152.Về với Dòng sông yêu thương –
dòng sông đau thương
Bút ký của Xuân Bảo
(Viết nhân chuyến đi Quảng Trị ngày 12 đến 19/6/2015 ,thăm lại dòng Hiền Lương, nhân
ngày ký kết Hiệp nghị Genève 20/7/1954 – nơi cách đây hơn 60 năm tác giả tập kết
ra Bắc và dự việc Họ , việc Chi ở làng Đại
Hào,Triệu Phong)
1.
DẠO MỘT VÒNG ĐỒNG BẰNG TRIỆU HẢI.
Chiếc Toyota bốn chỗ của Phan Quang
Kỳ, bạn của cháu Tuân con anh Hậu đưa tôi và anh Hậu xuất phát từ Phường Sãi xuôi
những chặng đường làng còn thi công dang dở. Con đường này là con đường quốc phòng
sẽ chạy suốt từ cầu Thạch Hãn – nơi có tượng đài 19 giọt máu của trung đội anh
hùng Mai Quốc Ca – chạy tới biên giới Việt Lào do Binh đoàn Thống Nhất thi
công.
Qua cầu xe băng qua thị xã Quảng Trị
nơi có 81 ngày đêm máu và hoa trong “ Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Rẽ phải đi về quốc
lộ 49 C qua các làng Thâm Triều, Phương Lang, Ngô Xá Đông, Ngô Xá Tây, rồi đến Chợ Cạn. Đây là vùng đất sinh ra những người
con làm rạng danh tổ tiên dòng họ. Đó là gia đình cố bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Đoàn Khuê. Đó là làng Thượng Trạch, quê nội của nhà văn Trần Công Tấn. Đó là
quê hương của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba và nhà thơ Lương An…
Tôi muốn thăm lại những nơi mà
trong kháng chiến chống Pháp tôi đã từng đặt chân tới. Đó là làng Ngô Xá – nơi năm 1952 có sự kiện đập vỡ cây đàn ghi ta. Bộ
đội địa phương đại đội 2, tiểu đoàn 320
hành quân qua làng thì nghe có tiếng hát: Rằng
kháng chiến còn trường kỳ và còn gian khổ. Chính trị viên đại đội ra lệnh
cho một chiến sĩ tìm nơi phát ra tiếng đàn và người hát. Ông cho phép đập vỡ
cây đàn và cấm không được hát bài hát này. Đây là bài hát có tựa đề Lời người ra đi của nhạc sĩ Trần Hoàn.
Trần Hoàn tên thật là Nguyễn Tăng Hích, con cụ Cố Cả làng Câu Nhi. Hồi đó bài
hát này cũng đã được đưa ra phân tích tại Hội nghị Văn nghệ Bình Trị Thiên. Nhà
thơ Chế Lan Viên đọc báo cáo tình hình văn nghệ Liên khu Bốn. Có ý kiến cho rằng
lời bài hát ủy mị làm mất tinh thần chiến đấu của quân đội. Sau đó một thời
gian dài bài hát không được lưu truyền trong nhân dân.
Tôi muốn thăm lại Chợ Cạn, nơi có bài
thơ “Cây dương Mỹ Thủy” của nhà thơ
Dương Tường khá nổi tiếng lúc bấy giờ.
Trận Chợ Cạn là trận đánh xáp lá cà của
bộ đội ta do đại đội trưởng Hoạt chỉ
huy. Ông Hoạt ra lệnh: Cách địch 20 mét bốc cát quăng! Chả là đang trong mùa
gió Lào (Dân Quảng Trị gọi gió Lào là gió Nam) cát bay mù mịt.Bộ đội ta chiến đấu
nhiều giờ liền và hết đạn. Lợi dụng ở trên chiều gió, ông Hoạt ra lệnh bốc cát
quăng (ném) để cát chui vào nòng súng đối phương không nhả đạn được.Trận này
Bùi Hữu T, người làng Thượng Phước học cùng lớp với tôi, mới nhập ngũ chưa đầy
sáu tháng và hy sinh trong trận đánh đầu tiên này. Ông Hoạt thì bị thương ở hạ
bộ, may mà không bị đứt lìa cái của quý.
