca Kết đoàn lại vang lên hùng tráng hơn, mạnh mẽ hơn trong tay của Người - Nhạc trưởng Hồ Chí Minh.
    Kết đoàn chúng ta là sức mạnh !
  Nghệ sỹ nhiếp ảnh Lâm Hồng Long đã kịp ghi lại khoảng khắc lịch sử ấy. Bức ảnh Bác bắt nhịp bài ca Kết đoàn là tác phẩm để lại cho đời sau.


  Nhớ 2.
  Cuộc gặp gỡ với của tôi với bí thư Đảng ủy Phan Đình Quý.
  Anh Lê Xứng, trưởng trạm May đo số 7, kiêm bí thư chi bộ đưa cho tôi tờ giấy mời của bí thư Đảng ủy Phan Đình Quý mời tôi lên văn phòng để trao đổi về việc tôi sắp lấy vợ. Đây là cuộc đối thoại.
-         Cậu được Đảng giáo dục và rèn luyện từ những năm Kháng chiến trường kỳ chống Pháp. Cậu có biết giai cấp tư sản là như thế nào không?
-         Thưa anh, giai cấp tư sản là giai cấp bóc lột và đối kháng với vô sản. Cho nên những người theo Cách mạng phải kiên định lập trường là đứng trên lập trường Công nông liên minh.
-         Thế sao, cậu lại định lấy con nhà tư sản Tân Việt?
-         Dạ thưa, tôi chỉ nghĩ đơn giản là yêu nhau thì lấy nhau thôi. Vả lại, giai cấp tư sản ở Việt Nam không giống bọn tư sản mại bản các nước đế quốc. Tư sản Việt Nam chỉ là những người chủ nhỏ, như trường hợp ông bà Tân Việt chỉ có  một cửa hàng ăn Cơm Tám giò chả, mà do Nhà nước trong thời kỳ “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”, đưa vào công tư hợp doanh thôi.
Tôi nói thêm:Thưa đồng chí bí thư. Tôi nghĩ, sau này khi tuổi già sức yếu, tôi có nằm một chỗ thì người chăm nom và bưng bô cho tôi là người vợ, chứ không phải là đồng chí bí thư chi bộ!

Nghe chứng không thuyết phục được tôi, bí thư mặt hơi tái và đứng dậy đập mạnh bàn tay xuống bàn, làm cho 2 cái cốc thủy tinh rơi xuống nền gạch, vỡ toang.
-         Tôi nói cho đồng chí biết, đồng chí là lớp trung kiên mùng 6 tháng giêng(1). đáng lẽ kết nạp đảng lần này nhưng tôi đã họp Ban chấp hành quyết định xóa tên đồng chí.
Và ông ta bỏ đi ra ngoài. Tôi cũng nhanh chóng rời khỏi văn phòng đảng ủy.
(1)   Hồi đó, ngày 6 tháng 1 là ngày thành lập Đảng, nên mới có lớp trung kiên lấy tên lớp trung kiên mùng 6 tháng 1 để chuẩn bị kết nạp đảng.

      Và như thế, ngày 4 tháng 2 năm 1961, chúng tôi tiến hành làm đám cưới. Tính đến nay đã 59 năm trôi qua, tôi viết những dòng này để kỷ niệm.

      MỘT ĐÁM CƯỚI THEO ĐỜI SỐNG MỚI.