Chưa tới chin giờ thì chúng tôi đến bờ nam cầu
Hiền Lương. Nơi đây năm 1956 tôi đã được bác Hồ Sĩ Thản, bí thư Đặc khu ủy Vĩnh
Linh cho ra thăm cầu. Sự kiện này tôi đã nhắc tới trong cái Bút ký Đường Vào và
đã xuất bản thành sách.Chúng tôi đang đứng trên chiếc cầu lịch sử, cầu Hiền
Lương! Lòng bỗng thấy rưng rưng.
***
Nhà
thơ Xuân Bảo và ông Nguyễn Ngọc Hoát, Trưởng chi I họ Nguyễn 8 phái làng Đại
Hào trong ngày việc Họ (3/6 Ất Mùi)
|
Theo
Ô Châu cận lục của Sùng Nham Hầu Dương
Văn An thì châu Minh Linh phía tây có
núi Cổ Trai, phía đông có ngọn Thần Phù tức đảo Cồn Cỏ. Giờ đây Cồn Cỏ đã thành
một huyện của Quảng Trị. Có cửa biển Tòng Luật, ngày nay thường gọi là Cửa Tùng.
Cửa Tùng đón nhận nguồn nước từ hai con sông: Sông Hiền Lương chảy từ thượng
nguồn về khoảng 60 cây số thì hợp lưu với sông Sa Lung từ hướng tây bắc đổ vào
thành ngả ba sông. Đứng trên cầu Hiền Lương nhìn theo hướng tây thấy rất rõ cái bán đảo này. Cả
hai con sông này đều chảy qua làng Minh Lương nằm ở bờ bắc và làng Xuân Hòa ở bờ
nam. Sông Hiền Lương thực ra có tên là Minh Lương. Thời vua Minh Mạng, do kiêng
húy chữ Minh nên cả tên làng, tên sông đều đổi thành Hiền Lương. Sông dài hơn
70 cây số, chỗ rộng nhất 200 mét, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy dọc vĩ tuyến
17 từ tây sang đông, ranh giới giữa 2 huyện Vĩnh Linh và Do Linh rồi đổ ra biển
Đông tại cửa Tùng Luật. Con sông này còn có tên là Bến Hải. Thực ra chữ Bến Hải
là do người Pháp đọc chệch ra tử địa danh Bến Hai, bến thứ hai từ thượng nguồn
sông.Ngoài ra, sông còn có nhiều tên gọi khác. Đoạn thượng nguồn có tên là Rào
Thanh, đoạn cuối có tên là sông Cửa Tùng hay Tùng Luật. Hồi chúng tôi tập kết
ra Bắc qua đoạn sông rất hẹp mà ở đó có một cây rừng đổ ngang từ bờ nam sang bắc,
bộ đội leo lên thân cây sang sông thì gọi là sông Hói Cụ. Sông còn có tên gọi
là sông Hồi. Trong kháng chiến chống Mỹ nhà văn Nguyễn Tuân sáng tạo ra cái tên
mới là sông Tuyến khi đất nước bị chia cắt
bởi Hiệp định Genève năm 1954.
2.
DÒNG SÔNG ĐAU THƯƠNG VÀ HÙNG VĨ MÁU XƯƠNG.
Những năm mới ra Hà Nội tôi thường
được nghe và được hát bài hát Câu hò bên
bến Hiền Lương. Lời bài hát như
cào xé tâm can của những người con miền Nam đang sống trên đất Bắc. Một thời
khi mà chúng tôi nghĩ là chỉ xa quê hương trong vòng hai năm để rồi sẽ có ngày
tổng tuyển cử thống nhất nước nhà, sẽ có ngày đoàn tụ gia đình. Bài hát của một
thời chia cắt đứt ruột đứt gan. Thời của Bắc di cư – Nam tập kết - Mẹ xa con – Anh lạc em – Vợ lìa chồng. Thời của
hận thù – nồi da xáo thịt. Tôi lại hồi tưởng hơn mấy trăm năm trước cũng tại dải
đất hẹp Quảng Bình nơi có con sông Gianh đã là nơi chia cách trong thời Trịnh
Nguyễn phân tranh.Như vậy khúc ruột miền trung náy đã hai lần bị xẻ làm đôi.
Trước là hận Sông Gianh nay là hận sông Hiền Lương! Đêm đến lòng bồi hồi da diết
nhớ quê tôi đã làm bài thơ có nhan đề
Nhớ
nhà:
Quạnh quẽ đêm nay ta với bóng
Bồi hồi nhớ mẹ nơi quê nhà
Đầu non sương lạnh trăng mờ khuất
Eo óc thôn xa mấy tiếng gà.
Tượng đài Thống nhất ở bơ Nam sông Hiền Lương
Hiệp định Genève quy định giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17 chạy từ biển lên nguồn. Đoạn này là khúc eo trên bản đồ Tổ quốc ta, chỉ rộng có 70 cây số. Nói như nhà thơ Nguyễn Duy “đất nước ta hình củ khoai củ sắn” thì đây là mảnh đất hẹp có số đo nhỏ nhất trên cơ thể Việt Nam mà dòng sông Bến Hải giông giống sợi dải rút thắt ngang như người buộc bụng thắt lưng (ôi thân hình Tổ quốc tôi/ như người buộc bụng như người thắt lưng – (Thơ Nguyễn Duy ghi chép ở Trường Sơn)
Hiệp định đình chiến quy định thành
lập vùng phi quân sự (DMZ – Demilitaire Zone) thiết lập dọc hai bên bờ sông, mỗi
bên nơi rộng nhất không quá 5 km. DMZ là khu đệm để tránh xung đột có thể làm
cho chiến sự xẩy ra. Tuy nhiên trên thực địa DMZ có độ rộng hẹp khác nhau như tại cầu Trìa
chỉ cách cầu Hiền Lương 2,5 km nhưng cột mốc ở phía nam Cao Xá thì cách cầu 4,5
km, còn ở cột mốc làng Tân Trại thì cách sông đến hơn 6 km. Đường giới hạn vùng
phi quân sự có cắm hệ thống cột mốc bằng gỗ sơn trắng. Trên tấm biển này ghi
hai dòng chữ tiếng Việt và tiếng Pháp:
Giới tuyến quân sự tạm thời
Ligne de décramation militaire proviso ire
Tại khu vực DMZ, hai bên không được
bố trí quân đội, chỉ có những nhân viên của Tổ 76, Ủy ban Quốc tế (gồm 3 nước Ấn Độ, Ba
Lan và Canada) giám sát thực hiện hiệp nghị mới được trang bị nhà binh và ở đây
cũng quy định rất nghiêm ngặt những ai có thể đi lại trong vùng này. Đó là các
Đội Thị sát của Ủy ban Quốc tế, Ủy ban Liên hợp Đình chiến Trung ương, Ủy ban
Liên hợp DMZ, các Tổ Liên hợp, các nhân viên dân chính cứu tế và những người được
phép của Ban Liên hợp Đình chiến Bình Trị Thiên.
Tôi còn nhớ, tối 19 tháng 8 năm
1954 sau khi tổ chức mittinh và liên hoan văn nghệ với đổng bào các xã Triệu
Sơn, Triệu An và có cả nhân dân trong thị xã Quảng Trị ra dự. Trước đó mấy ngày
tôi được đại đội trưởng Lê Trường Lữ gọi lên truyền đạt ý kiến của Ban chỉ huy
Tỉnh đội Quảng Trị phân công tôi vào Ban Văn nghệ và dàn dựng bản đồng ca bài
hát Ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam. Ngay khuya hôm đó bộ đội chúng tôi phải
hành quân cấp tốc ra khỏi giới tuyến vì ngày 20 tháng 8 đã khóa tuyến.
Mỹ hất cẳng thực dân Pháp và tiến
hành một cuộc chiến tranh đẫm máu tại Nam Việt Nam kéo dài 21 năm. Quốc trưởng
Bảo Đại trước sau chỉ là một ông vua bù nhìn. Ngô Đình Diệm từ Mỹ về và tuyên bố
biên giới Hoa Kỳ kéo dài đên tận vĩ tuyến 17 Việt Nam. Sau đó là Luật 10.59 của
Diệm lê máy chém đi khắp miền Nam với chiến dịch tố cộng vô cùng dã man, trả
thù những người tham gia chống Pháp, những người kháng chiến cũ.
Sông Hiền Lương là nỗi đau chia cắt
của dân tộc!