          Sau Hiệp định Genève, năm 1954, tôi tập kết ra Bắc trong quân ngũ, ở Đại  đội 235 của Huyện đội Triệu Phong do ông Lê Trường Lữ làm đại đội trưởng. Làng Thượng Phước có hơn phần nửa quân số gồm có tôi, Lê Ngọc Ngoãn, Lê Ngọc Bích, Bùi Hũu Tư, Lê Văn Thượng, Trần Thị Dàn, Lê Thị Phụ. Tôi nhớ anh Lê Ngọc Ngoãn được tạm thời làm tiểu đội trưởng tiểu đội 1. Lúc này tôi đã 20 tuổi. Tôi và một số chiến sĩ có trình độ văn hóa cấp II nên được chọn đi học Khóa Kế toán cấp tốc tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, Nghệ An. Sau 3 tháng mãn khóa, tôi và một số anh chị em, trong đó có Tân Thủy, Kim Biên, người Huế được điều ra công tác tại Chi sở Mậu dịch Đặc biệt Thanh Hóa, đóng ở Bái Thượng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Chi sở này làm nhiệm vụ thu mua những mặt hàng thuốc bắc như thiên niên kiện, sa nhân, đậu khấu và các mặt hàng xuất khẩu khác. Tháng 2 năm 1955 thì giải thể. Tôi và một số anh chị em khác được điều qua Công ty Lương thực Thanh Hóa. Lúc này, ông Lưu Trọng Lạc, em ruột nhà thơ Lưu Trọng Lư làm chủ nhiệm. Nơi đây, tôi quen biết Lưu Lương Sơn và Lưu Thanh Sơn. Hai người con gái của ông Lưu Trọng Lạc.  Lưu Thanh Sơn là bạn gái của Hồ Viết Năng, bạn tôi. Sau này, trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Viết Năng là Trưởng nhóm Văn công bộ đội 559.




                                                   Cô dâu đang trang điểm.

             Ngày 1 tháng 1 năm 1955, Cụ Hồ và Chính phủ về thủ đô ra mắt đồng bào tại sân Vận động Quần Ngựa. Tháng 3 năm đó, tôi lại được chọn đi học tại trưởng Thương nghiệp Trung ương của Bộ Nội thương, đóng tại 66 phố Hoàng Hoa Thám, Khu Ba Đình, Hà Nội. Trường này có lần được Bác Hồ đến thăm. Sau khi tốt nghiệp, tôi là một trong số 200 cán bộ được cử lên tăng cường cho Khu Tự trị Thái Mèo (sau này đổi thành Khu Tự trị Tây Bắc). Khi Khu Tự trị đã ổn định. Bọn phỉ Đèo Văn Long, Vàng Pao và vài nhóm khác bị tiêu diệt. Một số cán bộ tăng cường được điều động đi làm nhiệm vụ khác hoặc đi học.
          Tôi lại được chọn đi học Khóa Hóa nghiệm lương thực để về làm việc ở Cục Máy xay, thuộc Tổng cục Lương thực. Tôi đang thực tập tại nhà máy Xay Đáp Cầu thì lại được điều động về làm giáo vụ tại Trường Huấn luyện Cán bộ, lúc này đóng tạm trong nhà dân tại làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Năm 1959, 1960 tôi được điều sang công tác tại Ban Cải tạo Công Thương nghiệp tư bản tư doanh của Sở Lương thực Hà Nội. Rồi sau đó sang làm việc tại Công ty Vật liệu Xây dựng rồi về Công ty Bông Vải Sợi May mặc Hà Nội.
             Năm 1961, tôi đã 26 tuổi và bắt đầu nghĩ đến chuyện xây dựng gia đình. Tôi quen biết nhà tôi vào những tháng cuối năm 1960. Là đoàn viên Thanh niên, tôi phải báo cáo việc lấy vợ cho đoàn thể biết, cho chính quyền biết, cho Đảng biết.
Khi biết tôi sắp lấy vợ là con nhà tư sản Tân Việt thì bí thư Đảng ủy Ph. Đ. Q. đã hai lần khuyên tôi nên từ bỏ ý định cưới con nhà tư sản. Ông nhẹ nhàng phân tích cho tôi rõ giai cấp tư sản là giai cấp đối kháng của cách mạng. Ông còn xác định cho tôi hãy đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản để không ngừng rèn luyện đạo đức, tư tưởng và tác phong của người cán bộ. Tôi không nghe theo lời răn đe đó nên cùng với Thúy Minh ra Ủy ban Hành chính xin làm giấy kết hôn. Sau 1 tháng, chúng tôi được cấp Giấy kết hôn hợp pháp.





 Ảnh chụp hôm sinh nhật Thúy Minh 77 tuổi.Ngày 6/11/1941 - 6/11/2017 tại Biên Hòa.

             Có trong tay tờ Giấy kết hôn, chúng tôi vào các cửa hàng Mậu dịch để sắm đồ cưới. Cửa hàng Mậu dịch quốc doanh Đồ gỗ bán cho một cái giường đôi gỗ thường. Cửa hàng Mậu dịch quốc doanh Bách hóa bán cho 2 gói chè Thanh Hương, (chè loại 1), 5 gói chè Hồng Đào (chè loại 2) và chè cám loại 3 thì được mua tự do. Cửa hàng Bách hóa còn bán thuốc lá theo tiêu chuẩn đám cưới có 2 tút thuốc Điện Biên, 3 tút thuốc Tam Đảo và 5 tút thuốc Trường Sơn. Thuốc thơm Thăng Long thì không có trong tiêu chuẩn cưới nên không mua được. Cửa hàng Mậu dịch Bánh kẹo bán cho 2 kylô kẹo Hải Châu. Còn cái khoản bánh quy thì đem bột mỳ Liên Xô (bán theo tiêu chuẩn lương thực ăn độn) hàng tháng và đường tích cóp đã 3 tháng ra tiệm bánh quy xốp, quy gai của bà Khiết, phía phải phố Nguyễn Du cắt ngang phố Huế đặt làm 5 ký bánh quy xốp, quy gai và bánh xốp vòng. Chúng tôi lên Hàng Buồm mua mấy ký hạt bí rang rồi.

          Tôi được ông thủ trưởng Lê Xứng, người Huế coi như đứa em xa nhà chăm lo tận tình như người anh cả. Ông đứng ra làm chủ hôn và đại diện họ nhà trai lo việc đi hỏi, đi cưới vợ cho tôi. Ông bố trí cho tôi một căn phòng tân hôn gần 16 mét vuông trên gác 2 của Trạm May mặc số 7, đóng tại 58 phố Huế, cách nhà ông bà Tân Việt tại 60A phố Huế một căn. Ông chỉ đạo Chi đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh làm các công việc trang trí sân lễ Thành hôn, cho cho mượn địa điểm là phân xưởng may làm hội trường hôn lễ.
Bàn là những chiếc máy khâu xếp dồn lại thành 3 hàng dọc, đủ chỗ ngồi cho hơn trăm khách. Ghế là những chiếc ghế đẩu thợ may ngồi hàng ngày. Bàn cô dâu chú rể là hai cái bàn và hai chiếc ghế tựa ba nan làm việc hàng ngày của bộ phận văn phòng.  Bàn này được phủ bằng vải sa tanh màu xanh nước biển, trên bàn có một bình hoa cắm đúng mười bông lay-ơn màu hồng.  Khăn trải bàn là những súc vải phin trắng, phông là vải phin xanh có sẵn trong kho của cửa hàng. Tất cả công nhân và cán bộ của Trạm đều được mời dự cưới (mời mồm). Đồng thời, mỗi người thợ cho mượn một bộ ấm chén pha trà, ba cái dĩa đựng bánh kẹo, hạt bí và một cái dĩa đựng bao thuốc lá và diêm Thống nhất. Tàn thuốc được gạt thẳng xuống sàn nhà. Một cái lọ hoa thủy tinh, loại rẻ tiền mà Hợp tác xã Thủy tinh Hà Nội thời đó sản xuất kỹ thuật còn quá thô sơ nên có nhiều bọt. Trên mỗi lọ hoa được cắm 2 nhành hồng. Người cho mượn chén dĩa ngồi ngay tại bàn đó lo tiếp tân luôn. Sau lễ, thì tự thu dọn các thứ cho mượn mang về. Nước sôi thì do bà Hai Thụy Khuê, lao công của Trạm đun nấu. Mấy nữ đoàn viên lo pha trà.
Thiếp mời cưới phần lớn khách là bạn bè của chú rể, cô dâu, được đánh máy trên giấy lụa hồng (pelure) và gửi trước mươi hôm, đối với những người ỏ xa. Trong nội ô thì mang thiếp đến tận nhà. Phong bì thì mua ở Bưu điện Chợ Hôm, ngay cạnh nhà, loại in sẵn có hai mục, trên cùng phía trái là địa chỉ có ghi chữ: Người gửi, giữa là 2 chữ Kính gửi, chung quanh có sọc nghiêng in đều khoảng 3 cm cách nhau xanh, trắng (trắng là màu có sẵn của giấy phong bì) và đỏ, nhìn như lá cờ tam tài của Tây Phú- lang- sa.
Phông treo gần hết chiều ngang bức tường của xưởng. Trên cùng phông có câu cắt giấy thủ công màu đỏ cờ: Vui duyên mới không quên nhiệm vụ! Chính giữa phông có hai chữ lồng in hoa B và M, nằm trong hình trái tim, cũng màu đỏ. Phía trên hai chữ B và M có đôi chim bồ câu màu trắng chụm hai cái mỏ hồng vào nhau, bốn cái chân bồ câu cũng màu hồng. Cạnh trái có một chữ Hỷ tiếng Tàu, màu đỏ nằm trong hình trái tim màu hồng. Phần dưới phông có mấy chữ: Hà Nội, ngày 4 tháng 2 năm 1961.
          Hai bức tường hai bên phân xưởng (nơi bấy giờ thành phòng hôn lễ) đã có sẵn những câu khẩu hiệu của xưởng may để nhắc nhở tinh thần lao động sản xuất của công nhân. Đó là những câu thường ngày, gần như câu kinh nhật tụng mà nơi nào cũng có: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng! Thi đua lao động sản xuất đạt năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều, giá thành hạ!
Đám cưới của chúng tôi không có màn đưa dâu vì hai căn nhà 58 và 60A phố Huế chỉ cách một căn 60 ở giữa. Đám cưới không có tiệc mặn! Chỉ có đốt một phong pháo ngắn mua của Mậu dịch quốc doanh, (tiêu chuẩn Tết Tân Sửu -1961 của bìa hộ gia đình). Vì đang là thời kỳ chiến tranh khốc liệt, cả nước lo cho tiền tuyến phương Nam. Hồi đó có câu: hạt gạo miền Bắc được cắn làm tư, một cho chiến trường B (miền Nam ruột thịt), một cho chiến trường C (bạn Lào) và một cho chiến trường K (bạn Campuchia). Phần tư còn lại cho miền bắc đang xây dựng nghĩa xã hội. Lương chúng tôi (cả hai người cũng chỉ hơn 100 đồng). Tôi hưởng lương cán sự 2, cộng với 12 % phụ cấp đắt đỏ của khu vực Hà Nội được 76 đồng 8 hào. Lương Mậu dịch viên của Thúy Minh kể cả phụ cấp đắt đỏ cũng không quá 50 đồng.    Vậy nên, đám cưới không thể thuê ở những phòng cưới đắt tiền như Trăm Hoa, như Phú Gia…mà chỉ tổ chức tùng tiệm ở cơ quan. Đám cưới không có chụp ảnh, không có màn chú rể tặng nhẫn cưới cho cô dâu. Về của hồi môn, sau này, nhà tôi kể lại: cậu mợ (tiếng xưng hô của các gia đình Hà Nội thời đó) có cho con gái Thúy Minh một cái kiềng vàng, một đôi xuyến vàng và một cặp hoa tai mặt kim cương. Trong thời gian tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, ông Ng. cán bộ cải tạo thấy tôi đeo hoa tai bằng vàng. Ông Ng. hỏi: ngoài thứ này ra em có các loại trang sức nào khác không? Nhà tôi thật thà trả lời: có. Ông Ng. lại nói: em có biết những thứ này lấy ở đâu ra không? Ông Ng. trả lời luôn là của bóc lột đó. Nhà tôi nghe hai chữ “bóc lột” thì cả sợ và đem nộp mấy thứ đó cho ban Cải tạo. Thành thử, trong ngày cưới của chúng tôi không có của hồi môn là như vậy
Chiều ngày 4 tháng 2 năm 1961, nhằm vào ngày 20 tháng Chạp năm Canh Tý, ông Lê Xứng dẫn theo mấy người đại diện chính quyền, đoàn thể gồm có các chị Nguyễn Thị Mỹ, Nguyễn Thị Đức, Ngô Thị Thái và chú rể, mang theo một mâm lễ gồm có một buồng cau, một xấp lá trầu, một chai rượu trắng (sản xuất tại nhà máy rượu Hà Nội - phố Nguyễn Công Trứ, khu Hai Bà) sang nhà ông bà Tân Việt để gọi là có chút lễ xin rước dâu. Ông bà nhạc tôi chấp thuận và miễn luôn cho cái lễ cúng gia tiên.
          Khác với đám cưới năm 1957 của chị Nguyễn Ngọc Bích, chị cả của vợ tôi, có xe ôtô Traction của hãng Cytroyen.  Loại xe mà nhà văn Vũ Trọng Phụng đã viết trong tiểu thuyết Giông tố. Xe chở Nghị Hách bị patinet giữa đường, gặp Thị Mịch…và mọi thứ chuyện xẩy ra trên xe.
Ông bà Tân Việt cũng có một chiếc xe loại này. Chúng tôi còn lưu giữ được những bức ảnh ông Tân Việt cùng với các ông cậu Trọng, cậu Chi lái chiếc xe này đi chơi chùa Trầm, chùa Trăm Gian trước giải phóng thủ đô 1954.  Mấy chiếc xe đưa dâu chị Ngọc Bích và chàng rể quý tử “cậu ấm kháng chiến” chạy mấy vòng quanh Hồ Gươm rồi mới về nhà mới ở phố Huyền Trân công chúa (sau đổi là phố Bùi Thị Xuân). Mặc dầu, nhà cô dâu cách nhà mới không đầy ba dãy phố. Ngôi nhà này là chú rể mua lại nguyên căn, thuê thợ sửa chữa, tân trang lại và mua sắm vật dụng là những thứ đồ cổ đắt tiền như sập gụ, tủ chè, sa lông Tàu…Bốn cô phù dâu được nhà trai may biếu không bốn chiếc áo gấm thất thể Thượng Hải. Bốn cậu phù rể được chú rể may tặng bốn bộ complet bằng dormueil màu trắng ngà, một loại tissus len rất đắt tiền.
Đám cưới của chị Ngọc Bích không biết có chi hết 20 triệu đồng không? Nhưng sau đó khoảng gần hai mươi ngày thì tờ báo tư nhân có tên Thời Mới do ông Hiền Nhân làm chủ bút đã đăng feuilleton bài 18 ngày trăng mật? Và tác gia Trần Huyền Trân có vở cải lương Ngược dòng, làm xôn xao dư luận Hà Thành?!
Áo cưới của cô dâu Thúy Minh, may bằng gấm thất thể (bảy màu) Thượng Hải – chiếc áo mà hôm 6/11/2017 vừa rồi – Thúy Minh mang ra mặc để phục dựng bộ ảnh cưới thì không mặc được vì chật. Đây là chiếc áo dài do hiệu may ta nổi tiếng Phúc Trạch ở phố Lương Văn Can đo may từ đầu năm 1957. Bộ complet croisé bằng tissus len của tôi may tại Trạm May mặc số 3, 63 hàng Trống. Tiền do ba me nuôi của tôi là ông bà Vũ Thư cho. Chiếc cravate màu đỏ thì mua ở hiệu Đức Minh, phố Tràng Tiền. Đôi giầy da đen thì thửa tại hiệu giầy Nguyên ở ngõ Văn Chương.
Đến giờ khai mạc, ông Lê Xứng thay mặt họ nhà trai nói mấy lời vắn tắt đại khái là đôi tân hôn làm lễ cưới chính thức được luật pháp công nhận. Ông chúc mừng đôi bạn trẻ “bách niên giai lão”! Chúc mừng ông bà Tân Việt có rể thảo! Chúc mừng cơ quan và nhà trai có cô dâu hiền! Ông tỏ lời cảm ơn quý vị tân khách có mặt hôm nay. Cuối cùng ông mời mọi người dùng tiệc trà.
Phần liên hoan văn nghệ do Chi đoàn Thanh niên chủ trì. Các bài hát cách mạng và kháng chiến được cất lên. Hát chay, không có nhạc đệm, không có micro. Cô Chu Minh Hằng và Kim Oanh góp vui bằng những vần thơ. Minh Hằng diễn ngâm bài thơ của nhà thơ Huy Huyền, trong đó có những câu:
Em ơi! Tiếng là cưới, có gì đâu, chỉ ấm nước cơi giầu
Bởi chúng mình thương nhau, mẹ cha làm lễ cưới
Bạn bè xa cũng tới, họ hàng gần cũng sang
Thêm đồng chí Ủy ban. Thế là vui biết mấy!

Cô Kim Oanh diễn ngâm bài thơ Mừng đám cưới Xuân Bảo – Thúy Minh của nhà thơ trào phúng Nguyễn Đức Xa, người làng Thanh Liệt, quê của tác giả Thất trảm sớ Chu Văn An. Cụ Nguyễn Đức Xa là nhà thơ trào phúng, đã có rất nhiều thơ châm biếm đăng trên báo Hà Nội mới, ở chuyên mục “Chuyện lớn chuyện nhỏ”.

          Dưới đây là nguyên văn nội dung bài thơ đó:

                              Tặng đôi bạn trẻ: XUÂN BẢO – THÚY MINH

                                                                   Nhân NGÀY CƯỚI 04-02-1961.

Xuân Bảo - Thúy Minh đôi bạn trẻ
Lễ Thành hôn vui vẻ giữa trời đông
Xuân đã tươi như một đóa hồng nhung
Tình lại đẹp như bản đàn nhà nhạc sĩ
Xuân Bảo Thúy Minh yêu nhau vì tâm lý
Nên hai bạn Minh - Bảo mến thương nhau
Uyên ương gối thắm tươi màu
Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời

                                                Thanh Liệt, 04/02/1961

Kính thưa hương hồn Bác NGUYỄN ĐỨC XA!
Câu thơ Chúc của Bác giờ đây chúng cháu vẫn lấy làm phương châm cho cuộc sống vợ chồng: “Uyên ương gối thắm tươi màu/Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời...”. Trong những năm gian khó của Hà Nội thời đánh Mỹ, dù gặp nhiều khó khăn trong đời sống, chúng cháu vẫn âm thầm lặng lẽ hy sinh cùng nhân dân thủ đô hoàn thành sứ mệnh đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Và hơn 40 năm sau giải phóng đất nước, còn bao nhiêu khó khăn thiếu thốn, chúng cháu vẫn thầm nhắc câu thơ của Bác để cùng nhau xây dựng tổ ấm gia đình.

Giờ đây, thế mà đã 59 năm trôi qua. Trong những năm khốc liệt của chiến tranh chống Mỹ cứu nước, vợ chồng chúng tôi vẫn toàn tâm toàn ý với chế độ. Và bây giờ tôi đã bước sang tuổi trên bát tuần, nhà tôi cũng suýt soát dưới tám mươi. Chúng tôi đã có chắt gọi bằng Cụ. Chúng tôi luôn tâm niệm câu chúc của anh Lê Xứng ngày đó: Bách niên giai lão! Và hai câu thơ của Cụ Nguyễn Đức Xa:

 Uyên ương gối thắm tươi màu
Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời!

        Bên bờ Phước Long Giang – Kỷ niệm 59 năm ngày cưới 4.2.1961 – 4.2.2020, nhằm ngày Thần Tài mùng Mười tháng Giêng năm Canh Tý.

                                                                   Nhà thơ Xuân Bảo





296. Nhân Ngày Lễ Thánh Valentine 14 tháng 2 năm 2020.

Nhân Ngày Lễ Thánh Valentine 14 tháng 2 năm 2020.

1.Một kỷ niệm Valentine 2018

Năm ngoái 2017, cũng ngày này tôi lên Chùa Hà để chúc Bích Hạnh nhân Ngày Tình Nhân. Tôi mang theo chai rượu Chivas 18, do nhà biên kịch Lê Quang Minh vừa tặng tôi hôm Tết Nguyên đàn. Cô em vợ Nguyễn Thị Liên Hương gói cho tôi một con gà nhồi thịt có tên là "gà trạng nguyên". Tôi ghé quầy hoa mua đúng 1 bông hồng nhung màu tím để làm quà tặng. Đến nơi tôi gọi điện thoại cho nàng. Nàng bảo: Em và cả nhà đang ở Mai Châu (Sơn La). Thế là tôi phải xách món quà về nhà. Còn bông hồng tôi tặng cho một cô gái vừa đi qua trước mặt tôi. Bẽ bàng quá!
Hôm nay, nhân Ngày Lễ Thánh Valentine, tôi nhắc lại một kỷ niệm buồn. Và chúc cho gia đình Bích Hạnh mạnh khoẻ , bình yên! Chúc mừng Năm mới luôn "vạn sự như ý"!
                  

Bông hồng màu nhung tím

Tôi gửi lẵng hoa này cho Bích Hạnh nhân Ngày Lễ Tình nhân năm 2020



2.Vì sao có ngày Lễ ThánhValentine?
Theo trang Fb Phùng Minh Diệu
Ngày Valentine 14/2 là ngày lễ đặc biệt dành cho các đôi tình nhân trên toàn thế giới. Đây là dịp đôi lứa dành cho nhau các món quà lãng mạn như hoa hồng, chocolate, trao cho nhau những nụ hôn "tình cảm".
Có lẽ châu Âu là nơi có nhiều dị bản nhất xung quanh vị thánh này. Trong đó, truyền thuyết phổ biến nhất kể về Thánh Valentine là một người xuất thân từ trần gian thời La Mã cổ đại. Dưới thời kì trị vì của hoàng đế Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia vào rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu. Nhà vua rất khó khăn trong việc tuyển mộ quân lính. Claudius bạo chúa nghĩ rằng đó là do đàn ông còn bận tâm về gia đình vợ con nên mất hết ý chí; thay vào đó, những người đàn ông trẻ độc thân thì chiến đấu sẽ tốt hơn. Kết quả là một đạo luật hà khắc ra đời: ông đã cấm tất cả đàn ông được kết hôn. Đạo luật đi trái với ý Chúa và dân tình nên gây ra nhiều phẫn nộ.
Trước tình cảnh đó, một vị linh mục nhân ái tên Valentine đã bí mật tổ chức hôn lễ cho nhiều cặp tình nhân trong nhà thờ. Sự việc bại lộ, vị linh mục tốt bụng bị bắt giam trong ngục trước khi bị xử tử bởi hình phạt dã man là chém đầu, kéo lê xác khắp thành. Điều kì diệu là thời gian sống trong ngục tối, linh mục đã giúp chữa khỏi mắt cho con gái quản ngục vốn mù lòa bẩm sinh tên Julia. Trước khi ra pháp trường ngày 14/2 khoảng năm 270 TCN, ông đã gửi cho Julia một tấm thiệp kí tên “dal vostro Valentino” - “from your Valentine”. Cảm động trước lòng tốt của vị linh mục tốt bụng này, ngày lễ Valentine ra đời với ý nghĩa tưởng nhớ những công lao của ông trong việc bảo trợ tình yêu con người.
Một dị bản khác về xuất xứ của ngày Valentine đó là từ các lễ hội Công giáo. Cụ thể ở đây là xuất phát từ lễ hội Lupercalia chỉ có tại Rome cổ đại được tổ chức vào khoảng ngày 13-15/2 hàng năm nhằm tưởng nhớ nữ thần La Mã Juno. Trong ngày này, các cặp đôi sẽ được xe duyên thông qua hình thức rút thăm tựa như một hệ thống quay số tình yêu. Những cặp đôi được xe duyên sẽ làm quen và nếu thực sự có tình cảm với nhau sẽ trở thành tình nhân. Sau đó, ngày này được các mục sư chuyển thành ngày tình nhân Valentine 14/2.

Một điều thú vị không kém khi tìm hiểu về lễ tình nhân ở các nước châu Âu đó là quan niệm của họ về tình yêu. Với người phương Tây, họ cho rằng vào giữa tháng 2, chim chóc bắt đầu bước vào mùa tìm bạn tình nên khoảng thời gian này là đẹp nhất trong năm cho các đôi lứa tìm hiểu và yêu nhau, dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất. Ý niệm về một ngày lễ tình yêu giữa tháng 2 có lẽ xuất phát từ đây.
Ở các nước châu Mĩ, ngày lễ tình nhân còn có những cái tên khác. Ở Brazil, Valentine không diễn ra vào 14/2 như các nước khác. Nó diễn ra vào ngày 12/6 hàng năm và mang tên “Dia dos namorados” có nghĩa là "Ngày của tình yêu". Còn ở Colombia, Valentine được tổ chức vào ngày thứ 7 tuần thứ ba của tháng 9 với cái tên “Dia del amor y amistad” (Ngày tình yêu và tình bạn).


VALENTINE 'S DAY, NGUỒN GỐC, Ý NGHĨA
Theo trang Fb của Việt Cường Sarraut

Tiếng Anh là Valentine 's Day.
Đây là một ngày lễ có xuất xứ từ châu Âu, trong những năm gần đây đã du nhập vào nước ta và đang trở thành một nét đẹp trong đời sống xã hội.Tuy nhiên lễ hội này mới chỉ thịnh hành trong phạm vi ở các thành phố lớn trong cả nước.
Vào ngày này, người ta bày tỏ tình yêu của mình bằng cách gửi cho nhau tấm thiếp Valentine, hoa hồng, chocolate và một số quà tặng đặc biệt khác mang nhiều ý nghĩa. Là một ngày đặc biệt dành cho những mảnh ghép yêu thương, cho đôi lứa có thêm một ngày để trọn vẹn yêu thương và để tình cảm của mình thêm phần sâu sắc. Vì vậy Lễ Valentine không dừng lại ở một ngày của tình yêu mà là một ngày đáng nhớ với những kỷ niệm đi sâu vào ký ức của nhiều người. Là ngày mà cả thế giới tôn vinh tình yêu lứa đôi.
Trong ngày này các cặp đôi thường tổ chức một chuyến đi xa, một cuộc hẹn gần gũi mang lại một trải nghiệm thú vị cho cả hai người.
Có nhiều giai thoại để giải thích cho nguồn gốc của ngày Lễ Valentine. Nhưng đa số các quốc gia đồng tình với giai thoại về nguồn gốc của ngày lễ đó như sau:
Vào thế kỷ III sau công nguyên, đế quốc La Mã dưới sự trị vì của hoàng đế Claudius II đã trải qua một giai đoạn lịch sử đầy biến động và hỗn loạn, hay còn gọi là "Cuộc khủng hoảng của thế kỷ III". Đế quốc La Mã bị phân chia thành ba bang chém giết lẫn nhau.
Hoàng đế Claudius II, là một hoàng đế độc tài đã ban hành một mệnh lệnh vô cùng khắc nghiệt là cấm toàn bộ thanh niên trong đế chế kết hôn. Bởi ông tin rằng: Những người lính không lấy vợ có khả năng chiến đấu tốt hơn. Nên đã nghiêm cấm các nhà thờ tổ chức lễ thành hôn cho các cặp đôi muốn kết hôn.
Lúc bấy giờ có một giáo sỹ, một linh mục tên là Valentine, cảm động trước những tình cảm chân thành muốn đến với nhau của các cặp đôi trai, gái. Ông đã đứng ra làm lễ thành hôn trong bí mật cho các cặp đôi yêu nhau. Hành động của vị giáo sỹ bị phát giác, ông đã bị tống vào tù và bị hoàng đế độc tài Claudius II ra lệnh xử trảm ông vào ngày 14 tháng 2 năm 270 trên con đường Via Flaminia.
Cái chết của linh mục Valentine là biểu tượng cho tình yêu cao cả của những người Ki - tô giáo, ông là vị thánh bổn mạng của những lứa đôi, là vị thánh của Roma.
Đến thế kỷ V, đức giáo hoàng Gelasius tuyên bố lấy ngày mất của ông 14/2 là ngày Lễ Tình yêu, hay còn gọi là ngày Lễ Tình nhân.
Từ thế kỷ XVII các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và nhiều quốc gia khác đã lấy ngày mất của ông 14/2 và tên của ông để đặt cho ngày Lễ Tình yêu, ngày Lễ Tình nhân, đó là VALENTINE 'S DAY.

Chân dung vị thánh Valentine.
Bên bờ Phước Long Giang,sáng ngày 14 tháng 2 năm 2020.
Nhà thơ Xuân Bảo