3. LỊCH
SỬ CHIẾC CẦU CŨ, CHỨNG TÍCH MÔT THỜI.
Tôi nói với Phan Quang Kỳ cho xe chạy
thẳng sang bờ Bắc và dừng lại bên công viên Cột cờ giới tuyến. Từ bên này nhìn
về nam, hai chiếc cầu, một cũ, một mới nằm tại vị trí bờ bắc, cách nhau 20 mét,
tạo thành hình chữ V.
Cầu cũ vẫn là chiếc cầu cách đây gần
trăm năm khi nó mới ra đời và giữ lại những nét cổ xưa như vốn có. Còn cầu mới
thì mới khánh thành thông xe vào lúc 9 giờ sáng ngày 15 tháng 4 năm 1999 ở
thiên niên kỷ trước, sau 46 tháng thi công với tổng kinh phí là 42 tỷ đồng tiền
Việt Nam.
Cầu mới
có chiều dài 230 mét, rộng 11 mét 5, do Tổng công ty Xây dựng Công trình
giao thông IV (Cienco IV) thi công theo công nghệ Nga vừa đúc vừa đẩy dầm
bê-tông cốt thép dự ứng lực liền nhịp.
Cầu Hiền Lương trước đây bắc qua
sông Tuyến tại Km 735 trên con đường thiên lý Bắc Nam, mà ngày nay gọi là Quốc
lộ 1A, nối liền thôn Hiền Lương ở bờ bắc, thôn Xuân Hòa ở bờ nam, cách cửa Tùng
Luật 10 km về phía tây. Đầu năm 1928 quan phủ Vĩnh Linh huy động sức dân làm một
chiếc cầu bằng gỗ, cọc sắt, rộng 2 mét chỉ để cho khách bộ hành. Năm 1932, thực
dân Pháp có sửa chữa nhưng xe cộ qua sông đều phải đi phà. Năm 1943, cầu được
nâng cấp, các loai xe cơ giới tải trọng nhẹ có thể lưu thông.Năm 1950, trong thời
Kháng chiến Bình Trị Thiên mịt mù khói lửa, thực dân Pháp xây lại cấu. Cầu dài 163
mét, rộng 3 mét 60, trọng tải 10 tấn.Cầu chỉ tồn tại được 2 năm thì bị du kích
Việt Minh đặt bộc phá giật sập. Tháng 5 năm 1952, Pháp xây lại cầu có chiều dài
178 mét, rộng 4mét, có 7 nhịp bằng bê-tông cốt thép, dầm cấu bằng thép, mặt cầu
lát bằng gỗ thông, hai bên có lan can cao 1,20 mét, trọng tải tối đa là 18 tấn.
Cho tới ngày Hiệp nghị Genève được ký kết, cấu
Hiền Lương cũng nổi rõ lên sự chia cắt – một sự chia cắt đến đau lòng. Khi về
thăm sông Tuyến nhà văn Nguyễn Tuân đã ghi chép tỷ mỷ những số liệu về chiếc cầu
này: Cầu được cắt ra hai phần, mỗi bên dài 89 mét.Cầu có tất cả 894 tấm ván lót
mặt.Bên bắc đếm được 450 tấm, bên nam có 444 tấm. Chỉ khác là giữa tâm cầu ở miếng
ván mét thứ 89 có một vạch sơn màu trắng kẻ ngang rộng 1 cm làm ranh giới chia
đôi.Bên nam thì màu xanh. Để nói lên nguyện vọng đất nước Việt Nam là một nên phần
cầu bên bắc ta cũng sơn màu xanh như bên kia. Mỹ - ngụy lại chuyển sang sơn màu
nâu. Ta cũng sơn màu nâu. Rốt cuộc chúng phải chịu thua, để lại một màu xanh thống
nhất. Cầu này chỉ tồn tại được 15 năm (1952 – 1967) thì bị chính bom Mỹ đánh sập
khi chúng tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Sau Ngày giải phóng hoàn
toàn miền Nam mãi tới năm 2000,để bảo tồn di tích lịch sử Đôi bờ Hiền Lương ta
xây lại chiếc cầu này đúng nguyên bản cầu cũ
Biết bao nhiêu chuyện đau lòng đã xẩy
ra nơi tuyến đâu này.
“Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ
Chung một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa”