Ngày Cát-tó ju-dê Quốc khánh Pháp – 14/7/ năm
1944 ở Huế
Hồi
ức của nhà thơ Xuân Bảo
Trại Con
gái Mang Cá có nhiều dãy nhà. Mỗi dãy có tới mấy chục căn hộ. Căn
hộ hai đầu dãy thì thông nhau, nhìn ra hai phía, dùng bố trí cho cấp
bậc đội và đội sếp.( sergent et sergent chef). Còn từ cai (caporal) trở xuống thì chỉ
ở những căn giữa. Căn hộ ba mạ tôi ở gần sân vận động. Trước mặt
nhà về phía tây là nhà của ông đội sếp Nguyễn Văn Hinh. Ông này đặt
tên con theo cái giờ nó được sinh ra. Còn tên thật theo giấy khai sinh
thì khác. Thằng đầu cùng tuổi với tôi tên là À dix heures, tức Mười
giờ. Bọn học trò chúng tôi thường chọc ghẹo nó, gọi nó là Thằng đít
giơ theo tiếng Việt là thằng đít dơ (nhớp). Thằng em nó được đặt tên
là À onze heures dix minutes, tức Mười một giờ mười phút. Chúng tôi
lại gọi tên nó bằng tiếng Việt: thằng ông giơ đít mi nút.
Ông Nguyễn Văn Hinh, sau Hiệp định
Giơ-ne-vơ lãnh đạo phe chống Ngô Đình Diệm và bị Diệm tiêu diệt nặng
nề.
Trong Trại này có một cái biệt
thự riêng biệt, được đặt sau ngôi đền, từ ngoài cổng vào. Cụ quản
Vương Đình Khoan (adjudant chef) ở cả gia đình từ Nghệ An vào. Thỉnh
thoảng thấy cụ xuất hiện, đi xuống các dãy nhà, trong tay cụ lúc
nào cũng có cây roi cặc bò. Lính tráng gặp cụ thì phải giơ tay chào
kiểu nhà binh. Còn lũ trẻ chúng tôi gặp cụ thì phải đứng lại, vòng
tay ra trước ngực “bẩm cụ”. Năm 1944, Cụ quản Khoan mãn hạn lính.
Người thay thế là cụ quản Trang vào ở ngôi biệt thự đó.
Cách cổng Trại Con gái chưa đầy
ba trăm mét, phía tay phải là cổng đồn Mang Cá. Ngoài cổng có một dãy
nhà của ông cai Thuyết cho thuê, kiểu như nhà trọ bây giờ. Nghe nói ông
cai Thuyết khởi nghiệp chỉ có trong tay 5 xu tiền Đông Dương lúc bấy
giờ. Thế mà 10 năm sau ông đã trở nên giàu sụ, có của ăn của để.
Vào khỏi cổng phía tay phải có cái bót gác, vào bên trong chừng mươi
mét có một tiệm cắt tóc. Tiệm cắt tóc có ba chiếc ghế cho khách
ngồi. Trên trần nhà có ba cái quạt kéo bằng vải, giống như cái quạt
giê lúa của nông dân. Khi có khách cắt tóc thì có một chú nhỏ
khoảng trên 10 tuổi kéo dây cho quạt đung đưa qua lại trên chỗ khách
ngồi cho mát.
Vào một đoạn nữa là kho gạo.
Cứ đến đầu tháng mạ tôi đem “bông”- một loại tem phiếu phát cho vợ
lính - để lĩnh gạo mang về. Tiền mua gạo này được Trésorier (kho
bạc) chiết trừ vào tiền lương hàng tháng của ba tôi. Đối diện với kho
gạo là một cái nhà bàn rất to, (tức là nhà ăn tập thể), đủ chỗ
ngồi cho cả một tiểu đoàn lúc tới giờ ăn.
Muốn đi vào trong thành phải đi
qua một cái cầu xi-măng hình bán nguyệt, bắc qua hào rồi đi qua cái
cổng thành có cánh cửa gỗ to đùng ngày mở đêm đóng, có lính canh
thường trực. Đây là cổng thành được gọi là Cổng Trấn Bình đài (Cửa Đông Bắc Kẻ Trài). Phía trong thành là
nơi đóng quân của binh lính và sĩ quan của Tiểu đoàn 3 ( 3 è batallon ).
Có phòng làm việc, nơi ở, có câu lạc bộ, sân vận động bóng đá, sân
bóng chuyền, bãi tập quân sự (thao trường). Đặc biệt có kermesse (theo
nghĩa là chợ phiên), nhưng thực tế chỉ là cái cantine bán tạp hóa
và thực phẩm cho binh lính. Mạ tôi thường hay được các chú lính mua
giúp bia, nước ngọt và các thứ thực phẩm về dùng.
Những ngày lễ lớn như Quốc
khánh Pháp (14 tháng 7, mà dân Huế thường gọi là ngày Cát – tó Ju-dê), Noel,
Tết Tây (nouvel an), Tết Nguyên đán, Bộ Chỉ huy thường tổ chức ngày
hội gồm nhiều trò chơi như leo cột mỡ, thi nhảy bao bố, bịt mắt bắt
vịt, bịt mắt đập om (một loại nồi đất) và nhiều trò chơi khác. Có
lần tôi đập trúng cái om đựng đầy nước, nước bắn tung tóe, ướt hết
mặt mũi quần áo. Vợ con binh lính được vào vui chơi trong thời gian
mở hội.
Kết thúc niên khóa 1943-1944,
trường chúng tôi tổ chức cho học trò lớp sơ đẳng đi thi Sơ học yếu
lược. Học trò phải có cái certifica d’identité (thẻ căn cước). Mạ tôi
dẫn tôi lên hiệu ảnh gần chợ Đông Ba. Tôi được mặc áo lương đen và
đội khăn đóng (khăn xếp) chụp hình để dán vào hồ sơ và sau này tôi
thấy trong tấm bằng Yếu lược của tôi cũng dán bức hình này. Địa
điểm thi là tại thị trấn Bao Vinh, huyện lỵ huyện Hương Trà. Từ sáng
sớm, một chiếc xe nhà binh của đồn Mang Cá tới rước học trò đi thi.
Cha mẹ học trò thì hoặc là đi bộ (từ Mang Cá xuống Bao Vinh cũng
không xa lắm) hoặc là đi xe tay xuống nơi thi để động viên con em mình.
Lớp chúng tôi được phân ra thi ở nhiều phòng thi khác nhau. Tôi để ý
thấy trong phòng thi của tôi có cả những ông có râu và tuổi cũng cao
như ba tôi. Sau này tôi mới được biết các ông này đi thi để lấy cái
bằng Sơ học Yếu lược thì sẽ có nhiều quyền lợi như được triều đình
ban phẩm trật, thường là cửu phẩm văn giai. Khi ra việc làng được
ngồi chiếu trên, khi chia ruộng công thì được chia loại nhất hoặc nhị
đẳng điền, khỏi đi phu phen phục dịch, không phải làm thằng mõ.
Phía ngoài phòng thi có mấy
ông cảnh sát (police) mặc quần áo màu vàng, cầm roi cặc bò đi lui đi
tới. Sau phần thi buổi sáng gồm 2 môn ám tả và toán. Buổi chiều thi
phần tiếng Pháp, có thi viết một đoạn văn ngắn (dictée francaise) và
thi oral (vấn đáp). Tôi làm bài thi khá nhanh. Khi đang học ở trường,
tôi thường được xếp hạng nhất nhì của lớp. Hàng tháng trên bảng Danh
dự (tableau d’honneur) của lớp tên tôi luôn được xếp đầu tiên. Nộp bài
thi xong thì được phép ra khỏi phòng thi để gặp thầy giáo và cha mẹ,
nhưng không được làm ồn và đi lại lộn xộn. Cuộc thi kết thúc chúng
tôi lại lên xe nhà binh trở lại Mang Cá. Khoảng hai tháng sau thì có
kết quả. Tôi được xếp thứ 11 trong tổng số thí sinh dự thí. Bằng
được gửi theo đường dây thép (bưu điện) về quê nội làng Đại Hào, phủ
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông nội tôi cho mổ bò khao làng. Thế mới
biết việc khuyến học thời đó mới quý làm sao.
***
Năm 1944,
đang trong Thế chiến thứ II nên việc đi lại bằng đường bộ hết sức
nguy hiểm do Đồng minh thường xuyên ném bom hủy hoại đường giao thông.
Ba mạ tôi rời khỏi Huế từ đầu năm 1944 vì ba tôi mãn hạn lính. Tôi ở
lại, ở nhờ nhà bà sếp Thông chờ thi Yếu lược nên về sau. Đây là lần
đầu tiên tôi được đi đò dọc từ Huế ra Quảng Trị. Khi chờ xuống đò ở
Bao Vinh. Bao Vinh là một bến thuyền sầm uất. Tôi đứng nhìn các chiếc
ghe bầu từ xứ Quảng ra buôn bán các loại hàng hóa, trong đó đường
Quảng Nghĩa nổi tiếng. Họ có lối đếm rất độc đáo. “Một đôi, hai
đắng, boa thìn, chín chăn, chẽng chục”. Thế là đủ một chục cái bánh
đường.
Tôi còn nhớ
những kỷ niệm thân thương về người cha của mình. Ông có dáng người
cao lớn, khuôn mặt thông minh và nụ cười rạng rỡ. Hồi ở Huế, trong
trang phục nhà binh, trông ông oai vệ không kém những tên quan Pháp.
Những ngày nghỉ, ba tôi thường cho mạ, tôi và các em đi thăm thú các
danh lam thắng cảnh của cố đô. Gia đình tôi đi xem cinéma, xem hát ở
rạp Tân Tân. Có những đêm trăng đẹp, ba mạ và tôi được lên đò nghe ca
Huế. Tôi còn nhớ cho tới bây giờ các điệu Nam ai, Nam bằng. Có những
câu nghe ai oán: “Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi?” Và những câu
hò mái nhì nghe thống thiết làm sao! “Chiều
chiều ra trước Phu Văn Lâu. Ai ngồi ai câu, ai sầu, ai thảm, ai cảm, ai
nhớ, ai thương. Thuyền ai thấp thoáng bên sông. Giọng hò mái đẩy chạnh
lòng nước non.”
Trên sông
Hương có rất nhiều đò cho khách thuê để dạo chơi và nghe ca Huế. Có
những chiếc đò nhỏ bán chè đậu xanh, đậu ván, bán trứng vịt lộn
và nhiều món ăn đêm khác. Họ chèo quẩn quanh các đò hát và cất
tiếng rao lanh lảnh ngập tràn cả khúc sông. Trên bờ, đoạn trước cửa
Ngọ Môn có một vườn hoa mang tên nhà vua Bảo Đại. Đêm đêm nơi đây có
tổ chức nhảy đầm, có quán xá. Khách đến đây thường là các quan
chức người Pháp và công chức, tư chức người Việt. Tuyệt nhiên không
có khách là người nghèo hoặc thậm chí các ông xã xệ lý toét cũng
không hề bén mảng.
Tôi còn nhớ ngày đó ở chân
cầu Thanh Long có một người ăn mày tên là Cụ Trâu. Mùa hè cũng như
mùa đông, Cụ Trâu chỉ mặc độc chiếc quần đùi. Người cụ láng mượt
một màu da nâu, đặc biệt tấm lưng trần như được bôi mỡ. Cụ nói lời
ăn xin mà nghe như hát: “Lạy ông đi qua lạy bà đi lại…” Và cũng trên
đoạn đường này có một tiệm hút thuốc phiện, ngoài cửa có treo tấm
biển đề chữ OPIUM. Tôi nghe mạ tôi nói ba tôi thỉnh thoảng cùng những
người bạn trong đồn đến nơi đây để hút thuốc phiện. Thuốc phiện được
mở tiệm công khai. Các nhà cách mạng thì coi đây là một trong nhiều
chính sách ngu dân của thực dân Pháp?!
***
Hôm nay, Ngày Quốc khánh Pháp, tôi lại nhớ
về những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi nhớ Cách mạng Pháp 1789. Tôi nhớ bài Quốc ca La
Marseillaise...Trong bài chào cờ này, tôi còn nhớ được mấy câu:
Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Ba tôi được điều sang
Pháp để đánh phát xít Đức. Vừa đến cảng Marseille thì thống chế
Pétain Philippe đã đầu hàng nên đoàn quân lê dương này phải quay về.
Chả hiểu vì sao lúc đó không gọi Pétain là tổng thống mà chỉ gọi
là thống chế (maréchal Chef de l’État francais).
Bọn học trò chúng tôi mỗi khi đến trường thì phải làm các nghi
lễ chào cờ, hô khẩu hiệu…Cả trường hát quốc ca Pháp, bài
Marseillaise (có nghĩa là bài ca của người Marseille). Bài ca này do
Claude Joseph Rouget de Lisle – một sĩ quan trẻ thuộc Quân đoàn công binh
sáng tác đêm 25 rạng 26 tháng 4 năm 1792 tại Strasbourg. Lúc đầu nó
mang tên Chant de guerre pour l’armée du Rhin (Hành khúc quân sông Rhein).
Tôi còn nhớ được một đoạn: Allons
enfants de la Patrie/Le jour de gloire est arrivé! / Contre nous de la
tyrannie, /L’entendard sanglant est levé…
Và điệp khúc: Aux
armes citoyens! / Formez vos bataillons! Marchons! Marchons! / Qu’un sang
impur/ Abreuve nos sillons!
Dịch ra Việt ngữ:
Hãy tiến
lên! Những người con Tổ quốc/ Ngày vinh quang đã đến rồi! / Chống lại
chúng ta, bọn bạo tàn/ Đã được giương lên lá cờ vấy máu…
Và điệp khúc:
Hãy cầm
lấy vũ khí, hỡi những công dân! / Hãy lập nên những đội quân! /Tiến
lên! Tiến lến! / Hãy để cho dòng máu nhơ bẩn/ Tưới đẫm những luống
cày của chúng ta!
Và quốc ca An Nam:
Kìa núi vàng bể bạc/ Có sách trời sách trời định phần…. Theo
Tạp chí Sông Hương số đặc biệt ra tháng 4 năm 2012, trang 48 có bài Âm
nhạc Việt Nam và riêng ở Huế - giai đoạn 1930-1975 của nhạc sĩ Bửu Ý
có đoạn viết: “Một trong những bài ca đầu tiên của nước ta là bài
Kìa núi vàng bể bạc của Bửu Bác được dùng làm quốc ca thời Bảo
Đại...Nó theo điệu “Đăng đàn cung” của nhạc phủ: Kìa núi vàng bể
bạc /Sách trên trời định phần/…Bửu Bác còn là tác giả của bài
“Mừng Phật đản”, cũng theo điệu “Đăng đàn cung”.
Bọn học trò chúng tôi còn phải hát bài suy tôn
thống chế Pétain. Mở đầu bài hát là câu: Maréchal nous voilà devant toi, le sauveur de la Patrie…
Hát xong hai bài quốc ca thì cả trường lại vang
lên cái câu: Vive La France! Vive L’
Annam! (Nước Pháp muôn năm! Nước An Nam muôn năm!). Tôi còn nhớ khi hô
các câu này thì tay phải úp vào ngực trái rồi đưa cả bàn tay ra
phía trước hơi chếch bên phải, ngang tầm mắt. Kiểu này hơi giống kiểu
lính phát xít Đức khi chào nhau: Hailo Hitler!
Bên bờ Phước Long Giang, 10 h, sáng Ngày
14/7- mùng Quốc khánh nước Pháp!
Nhà
thơ Xuân Bảo
***
Câu chuyện thứ 6.- (Kỳ 2)Và là một thày thuốc bắc giỏi.
Ngày xưa, nhiều nhà Nho học,sau khi tốt nghiệp các kỳ
thi hương, thi hội, thi đình thường được học thêm nghề thầy thuốc lương y (thầy
thuốc bắc) như trường hợp Cụ Đồ Chiểu…Ông ngoại tôi, không ra làm quan mà trở về
quê hương chăm chỉ ruộng đồng và làm ông lang. Từ hai bàn tay trắng với một ít
đất đồi, ông đã cho khai phá được hon hai chục
Câu chuyện thứ 1. Mạ tôi dắt tôi đi hái lá mùng năm-Tết
Đoan ngọ
Hồi ức của nhà
thơ Xuân Bảo.
Vacance niên
khóa 1943-1944, sau khi thi Sơ học yếu lược xong, tôi được Mạ tôi vô Huế đón về
quê Quảng Trị nghỉ hè. Quê nội tôi ở làng Đại Hào, tổng An Cư, phủ Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trị. Quê ngoại tôi là phường Xuân Sơn, còn gọi là Phường Sãi (thuộc
làng Xuân An), tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Hai làng cách nhau
khỏang non 15 cây số. Phường Sãi là miền duyên sơn, còn Đại Hào là vùng đồng bằng.
Tôi được nghỉ
hè vào dịp mà quê Mạ tôi cũng như nhiều nơi khác rộn rịp đón Tết Đoan Ngọ, mùng
5 tháng 5 âm lịch.
Tôi còn nhớ hồi
học môn Quốc văn, thầy giáo cũng đã nhắc tới câu ca dao:
Tháng
giêng là tháng ăn chơi/
Tháng hai cờ bạc, tháng ba
hội hè/
Tháng tư đong đậu nấu chè/
Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm…
Quê Mạ tôi,
trước mặt là dòng sông Thạch Hãn, quanh năm nước trong xanh, trừ vài ngày lụt lội,
phía sau là độông, hác, đồi có rất nhiều loại cây rừng, phần lớn là sim, mua,
muồng muồng… Mọc xen vào đấy là nhiều loại cây thuốc nam, thuốc bắc như đậu khấu,
thiên niên kiện, hà thủ ô, kim ngân, mạch môn…
Trước Đoan Ngọ
vài hôm, Ông ngoại tôi vốn là một nhà Nho và là một thầy thuốc bắc rất giỏi nghề
đã bảo chú Đáo chuẩn bị giã gạo nếp để làm bánh cúng. Mệ ngoại thì lo cỗ bàn.
Còn mấy Dì và chị Thản thì được phép vào độộng để hái lá về phơi khô làm thức uống
thay trà. Mạ tôi cho tôi đi theo hái lá mùng năm.
Tốp người đi
hái lá rất đông vì nhà nào cũng có người tham gia. Tôi được Mạ tôi chỉ dẫn rất
tỷ mỷ từng loại lá. Đây là lá vằng, thứ lá chủ yếu trong các thứ lá hái cho
ngày Đoan Ngọ. Cây vằng quê Mạ là một cây thuốc quý. Trong nhân dân, khi người
trong nhà có người mang thai thì phải hái lá vằng nguyên dây, nguyên lá và bông
(hoa). Từng bó lá vằng được cuộn tròn lại, đủ cho một nồi nước lá, đem về phơi
khô rồi xâu vào một con sào treo lên giàn bếp. Người sản phụ chỉ dùng nước lá vằng
trong thời hạn 3 tháng 10 ngày. Sau hết giai đoạn “phòng long” thì được dùng
thêm các loại thức uống khác. Lá vằng còn trở thành một địa danh nổi tiếng ở Quảng
Trị. Đó là nhà thờ Thiên Chúa Giáo La Vang, khi những nhà truyền đạo phương Tây
đến nước ta và đã xây nên. Vùng đất có nhiều lá vằng nhất là xã Hải Đạo, có những
làng như Long Hưng, Đại Nại, Tích Tường, Như Lệ, phía trên đường cái quan, sau
này là Đường số 1. Thực dân Pháp thường gọi là Rút – oong (Route No.1) gần thị
xã. Chữ viết phương Tây không có dấu nên họ đã phiên âm “lá vằng” ra là “la
vang”.
Lá vằng hiện
nay còn lại rất ít vì rừng núi bị chất độc hóa học tàn phá nặng nề. Thêm nữa là
nạn phá rừng vô tội vạ. Tuy nhiên, người dân quê tôi thấy tác dụng của cây lá vằng
là rất to lớn nên đã canh tác chuyên vùng cây lá vằng. Ở thành phố Đông Hà có một
công ty mang tên là Công ty TNHH LAVA, địa chỉ tại 21 Nguyễn Thiện Thuật, phường
Đông Lương chuyên sản xuất cao chè vằng và chè vằng túi lọc. Thành phần gồm
100% được chiết xuất từ thân cây “vằng sẻ”, không có phụ gia. Cao chè vằng kích
thích tuyến sữa, giúp sản phụ có nhiều sữa đồng thời giảm cân cho sản phụ giảm
cân sau khi sinh. Ngoài ra, cây lá vằng còn có tác dụng thanh nhiệt, giải độc,
mát gan, ngăn ngừa mụn nhọt, tốt cho người béo phì, gan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ;
hỗ trợ điều trị bệnh nhân tiểu đường, trị chứng mất ngủ, hết mệt mỏi do giấc ngủ
không trọn vẹn.
Các thứ lá “mùng 5”này đem về thái nhỏ, phơi
khô rồi dùng làm thức uống cho cả nhà.
Tôi được Ông
ngoại rất thương nên thường cho tôi đi theo vào độộng để hái thuốc. Ông cũng chỉ
dẫn rất tỷ mỷ các loại cây rừng để dùng làm thuốc chữa bệnh. Trong nương của
Ông bà ngoại có những cây mang tên thường dùng như trái bồ quân xanh thì gọi là
thanh tra, vỏ quýt thì gọi là trần bì…Những cây thuốc như tôi đã trình bày phần
trên là tôi học được từ Ông ngoại. Ông còn giảng giải cho tôi biết vì sao có
ngày gọi là tết Đoan Ngọ. Ông dạy rằng: Đoan nghĩa là mở đầu. Ngọ là giờ Ngọ
(theo lịch Tàu – đêm có 5 canh, ngày có 6 khắc) thì giờ Ngọ ứng vào thời gian từ
11 giờ trưa đến 1 giờ chiều. Đoan Ngọ là lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, ở gần
trời đất nhất, trùng với ngày hạ chí. Theo triết lý y học phương Đông thì hỏa
khí thuộc “dương” của vũ trụ và trong cơ thể con người ở ngày này cũng lên đến
tột bậc nên Tết Đoan Ngọ còn có tên là Tết Đoan Dương.
Lúc đầu, Đoan
Ngọ chỉ là ngày dân chúng cúng lễ để đánh dấu một thời tiết mới, mừng sự trong
sáng quang đãng. Vào hạ, trời thường oi bức, thường xuất hiện nhiều bệnh tật
nên cúng bái để cầu yên, tránh mọi bệnh tật thời khí. Sau này, khi văn hóa giao
lưu giữa ta và Tàu thêm sâu sắc thì Tết Đoan Ngọ lại thêm một ý nghĩa mới. Đó
là ngày Khuất Nguyên, tự là Bình – một vị trung thần đã được Sở Hoài Vương
phong đến chức Tả đồ và Tam lư đại phu và là một nhà văn hóa, nhà thơ vĩ đại đã
bị gian thần hãm hại, bị nhà vua ruồng bỏ, thậm chí còn bị bắt đi đày (gần 20
năm). Khuất Nguyên đã làm ra Ly Tao nổi tiếng. Ly Tao là một bài phú trữ tình,
lãng mạn, tự thuật đầu tiên và lớn nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ly
Tao nguyên là một điệu dân ca nước Sở, thích hợp với việc thể hiện những nỗi uất
ức, bất bình. Khuất Nguyên đã dùng Ly Tao làm đề để trữ phát những nỗi đau buồn
day dứt uất kết trong lòng khi bị Sở Hoài Vương đày ải. Và kết cục thật bi thảm,
ngày mùng 5 tháng 5 ông đã trầm mình xuống dòng Mịch La.
Ôi thân phận của một cô thần! Thương thay một
tài thơ vĩ đại đã chết một cách oan uổng!
***
Câu chuyện thứ 2.
- Mạ tôi trở thành góa phụ lúc 32 tuổi đầu!
Tin đau đớn đối
với mấy mẹ con tôi là khoảng tháng 11 năm 1948, có tin báo Ba tôi đã chết. Còn
chết như thế nào thì không được nói rõ. Trong khi đó Mạ tôi chuẩn bị sinh đôi.
Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Vô Danh (chết trong bụng mẹ). Như vậy Kim Cúc khi
sinh ra không được nhìn thấy mặt cha! Có đau buồn nào hơn đau buồn này chăng?
Như thế, Mạ tôi trở thành góa phụ khi tuổi đời
mới trên ba mươi. Còn chúng tôi trở thành những đứa trẻ bồ côi cha! Một mình Mạ tôi lam lũ làm thuê làm mướn nuôi
5 anh em chúng tôi. Cuộc sống vô cùng chật vật khó khăn. Còn đâu những ngày
tháng sống trong nhung lụa ở đất Thần kinh Huế!
Sinh thời,
trong những năm kháng chiến chống Pháp, không bao giờ Mạ tôi khóc vì thương nhớ
Ba tôi trước mặt các con. Chỉ khi đêm về, Mạ tôi ngồi lặng lẽ khóc thầm bên bếp
lửa. Lúc này tôi đã 13 tuổi, đã biết suy nghĩ về vai trò người con lớn trong
gia đình. Tôi muốn giúp Mạ tôi một công việc gì đó để đỡ vất vả vật lộn với cuộc
sống hàng ngày. Tôi xin Mạ tôi đi ở đợ! Câu ca:
“Còn
cha gót đỏ như son
Mất cha gót mẹ gót con đen
sì”.
Là như vậy đó!
Những
kỷ niệm không phai mờ của tôi đối với Mạ tôi .
Kỷ niệm 1.Mạ tôi tham gia kháng chiến chống
Pháp
Nói “Thời 9 năm” là để nói về cuộc trường
kỳ kháng chiến chống Pháp, bắt đầu từ cái mốc Nam Bộ kháng chiến -
ngày 23 tháng 9 năm 1945 - cho đến khi ký kết Hiệp nghị Genève, ngày 20
tháng 7 năm 1954.
Trong những
năm chiến tranh chống Pháp, Mạ tôi đã tham gia kháng chiến tích cực: đi dân
công tải lương, tải đạn, phá đường, rào làng chiến đấu, tham gia Hội Phụ nữ Cứu
quốc, Hội Mẹ và Chị Chiến sĩ. Mạ tôi đã
được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương
Kháng chiến chống Pháp hạng Ba. Đây là một vinh dự lớn cho gia đình chúng tôi.
***
Quê Mạ
Phường Sãi của Mạ tôi được mệnh danh là vùng tiền chiến khu Ba Lòng,
cũng có tên gọi là miền duyên sơn, chỉ nằm cách Quốc lộ 1A và đường
sắt xuyên Việt không đầy 5 cây số. Chỉ cần đi bộ khoảng một giờ đồng
hồ thì đến thị xã Quảng Trị. Mặc dù là một miền quê nhưng người
dân ở đây tiếp thụ được ánh sáng văn hóa đô thị khá đậm nét. Những
đứa học trò sau khi học hết lớp Sơ đẳng (cours élémentaire) trường
làng thì học tiếp lên lớp trên phải về học tại thị xã. Thị xã
Quảng Trị ngoài trường công còn có một ngôi trường tư thục của ông
đốc tờ Phan Văn Hy. Trường mang tên là Kỉnh Chỉ, bút danh của thầy
thuốc kiêm nhà thơ Phan Văn Hy.
Những người
nông dân muốn bán nông sản mình làm ra cũng phải gánh gồng về chợ
tỉnh để bán. Những vật dụng hàng ngày, những nhu yếu phẩm cho cuộc
sống đều phải mua ở chợ thị xã Quảng Trị. Từng đoàn người gồng
gánh vật phẩm ra đi từ tờ mờ sáng cho tới gần trưa mới về nhà. Cứ
tưởng cuộc sống êm ả trôi qua tháng ngày của vùng quê thanh bình.
Nhưng than ôi! Bọn giặc Pháp đang quay trở lại. Không thể làm kiếp
người nô lệ lần thứ hai!
Gia đình ba
mạ tôi gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống khi rời Huế về Quảng
Trị. Lương hưu của Ba tôi bị cắt từ hôm Nhật đảo chính Pháp. Mạ tôi
đã xa rời cuộc sống nông thôn trên 10 năm, một nách bốn đứa con dại.
Đồng bằng Triệu Phong là một vùng thuần nông. Làng Đại Hào quê nội
cũng đói nghèo như nhiều nơi khác trong tỉnh. Ba mạ tôi xin ông mệ nội
được đem đàn con về quê ngoại Phường Sãi. Dù sao ở đây vẫn có nhiều
đất đai chưa khai thác hết. Rừng rú, khe suối thì sẵn sản vật có
thể nuôi sống con người.
Về quê
ngoại vốn liếng của ba mạ tôi chỉ đủ mua bức nương của cậu Diêu Khuê
mà thôi. Để làm được cái nhà tranh tre, ba mạ tôi phải tự đi vào Dốc
Son cắt tranh về làm mái lợp. Tre thì đã có sẵn xung quanh nương mới
mua. Bà con xúm lại giúp đỡ chỉ trong vòng tháng trời nhà đã dựng
xong.
Tôi lại được cắp sách tới trường.
Trường công chưa có thì học trường tư tại thôn Thượng Phước. Tôi vào
học lớp nhì nhất niên (cours moyen un) do thầy Trần Đình Khác dạy. Tôi
còn nhớ có một lần điểm danh, khi thầy gọi đến tên Nguyễn Xuân Bảo
thì tôi đã quen lối xưng hô thời trước, buột miệng trả lời “présent”
làm cho cả lớp cười ồ lên. Tôi lại quen miệng nói “Pardon! Pardon!” Cả lớp
lại ồn lên. Thầy Khác lấy thước kẻ đập xuống mặt bàn và nói “Silence!” tức là
im lặng.
Để kiếm sống ba tôi phải vào rú (độộng)
đốn củi gánh về chợ tỉnh Quảng Trị bán. Hình ảnh người cha còng
lưng gánh gánh củi sim (củi chặt ra từ những cây sim có độ dài không
tới một mét, được bó lại bằng những sợi dây chìu và dùng đòn xóc
nhọn hai đầu xỏ xuyên qua lưng chừng bó củi), gánh bộ từ Phường Sãi
đến chợ tỉnh dài hơn 5 cây số còn đọng mãi trong tâm trí tôi. Đâu rồi
những ngày tháng sống trong sự sung túc ở Huế? Đâu rồi một bước đi
chỉ có lên xe xuống ngựa?! Mạ tôi bắt đầu trở lại với công việc ruộng
nương. Bức nương của ba mạ tôi có các loại cây lưu niên như mít, bồ
quân, dâu gia, chè, chanh, cam, quýt, bưởi, thơm. Những thứ trái cây này
khi vào mùa thu hoạch mạ tôi hái đem về chợ tỉnh bán.
Phía góc nương gần Khúc Mưng có một cây
dầu lai cổ thụ, năm nào cũng ra rất nhiều trái. Trái cây dầu lai này
khi chín thì bóc tách bỏ lớp vỏ ngoài, lấy hạt (nhân) dùng để làm
món muối trộn thay muối mè (vừng) hay muối đậu phụng (lạc) ăn với
cơm hàng ngày. Chung quanh ba phía là lũy tre. Giữa nương có chừng hơn
hai sào đất trống, Mạ tôi đã xuống giống trống khoai lang, môn và
sắn. Gần nhà thì dựng mấy cây tre làm giàn trồng bầu, bí, mướp theo
mùa nào thức ấy.
Tối đến Mạ
tôi đi soi cá. Đuốc đốt lên không cháy thành lửa ngọn mà chỉ đỏ lửa
than. Những bầy tép đi thành đàn cặp mép sông, bơi ngược dòng. Nước
chảy xuôi nhưng tôm tép thì bơi ngược. Ngồi sáng đêm mạ tôi xúc được
bộn tép, có khi được cả thúng. Ngoài số tép dùng cho các bữa ăn,
số còn lại mạ tôi muối làm mắm để ăn dần. Dì Mão đã bắc sẵn lên
bếp một nồi cháo gạo ít khoai nhiều. Dì xuống bến đến chỗ mạ đang
xúc tép và lấy một mớ tép. Dì vợt những con tép đang nhảy tưng tưng
trên mặt thúng cho vào thúng nhỏ đem lên, chỉ dội lại một lần nước
và cho vào nồi cháo, chỉ cần nêm thêm vài muỗng muối là có món
cháo rất ngọt ngon. Tôi múc một đọi to mang xuống bến cho mạ. Nhìn
mạ sùm sụp trong chiếc áo tơi rách với cái nón mê trên đầu mải mê
vợt tép để nuôi đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn, trong khi ba tôi còn đi
chiến đấu bảo vệ quê hương. Tôi thấy thương mạ vô ngần!
Trừ những
khi có lụt, còn lại là những đêm trời trong, mạ thường đi soi cá. Soi
cá cũng dùng đuốc bằng cây sậy hoặc cây hóp chẻ nhỏ, phơi khô bó
thành từng bó bằng cái cột nhà tre, dài chừng 2 mét. Tối đến đuốc
được đốt ở bến nước, rồi lội xuống mép sông, một tay giữ cây đuốc
trên vai, một tay cầm cái nơm, khi thấy cá đóng đèn, tức là đóng ánh
sáng đuốc. Chúng đứng im một chỗ thì dùng nơm úp lên con cá, bó
đuốc tạm thời bỏ lên bờ, thò tay vào nơm bắt cá, thường là loại cá
chép, cá trôi, cá mè…có con nặng cả ký lô. Khi không dùng nơm thì
dùng dao thái chuối, thấy cá đóng đèn thì lấy dao chém. Có con bị
chém dứt làm đôi. Đi soi cá thường đi vào đầu hôm, cháy hết hai cây
đuốc thì về nhà. Số cá thu được cũng kha khá, chừng vài ba ký, đủ
dùng cho vài ngày.
Kỷ niệm
2. Tình trạng bi đát của gia đình tôi
.
Tôi chép ra đây một đoạn trong Chúc thư
của Mạ tôi viết ngày 2 tháng 2 năm 2004, khi Mạ tôi đã 89 tuổi để nói
lên tình trạng bi đát của gia đình tôi lúc bấy giờ. Mạ tôi đã viết
như sau:
“…Mạ nói
cho các con biết: Lúc ông bà ngoại còn sống, ông bà đã cho ba mạ 2
mẫu ruộng, 5 sào đất vườn. Ông nói: Cha mẹ cho hai con chừng đó, đừng
có tửu điếm trà đình, lo làm lo ăn. Cho các cháu học hành tới nơi
tới chốn. Nay mai ba nó hưu trí về phụ thêm làm ăn, không đại gia chứ
cũng tiểu phú, con không lo cực đâu, bổn mạng con tốt lắm!
“Các con ơi, thân má khổ
lắm, ông bà ngoại mất rồi, ba đi công tác không thấy về, một mình má
ôm đàn con dại biết cậy nhờ ai đây, nghĩ mình như chàng Thúc bó tay…
tứ cố vô thân, biết nhờ ai đây? Má như cờ túng nước. Thôi, mai đi tìm
việc làm đã. Mới nói thì cậu Diêu (tức ông Nguyễn Văn Xuân) ra nói: O
còn nhớ cấy lúa không? – Còn nhớ chứ, cơm ăn bữa mà không nhớ sao
được. – Mai vô sớm nghe! Má hỏi: Cấy ở đâu anh? Anh nói: Phúc Trèn.
Các con ơi! Má gánh một gánh mạ, chân không có dép, bước lên sỏi đá
chông gai. Lên tới đồng ruộng, má bước chân xuống bùn lầy, giá lạnh.
Phúc Trèn hiu hắt đưa vào lòng má quá chua cay. Nước mắt, nước mưa
trộn một, má tính bỏ ra về. Mà một mặt thì sợ cọp, một mặt sợ
tối về không có chi cho các con ăn nên má cố làm cho tối ngày. Lúc
về tới nhà thì đàn con đứa ngủ, đứa đang khóc, đứa thì trông mẹ về…”
Ngày 27/3/1973, Hiệp định Paris,đình chiến, tôi về Quảng Trị tìm về quê nội Đại Hào và
quê ngoại Phường Sãi. Được biết, Mạ tôi và các em đã bị ông Thiệu xúc tát vào
miền Nam hồi “mùa hè đỏ lửa – trên đại lộ kinh hoàng năm 1972”.
Mãi tới giữa tháng 5/1975 tôi mới được gặp laị
Mạ tôi ở ấp 3 xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh ĐồngNai.
Tôi bàn với nhà tôi là cả hai cùng về công tác
tại Đồng Nai để được gần gũi Mạ tôi và các em.
Trong những
năm tháng này, tôi đã làm được một số việc. Đó là việc xây lăng gia đình ở quê
nội; làm bộ phim Bài thơ về Mẹ và đi tìm mộ cha tôi.
Lăng đã xây xong năm 1993, quy tập hài cốt của
tứ đại gia đình từ ông bà cố, ông mệ nội tôi, cha tôi, chú ruột Nguyễn Xuân Tịch,
o ruột tôi Nguyễn Thị Nghiễn và em ruột Nguyễn Xuân Lộc, em ruột Nguyễn Vô
Danh.
Và cũng đã viết một cuốn sách kể lại quá trình
“Đi tìm mộ Cha”.
Tôi viết cái Bút ký này là theo ước nguyện của
Mạ tôi lúc sinh thời. Mạ tôi luôn đau đáu với niềm tin là trước sau cũng tìm thấy
mộ phần của Ba tôi. Khi đưa được Ba tôi về quê nhà thì Mạ tôi không ra Quảng Trị
kịp vì trắc trở tàu xe để nhìn thấy Ba tôi, dù chỉ là một nắm tro bụi thời
gian. Mạ tôi có trách tôi thì tôi xin chịu tội. Theo tục lệ xưa nay vì không được
phép để hài cốt Ba tôi ở lại trên trần gian.
Trong đoạn kết
của bút ký Đi tìm mộ Cha, tôi đã viết:
Kính thưa hương hồn Mạ!
Như vậy là con đã hoàn
thành sứ mệnh Mạ giao cho: Đưa được Ba con về với quê hương bản quán; được sum
vầy cùng những người thân quá cố trong Lăng gia đình; thỏa mãn được lòng mong đợi
tiếc thương người chồng vô cùng kính yêu của Mạ; thỏa lòng chúng con khỏi băn
khoăn áy náy bấy lâu nay!
Nhân đây, thay mặt gia
đình tôi tỏ lòng biết ơn thầy Nguyễn Bá Khai, người đã giúp chúng tôi tìm ra mộ
Ba tôi; cảm ơn chính quyền thôn Minh Cầm; cảm ơn gia đình ông Trần Bá Ban; cảm
ơn họ hàng thân bằng quyến thuộc và bè bạn đã đến dự Lễ Tưởng niệm Ba tôi!
Tôi cũng xin thành thật
hoan nghênh Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người (UIA) được thành lập và đặt
dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Trung ương Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam, đã giúp nhiều nhà ngoại cảm tìm ra mộ liệt sĩ đã ngả xuống vì nước Việt
thân yêu!
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 16/6/2021, nhằm
ngày mùng 7 tháng 5 năm Tân Sửu
Nhà thơ Xuân Bảo,
________________________________________
Câu chuyện thứ 3. -Tôi đi ở chăn trâu cho anh chị Lê Yên.
Mạ tôi đã đồng ý cho tôi đi ở đợ (tức là
đi làm thuê dài ngày). Trước đó, Mạ tôi đã đến gặp anh chị Lê Yên. Vợ anh Lê
Yên là chị Trần Thị Cúc, con gái Ôông Mụ Giáo Trở - người mà bị mấy ông cốt cán
của làng đem ra đấu tố trong thời kỳ đầu cải cách ruộng đất (1953). Thời kỳ này
mới chỉ có “giảm tô, giảm tức”. Bạn tôi, Trần Đức Long đã có bài viết rõ việc đấu
tố địa chủ này. Tôi đưa bài này vào Câu chuyện làng quê, câu chuyện thứ 19
trong sách này.
Đá Đứng là một bán đảo rất đẹp của dòng
Thạch Hãn. Con sông này đang chảy một dòng thẳng từ Trấm về xuôi thì bị các dãy
đá hàn chắn lối, buộc chảy vòng sang hữu ngạn rồi uốn trở lại ở đầu dốc Cơn
Thang một khúc chừng vài trăm mét. Hình thành một vòng cung tròn như cái đit
thúng khổng lồ, đất ven bờ rất tốt.
Đá Đứng sau này là nơi chặn dòng, làm đập
tràn, xây dựng công trình Thủy lợi Nam Thạch Hãn. Có nhiều người gọi Đập Trấm
là không đúng!
Đá Đứng, cũng thuộc địa bộ làng Thượng
Phước - nơi nhiều nhà giàu trong làng
lên khai phá đất đai làm vườn tược, trồng nhiều cây ăn trái lưu niên, thành những
bức nương rất to và đẹp. Và có nhiều nhà ngói như nhà cụ Cửu Trần Đức Hạp. Cụ Hạp
có mấy người con tham gia Việt Minh như nhà báo Trần Đức Lương, đại tá Trần Đức
Duệ, viện trưởng Viện Nước , Bộ Thủy lợi Trần Khâm...
Gia đình anh Lê Yên có một ngôi nhà
ngói to ở tại phường này. Anh cũng đã từng đi thoát ly, tham gia kháng chiến và
không hiểu tại sao anh bị giản chính biên chế, trở lại làm dân? Vì thành phần
chăng, tôi không rõ lắm.
Anh chị Lê Yên đồng ý cho tôi “ở đợ” với
công việc thường nhật là chăn trâu. Anh chị có một con trâu đực, tên là Chảng
dùng để cày bừa trong những ngày mùa. Ngoài ra, có thể giúp làm những việc lặt
vặt trong nhà như bế em,gánh nước, làm cỏ, có lúc gánh cá giúp chị Cúc đi bán ở
chợ Phong An.
Anh chị nói với Mạ tôi rằng: Tiền công
trả cho tôi một năm là một lương (đơn vị đo lường ở quê lúc bấy giờ) lúa bằng
sáu thúng; hai bộ áo quần cộc bằng vải to*; ăn ở tại nhà anh chị.
Cuộc đời tôi bước sang trang mới: xa Mạ
và các em lúc tôi 15 tuổi.
Sáng ra, tôi trèo lên lưng con Chảng,
đưa nó vào ăn cỏ ở cánh đồng La Nghìn. Bất giác, tôi nhớ đến bài tập đọc Chăn
trâu trong sách Quốc văn giáo khoa thư, lớp Đồng ấu, hồi ở Huế.
Ai bảo
chăn trâu là khổ?
Chăn trâu sướng lắm chứ!
Đầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi
trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám
cỏ.
Trong khoảng trời
xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không còn gì sung sướng
cho bằng!
Tôi vẫn mặc bộ áo quần cộc bằng vải to
mà Mạ tôi đã mua ở chợ tỉnh Quảng Trị. Cái nón lá đã rách đến vành thứ ba. Chân
vẫn mang đôi dép mo cau đã sờn rách. Tôi được chị Cúc bới cho một mo cơm độn sắn
và một gói muối mè để ăn bữa trưa. Chị dặn:
mi nhớ mót ít củi sim về nấu nướng nghe!
Tôi chỉ dám
đưa con Chảng ăn loanh quanh ở La Nghìn, Độộng Ôi, không dám đưa vào Phúc Trèn,
nơi có rất nhiều cỏ, vì sợ cọp bắt!
Trời chạng vạng tối, tôi cưỡi trâu về. Vắt
ngang lưng con Chảng là hai bó củi, buộc lại với nhau bằng những sợi dây chìu.
Cho
trâu vào ràn xong, tôi xuống sông tắm táp. Và bữa cơm tối, tôi ngồi cùng ăn với
o Bứa (người ở giữ con) cho anh chị. Ngày lại qua ngày, cuộc đời đi ở của tôi
trôi đi đều đều như vậy.
Cho tới một ngày, anh chị Lê Yên bán con
Chảng đi. Và tôi, “thất nghiệp”! Giờ thì tôi được làm anh đầy tớ thực thụ. Chị
Cúc làm thêm nghề bán cá. Cá sông Thạch Hãn rất nhiều, được hai vạn nốốc ôông
Yên, ôông Dĩ đánh bắt bán cho chị Cúc. Chị bảo: Mi sẽ cùng tau sương cá đi chợ
Phong An. (Chợ Phong An, cách Đá Đứng khoảng 4, 5 cây số.) Hồi mới, cách mệnh
mùa thu, các xã mới được đặt tên mới. Thượng Phước, An Đôn, Nhan Biều có tên xã
là Phong Sơn. Các làng phía trên Ái Tử có tên xã Phong An…
Thời
điểm cuối năm 1951, cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển từ “ phòng ngự” sang ‘
chuẩn bị tổng phản công”.Mạ tôi lên Đá Đứng xin cho tôi được về nhà để đi học.
Anh chị Lê Yên – Trần Thị Cúc đồng ý.
Thế
là, tôi được về với Mạ và các em, sau hai năm đi ở. Tình hình Thượng Phước chưa
bao giờ vui như hôm nay.Các cơ quan Tỉnh Đội bộ, Ty Thông tin – Tuyên truyền,
Ty Bình dân học vụ, Đoàn Thanh niên Cứu quốc… lần lượt về đóng ở Thượng Phước.
Tôi lại được cắp sách tới trường với suất học
bổng 27 ký lúa.Tôi và Trần Đúc Long thay nhau chiếm ngội vị nhất nhì lớp. Tổ học
sinh Thượng Phước chúng tôi đã có nhiểu thành tích tham gia kháng chiến.
Tôi còn nhiều kỷ niệm với thời gian này.
Xin khất bạn đọc sẽ viết tiếp vào thời gian sau.
Câu chuyện thứ
4. - Ba tôi tham gia Vệ Quốc Đoàn
Hồi
ức của Xuân Bảo
Tôi không rõ
Cha tôi được sinh ra ngày tháng nào. Khi tôi có trí khôn thì Mạ cho biết Cha
tôi sinh năm Mậu Thân (1908). Quê tôi là làng Đại Hào, tổng An Cư, phủ Đăng
Xương, sau này đổi thành phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Dân Quảng Trị
sớm hình thành bởi hai lần đại di dân. Lần thứ nhất là vào khoảng thế kỷ 14,
khi Huyền Trân công chúa trở thành Hoàng hậu Paramecvari – vợ vua Jaya
Shimhavarman III – tức vua Chế Mân. Dân Châu Ái, Châu Hoan đưa nhau vào khai khẩn
miền đất mới với tên cũ là Châu Ô, Châu Lý (Rý), vốn là đất sính lễ của Chiêm
quốc. Lần thứ hai, cũng không kém phần ồ ạt hơn. Đó là vào năm 1558 Chúa Nguyễn
Hoàng sợ anh rể Trịnh Kiểm sát hại nên đã nói với chị Ngọc Bảo cho mình vào trấn
thủ đất Thuận Quảng.
Ngoài binh mã bản bộ thuộc Gia Miêu ngoại
trang, quê Chúa Nguyễn thì có thêm hàng vạn hộ
dân Thanh Hóa theo vào. Khi Nguyễn Hoàng vào tạm dựng Đại bản doanh tại
làng Ái Tử, còn gọi là Dinh Cát. Dân bản xứ đã mang dâng Chúa 7 chum nước đầy để
tỏ lòng quy phục.
Tính theo thời
gian mà Phả ký Tộc Nguyễn Ngọc có hiện tại thì dòng họ này đến hiện nay là 16 đời,
tương ứng với thời điểm Chúa Tiên vào đây. Làng Đại Hào có họ Nguyễn 8 phái mà
phái Nguyễn Ngọc của tôi là lớn nhất. Chi của Cha tôi có nhiều người đỗ đạt.
Cha tôi là
con đầu. Học hết bậc tiểu học ở Trường
Tiểu học Triệu Phong. Thời gian này ở tỉnh Quảng Trị chỉ có 3 trường : Trường tỉnh,
trường Triệu Phong và trường Cam Lộ. Còn nếu học tiếp lên bậc Thành chung thì
phải vào Huế.
Cha tôi thi xong được cấp bằng Certificat d’ Études
Primaire và ít lâu sau đó ông đăng lính
vào 5è Brigade ( Lữ đoàn thứ năm của quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương).
Hồi đó thường gọi sắc lính này là lính khố đỏ. Đây là đội quân chủ lực do người
Pháp chỉ huy và điều động. Bên Nam triều có hai sắc lính khác. Đó là lính khố
xanh mà tỉnh nào cũng có (trừ Nam kỳ) do quan Lãnh binh người Việt chỉ huy. Phủ
Tôn nhơn thì có lính khố vàng chỉ phục vụ cho nội bộ Triều đình. Sở dĩ gọi khố
đỏ, khố xanh, khố vàng là mỗi sắc lính đều có trang phục khác nhau. Người dân
chỉ phân biệt khi các anh lính đi ra đường có quấn cái xà cạp có màu khác nhau ấy.
Quân đội Pháp
đóng ở Huế. Cha tôi ở Tiểu đoàn cơ động nên ông đã được điều đi
đánh Xiêm La do chúng quấy rối ở biên giới Cao Mên – Xiêm. Lúc bấy giờ 3 nước
Việt Mên Lào đã bị thực dân Pháp thôn tính, được gọi chung là xứ Đông Pháp (
Indochine Francaise ). Không biết ông có bắn được thằng Xiêm nào không mà về đến
Huế được Chính phủ Pháp tặng thưởng Huân chương Chiến tranh ( médaille de la
guère ). Tiếp theo đó, chẳng biết có quan hệ gì với chính quyền Trung Hoa, lúc
này nhà Mãn Thanh đã sụp đổ,= chính phủ Trung Hoa Dân quốc do Đại thống chế Tôn
Trung Sơn nắm quyền bính - mà tiểu đoàn này được điều sang Côn Minh .
Năm 1933, đây
là thời điểm Cha tôi làm 2 bài thơ tặng Mạ tôi dù chưa làm lễ cưới. (hai bài
thơ sẽ đăng phần cuối bài này). Nhờ có biết tiếng Pháp nên Cha tôi được điều về
làm văn phòng tại cơ quan tham mưu (État
Major) của Lữ đoàn đóng tại nội thành Huế, phần đất Nam triều cắt nhượng cho
Pháp theo Hiệp ước Patenôtre ký năm 1884. Các cơ quan chỉ huy của Lữ đoàn và
các đơn vị lính đều đóng phía trong thành.
Ngoài thành, đồn Mang Cá lớn chỉ có một Camp
mariée, thường được gọi là Trại con gái, nhưng thực chất là một khu gia binh,
dùng làm nơi ở cho vợ con binh lính. niệm ấu thơ thì còn nhiều, tôi xin trở lại
bài viết về hai bài thơ của Ba tôi.
Bài thứ nhất,
Ba tôi viết trước khi ông đi Côn Minh, Trung Quốc có nhan đề là Liệu còn gặp gỡ. Cuộc đời người lính ra sa trường sống chết
trong gang tấc, nên Ba tôi viết bài thơ này, nếu trở về trùng phùng tái hợp thì
tốt nhưng nếu có mệnh hệ nào thì mong cho Mạ tôi “gặp được chốn lửa hương”.
Bài thơ như sau:
Lênh đênh anh tưởng là điều trân trọng
Ai hay chạnh nỗi niềm đôi ngả quan san
Lúc ra đi mỗi bước một ngừng
Con tàu chạy mỗi ga mỗi khuất
Mắt trông về Bến Sãi,(1) gan vàng thổn thức
Nhìn Chợ Hàn (2), lệ ngọc chứa chan
Gẫm tơ trời lắm nỗi đa đoan
Trách máy Tạo sớm đem đường thay đổi
Xưa những ước Thôi Trương (3) kỳ ngộ
Trước gió trăng sau lại đá vàng
Ai ngờ Ngưu Nữ đôi đàng (4)
Chưa sum họp vội vàng cách trở
Thôi thôi em đừng than đừng thở
Thôi thôi em đừng tưởng đừng trông
Xưa Mạnh Lệ Quân ở chốn không phòng
Cũng có khi Tương Như hội ngộ
Chị Thúy Kiều ghe phen tân khổ
Cũng có lúc Kim Trọng tái phùng
Huống chi em chút phận má hồng
Bền giữ dạ ắt Hoàng thiên nào phụ
Anh nguyện cùng Ngọc Hoàng Thiên Địa
Sớm cho em gặp được chốn lửa hương
Còn như anh gánh gãy giữa đường
Liệu cùng em còn có ngày gặp gỡ?
Nguyễn Xuân Tập
1933
__________
_(1) Chợ Sãi ở gần Thành Cổ Quảng Trị
(2) Chợ
Hàn tức chợ ở thị xã Quảng Trị
(3)
Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy, chuyện tình đẹp của Tàu.
(4) Tức
Ngưu Lang và Chức Nữ
Bài thơ này
được Mạ tôi đọc lại cho tôi ghi âm lúc 9 giờ ngày 18-6-1999 khi Mạ tôi đã 84 tuổi.
Nhưng đầu óc và tinh thần của Bà vẫn còn minh mẫn.
Và đây là bài
thơ thứ hai, theo thể thơ Đường luật, Mạ tôi không nhớ tựa đề. Mãi mấy
năm sau, khi đã cận kề cái tuổi gần đất xa trời, khi chúng tôi làm
Lễ mừng đại thọ cho Bà thì Mạ tôi bỗng nhiên nhớ lại được và bảo
tôi ghi lại. Đó là bài Nhắn nhủ cùng em:
Thung DUNG yên ngựa bước du xuân
Học TẬP đắc thành sách Thánh nhân
THUẬN nẻo đá nhào cơn bão tố
SÃI tay đánh bạt bước gian
truân
Hạ nhật duyên ưa chưa tính được
Xuân xanh phận đẹp đã tới tuần
Nhắn nhủ cùng em người tri kỷ
Yêu nhau ta phải liệu cho xong
Câu đầu, chữ thứ hai DUNG là tên Mạ tôi Nguyễn
Thị Kim Dung. Câu thứ hai, chữ thứ hai TẬP là tên Ba tôi Nguyễn Xuân Tập. Chữ đầu
câu thứ ba THUẬN là chợ Thuận, quê Ba tôi. Chữ đầu thứ tư SÃI là Chợ Sãi, đối
diện làng Xuân Yên là quê Mạ tôi. Ngày xưa các Cụ thường ghép tên làng quê với
tên mình, tên người yêu để làm những câu thơ tặng nhau, bày tỏ tình yêu lứa đôi
nhưng không quên cội nguồn gốc gác của mình. Đó là một cử chỉ đẹp và lãng mạn.
Bài thơ này tôi đã đưa vào bộ phim Bài thơ về Mẹ mà tác giả kịch bản và viết Lời
bình là tôi, nhà thơ Xuân Bảo.
Năm 1934, Ông
Mệ nội tôi làm lễ cưới cho Ba tôi. Trước đó, gia đình Ông Mệ tôi đã
dạm ngõ một người con gái họ Phạm. Chẳng hiểu vì lý do gì mà sau
khi Ba tôi ở Côn Minh về thì ông xin từ hôn và Ông Mệ tôi lại đi hỏi
cưới Mạ tôi cho Ba tôi. Mệ ngoại tôi là người làng Đại Hào. Tôi nghe
kể là đám cưới Ba Mạ tôi tổ chức đi rước dâu bằng thuyền. Đi từ con
hói Chợ Thuận, ra sông Thạch Hãn rồi ngược lên Phường Sãi. Cả đoạn
đường sông này dài gần hai chục cây số, đi về mất hẳn một ngày
trời, kể cả thời gian làm lễ nghi đám cưới. Cưới xong Ba Mạ tôi vào
Huế.
Hè năm 1944,
Ba tôi mãn hạn lính, Ba Mạ tôi dắt díu đàn con về quê. Làng Đại Hào là một làng
nằm ở đồng bằng Triệu Hải, người dân chủ yếu làm nông, song ruộng đất ít, người
đông cho nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Ba Mạ tôi xin Ông Mệ nội về quê ngoại ở Phường
Sãi, thuộc làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dù sao,
nơi đây còn có nhiều đất đồi chưa khai phá hết.
Tiền hưu của
Ba tôi bị mất do thực dân Pháp bị Nhật đảo chính ngày 9/3/1945. Tôi còn nhớ
hình ảnh người cha còng lưng gánh gánh củi sim từ làng xuống chợ tỉnh bán để lấy
tiền nuôi con. Đoạn đường này dài trên dưới 5 cây số! Hình ảnh này tương phản với bức ảnh Ba tôi chụp
chung với các sĩ quan État Major 5è Brigate ở Huế. Ba tôi mặc quân phục của
quân đội viễn chinh Pháp với quân hàm Sergent chef, có ngù vai, có biểu trưng
chữ V ở cầu vai và tay áo.
Tuy nhiên Ba
tôi cũng đã được hưởng một lần tiên chỉ. Ba tôi được phong hàm lục phẩm thay
cho người tiền nhiệm chỉ được phong là thất phẩm triều đình. Tôi còn nhớ cái Tết
Ất Dậu (đầu năm 1945), sau khi Lễ tế Ngài Khai khẩn xong, thì Hội đồng làng Đại
Hào đã cắt cái đầu bò và cho trai đinh khiêng về nhà Ông nội tôi ở xóm Đường
quan. Đáng lẽ như những năm trước lộc tiên chỉ về thẳng đường từ miếu Ngài thẳng
xuống xóm Chợ (thường gọi là chợ Thuận). Mấy người khiêng đầu bò đến đoạn cầu Đại
Hào thì người chỉ huy hô “ tắc tắc” tức là rẽ phải để vào nhà Ông nội tôi. Tiên
chỉ thì được đầu, còn thứ chỉ thì được noọng. Đó là lệ làng.
Sau cách mạng
Tháng 8, Mạ tôi gom các thứ của thời thực dân, phong kiến như Thẻ ngà (dân thường
gọi là Bài ngà) đi kèm với sắc phong Lục phẩm của triều đình Huế của Ba tôi; bằng
Sơ học yếu lược của tôi và các bức ảnh có hình Ba tôi mặc quân phục Pháp đều được
Mạ tôi đốt đi kẻo sợ Việt Minh!
Tôi còn nhớ
những kỷ niệm thân thương về người cha của mình. Ông có dáng người
cao lớn, khuôn mặt thông minh và nụ cười rạng rỡ. Hồi ở Huế, trong
trang phục nhà binh trông ông oai vệ không kém những tên sĩ quan Pháp.
Những ngày nghỉ, Ba tôi thường cho Mạ, tôi và các em đi thăm thú các
danh lam thắng cảnh của cố đô. Gia đình tôi đi xem cinéma, xem hát ở
rạp Tân Tân. Có những đêm trăng đẹp, Ba Mạ và tôi được lên đò nghe ca
Huế. Tôi còn nhớ cho tới bây giờ các điệu Nam Ai, Nam Bằng. Có những
câu nghe ai oán: “Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi?” Và những câu
hò mái nhì nghe thống thiết làm sao! “Chiều chiều ra trước Phu Văn
Lâu. Ai ngồi ai câu, ai sầu, ai thảm, ai cảm, ai nhớ, ai thương. Thuyền
ai thấp thoáng bên sông. Giọng hò mái đẩy chạnh lòng nước non.”
Ba tôi là một
trong số cán bộ đại đội, tiểu đoàn vốn là cai, đội lính khố xanh, khố đỏ, có
tinh thần yêu nước, tự nguyện tham gia vào Chi đội Giải phóng quân. Ngày 9
tháng 9 năm 1945, Chi đội chuyển đổi thành Chi đội Thiện Thuật. Theo Sắc lệnh số
71, ngày 22 tháng 5 năm 1946 của Chính phủ về tổ chức Quân đội Quốc gia Việt
Nam, Chi đội Thiện Thuật đổi thành Trung đoàn 95. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn 13,
14 và 15 và 1 tiểu đoàn lính nữ. Song song với lực lượng chủ lực, tỉnh chú ý
xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, gọi là Tỉnh đội Dân quân.
Tôi còn nhớ
lúc 9 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, một cuộc mitting lớn được tổ chức trước
cổng tòa công sứ Pháp (lúc này do bọn Nhật chiếm đóng). Và sau này là trụ sở của
Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị. Thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa,
ông Trần Hữu Dực trịnh trọng tuyên bố thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm
thời tỉnh, xóa bỏ chính quyền cũ. Sự thực thì cái gọi là “chính quyền bù nhìn”
của thủ tướng Trần Trọng Kim đã tự xóa tên mình cũng trong ngày 23 tháng 8, chấm
dứt Đế quốc Việt Nam, khởi đầu ngày 11 tháng 3 và kết thúc vào ngày 23 tháng 8
năm 1945, sau 5 tháng 6 ngày.
Trong ngày này
(23-8-1945), Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị đã ra 2 Quân lệnh.
Quân lệnh số 1 phát đi lúc 10 giờ sáng, có nội dung: “Tất cả lực lượng vũ trang
chiếm đóng hoặc dự bị, kể cả lực lượng hỗn hợp giữ nguyên tại chỗ. Người và vũ
khí không được thay đổi, di chuyển cho đến khi có lệnh mới”. Và sau 2 tiếng, tức
lúc 12 giờ trưa, Quân lệnh số 2 đước phát đi với nội dung: “Mở cuộc đăng ký tuyển
quân, cấp tốc thành lập Chi đội Giải phóng quân với tổng số 1.500 chiến sĩ, kể
cả một số đơn vị trực thuộc như thông tin, quân y, quân nhu”.
Khởi nghĩa
thành công không một tiếng súng!
Ba tôi gia nhập quân đội. Buổi sơ khai
này Quân đội nhân dân Việt Nam có rất nhiều tên gọi: Giải phóng quân,
Vệ quốc quân, Vệ quốc đoàn. Đầu năm 1946, Ba tôi được cử về xã Phong
Sơn (xã này lúc đầu có tên là Công Ái), với chức danh là Phái viên Quân
sự, có nhiệm vụ trực tiếp huấn luyện quân sự cho dân quân và du
kích. Tôi thường được ông cho đi theo vào bãi tập, sau mới gọi là thao
trường tại nương mít Mụ Hểu. Đây là một cái trảng rất rộng, bằng
phẳng. Các làng, sau này mới đổi thành thôn của xã. Mỗi thôn thành
lập 1 trung đội dân quân, có cả chiến sĩ gái. Chương trình huấn luyện
bắt đầu từ các động tác tập họp đội hình, nghiêm nghỉ, bước đi một
hai, một hai rồi tiến tới lăn lê bò toài. Súng chỉ có hai khẩu: súng
trường mút-cờ-tông (mousqueton) và một khẩu tiểu liên mi-tờ-ray-dét
(mitraillette). Dân quân được trang bị quần áo bằng vải to, một loại
vải do người nông dân quê tôi tự trồng lấy cây bông vải, tự kéo thành
sợi và dệt trên khung cửi thủ công. Chị Thản tôi là người phụ nữ
đầu tiên mặc bộ đồ quân sự cũa người lính Giải phóng quân. Chị mặc
áo sơ-mi ngắn tay, hai túi trên có nắp, có cầu vai và quần soóc toàn
màu trắng, trông rất đẹp. Vì không có đủ súng nên phải đẽo cây theo
hình dạng khẩu súng để tập động tác bồng súng lên và bỏ súng
xuống. Có những buổi tối, tôi thấy Ba tôi ngồi giữa sân của ông
ngoại, trước mặt là một cái nống. Ông tháo rời khẩu súng trường ra
và giảng giải cho dân quân nghe: đây là cái cơ bẫm, đây là nòng, đây
là đầu ruồi…Ba tôi có một giọng nói rất âm vang, hùng hồn và hấp
dẫn. Trong những cuộc mit-ting, Ba tôi ngoài việc điều khiển hành lễ,
ông còn được phân công đọc các bài văn tế làm sục sôi ý chí chiến
đấu cho mọi người. Tôi còn nhớ được mấy câu:
“Hỡi ôi!
Hoàng Thiên chốn thấu thương lũ xâm lăng
Tạo hóa vô tình ghét người chí sĩ
Đoàn dân tộc ra tay gầy dựng, đem lòng thân ái nâng niu
Lũ dã man lên mặt hung tàn, một phút anh em ly dị
Bâng khuâng kẻ mất người còn
Tưởng tượng lòng ghi nghĩa để…”
Không
rõ bài văn tế này tác giả là ai? Và tế liệt sĩ trận nào, nơi nào?
Tôi đã tìm đọc lại rất nhiều bài văn tế trong thời kỳ thực dân Pháp
đô hộ nước ta, nhưng không tìm thấy! Hay đây tác giả chính là Ba tôi?
Vì Ba tôi cũng đã có sáng tác những bài thơ trước đó và cả thời
kỳ này. Năm 1933, Ba tôi có làm mấy bài thơ gửi cho Mạ tôi, thời chưa
cưới. Tôi nghĩ là có thể của Ba tôi sáng tác???
Những ngày tháng 10 năm 2014, khi tôi lục lại
những cuốn sách viết về cách mạng và kháng chiến để có tư liệu tham gia Trại
Sáng tác thì may mắn làm sao tôi tìm thấy trong cuốn Hợp tuyển Thơ Văn Cách mạng
(1930 – 1945) do nhóm Hoàng Dung, Huỳnh Lý và Nguyễn Đăng Mạnh biên soạn, nhà
Xuất bản Văn học in năm 1980, có bài Văn tế Nghĩa quân Xô viết Nghệ Tĩnh do tác
giả khuyết danh đã đăng trên báo Văn học
số 167 tháng 10 năm 1961.
Toàn văn như
sau:
Than ôi,
Thời cơ chưa đến, còn lũ xâm lăng;
Sự nghiệp chưa thành, lụy người chiến sĩ.
Toàn dân tộc ra tay gây dựng, đồng lòng thân ái nâng niu;
Bọn sói lang lên mặt hung đồ, tàn sát nào đâu có kể.
Than ôi, kẻ mất người còn;
Tưởng tượng lòng ghi nghĩa để
. Nhớ anh em xưa:
Mày râu tai mặt, đứng bậc nam nhi;
Can đảm tinh thần, nức danh chiến sĩ.
Lòng hăng hái theo anh theo chị, nào con thơ, nào vợ dại, mặc gia
đình, mặc quách chuyện riêng tây;
Chí hy sinh vì nước vì nhà, dù đạn lạc, dù bom rơi, liều tính mạng,
quản chi đời dâu bể.
Anh em ơi!
Súng bắn chẳng cần.
Bom rơi mặc kệ.
Dồn chân bước lên đường nghĩa vụ, cờ chỉ huy phất đội tiền phong;
Vỗ tay reo nức cuộc biểu tình, còi tự vệ dội ra bốn phía.
Đoái lại cơ đồ tan tác, vì non sông, vì xã hội, tấm can trường đòi
đoạn sục sôi;
Trông ra bờ cõi điêu tàn, nào dân tộc, nào đồng bào, giọt nước mắt
hai hàng chan chứa.
Căm cho lũ quan trường độc ác, cậy thế con dòng cháu giống, bán
giang san mà sướng thê nhi;
Dơ mặt phường Pháp quốc dã man, mượn lời bảo hộ cải lương, thu đất
nước vào vòng chuyên chế.
Thành cao, lũy rộng, mặc sức hùm;
Gác tía, lầu son, dơ mặt khỉ.
Thằng phủ, thằng tuần, thằng án, cậy quyền quan áp bức dân lành;
Dân cày, dân thợ, dân buôn, bán váy vợ đền bồi thuế lệ.
Máu lê dân hút đã khô khan;
Mủ trăm họ liếm vào sạch sẽ.
Nòi giống đó, lang hùm còn đó, người thác đi còn có bia danh;
Thời đại này, nghĩa vụ dường này, kẻ sống lại càng thêm phẫn chí.
Máu nhiệt thành sôi nổi, người Đàn Giang là đội tiên phong;
Gương cảm tử soi chung, đất Nghệ Tĩnh là nơi chủ nghỉa.
Bây giờ:
Khắp cả huyện thành
Biểu tình làm lễ.
Hương một kiện khói lên nghi ngút, dưới cửu tuyền có thấu cho
chăng?
Văn vài hàng đọc trước linh sàng, hồn thiên cổ có hay cho đó!
Bài văn tế
này so với với Ba tôi đọc hồi đó có vài chỗ dị biệt ở 4 câu đầu. Nhưng dầu sao
có được bản gốc này tôi cho là điều may mắn đối với tôi, khỏi băn khoăn suy
nghĩ.
.Vai trò
đặc phái viên quân sự của Ba tôi chấm dứt khi tiếng súng quân Pháp
bắt đầu tấn công nống chiếm Quảng Trị. Ba tôi trở lại Trung đoàn và
ông được phân công làm Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn chủ lực của
tỉnh. Chú ruột tôi, ông Nguyễn Xuân Tịch được bố trí làm quản trị
trưởng tiểu đoàn 13 và o ruột tôi tên là Nguyễn Thị Nghiễn, bí danh
là Thanh Tâm được điều về Ban Chính trị Trung đoàn 95. Chú Tịch của
tôi hy sinh năm 1949 và được công nhận là liệt sĩ. O Nghiễn thì bị
bệnh cảm nặng khi bơi qua sông tránh giặc và sau đó hy sinh.
Trong cuốn
sách Đi tìm mộ Cha tôi đã nói rõ về
cái sự mất tích trong chiến tranh chống Pháp của Ba tôi. Di hài của Ba tôi đã
được đưa về an táng trong Lăng gia đình ở Đại Hào.Tôi xin trích một đoạn trong
sách này.
VĂN
ĐIẾU
Lễ
Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập
Ngày 10 tháng
7 năm Nhâm Ngọ - 18/8/2002.
Sau 54 năm thất lạc, nay đã tìm thấy hài cốt của chồng, cha, ông
chúng tôi là ông Nguyễn Xuân Tập, sinh năm 1908 (Mậu Thân). Quê quán: làng Đại
Hào, tổng An Cư, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nay là thôn Đại Hào, xã Triệu
Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Đó là một hạnh phúc lớn của gia đình chúng tôi!
Tháng 8 năm 1945, ông Nguyễn Xuân Tập tham gia thành lập chính quyền
tại phủ Triệu Phong. Ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công, ông gia nhập
Vệ Quốc đoàn, vào Chi đội Nguyễn Thiện Thuật, tiền thân của Trung đoàn 95, Sư
đoàn 325 của Bình Trị Thiên. Ông đã kinh qua các chức vụ: Phái viên quân sự phụ
trách huấn luyện dân quân du kích; tiểu đoàn trưởng; tổng đội ban trưởng và trưởng
phòng quân nhu Trung đoàn.
Trong suốt những năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, nhất là từ
năm 1948 đến ngày ký Hiệp định Genève (1954), gia đình chúng tôi không nhận được
tin tức gì về ông. Chỉ biết rằng ông từ giã gia đình vào ngày 10/10/1948 (nhằm
ngày 12 tháng 9 âm lịch).
Sau này gia đình chúng tôi
lấy ngày ra đi đó của ông làm ngày Kỵ (Giỗ). Cái chết của ông được coi là mất
tích trong chiến tranh.
Nhiều năm qua, gia đình chúng tôi đã ra sức dò hỏi, tìm kiếm nhưng
đều vô vọng!
Năm 2002 này gia đình chúng tôi may mắn được người mách bảo chỉ dẫn
và tìm được mộ phần của ông và biết được một số thông tin về ông. Ông Nguyễn
Xuân Tập đã từng đóng quân ở huyện Tuyên Hóa. Ông bị bệnh mà chết và được đồng
đội chôn cất tại thôn Minh Cầm Ngoại, xã Phong Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Ngày 14 /8/2002, gia đình chúng tôi đã tổ chức di dời hài cốt ông
về làng Đại Hào, cát táng trong lăng cùng những người thân quá cố.
Ngày 18/8/2002, gia đình chúng tôi mời chính quyền địa phương và
bà con thân tộc nội ngoại và bạn bè gần xa đến dự lễ Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân
Tập tại nhà thờ tổ tiên, vốn là nơi đã sinh ra ông.
Trưởng nam Nguyễn Xuân Bảo - Kính cáo.
Lời kết:
Như vậy là Ba tôi đã sống trên cõi đời này đúng 40 năm. 1908 – 1948. Mạ tôi
thì sống cùng chồng được 32 năm và về thế giới bên kia sau 93 năm 2 ngày
(2/1916-28/2/2008).
Tôi viết để
lưu lại cho con cháu biết về gia thế của chúng tôi.
Bên bờ Phước
Long Giang, ngày rằm tháng 5 Tân Sửu nhằm ngày 24/6/2021.
Nhà
thơ Xuân Bảo.
Câu chuyện thứ 5. –(Kỳ 1). Ông nội tôi
làm lý trưởng
Ông nội tôi nhiều lần lều chõng vào
kinh đô ứng thí nhưng không đỗ, đành về quê :
Văn chương phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho
xong…
Thế nhưng, Triều đình dường như tiếc cái công
lao dùi mài kinh sử nên cũng cho ông tôi làm lý trưởng đến gần chục năm. Lý trưởng
còn được gọi là xã trưởng,( chức tương đương như chủ tịch phường, xã bây giờ) .Dân
Quảng Trị quê tôi phát âm không chuẩn nên thường gọi xã ra thành ông xạ.
Lúc còn nhỏ, những khi cha mạ cho về thăm
làng, tôi thường được Ông nội dạy bảo bằng những câu chữ
nho như ; nhân chi sơ vốn bản thiện, nhân bất học bất tri lý- ấu bất học lão
hàn vi…Ông dạy tôi học chữ thánh hiền bằng những bài học vỡ lòng trong cuốn Tam
thien tu như Thiên trời địa đất. Cử cất tồn còn. Tử con tôn cháu. Lục sáu tam
ba. Gia nhà quốc nước. Tiền trước hậu sau. Ngưu trâu mã ngựa…Ông còn dạy tôi viết
chữ Hán. Ông đem ra cái mâm gỗ, lấy cát Tiểu Trường Sa ( tức là loại cát lấy ở
đoạn giũa cắt khúc đồng bằng và miền duyên sơn.). Ở Quảng Trị ngày nay còn nhiều
từ đoạn Thành Cổ đến các xã thuộc huyện Hải Lăng – bây giờ đoạn này còn được gọi
là Đại lộ kinh hoàng trong Mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cát được đổ vào xâm xấp lòng
mâm, sau đó dùng ngón trỏ viết tập. Thí dụ : Chữ Thiên gồm hai nét ngang và một nét phẩy, một nét
mác. Viết xong, lắc cái mâm cho cát trở về bằng phẳng như ban đầu. Ở cái thời
đó, cách tập viết như thế quả là một
sáng kiến vĩ đại, vừa tiết kiệm giấy lại vừa luyện cho nhuần nhuyễn quen tay. Đến
khi nào thuần thục thì mới dùng bút nho viết lên giấy bổi.
Tôi cũng thường được Ông cho theo
ra đồng, Tuy là lý trưởng nhưng ông cũng phải lam lũ ruộng nương như những lực
điền. Tôi còn nhớ như hằn sâu vào ký ức thơ ngây của tôi về cái cung cách làm
việc của những công bộc của dân thời đó. Chuyện là như thế này : Ông tôi đang
cày ruộng. Có một người dân cần lên quan có việc gì đó nên phải lặn lội ra đồng
để tìm xã trưởng ký chứng vào đơn. Ông tôi họ ( dừng ) trâu lại và lên bờ gặp
đương sự. Sau khi rút cây bút nho, thường dắt tai, Ông tôi mút vào miệng cho ướt
đầu thấm mực, ký chứng vào đơn, Ông tôi lấy cái triện vận trong lưng quần ra,
hà hơi cho ẩm hơi nước rồi kê lá đơn vào đầu gối ấn cái triện vaò, ( triện , miền
bắc gọi là con dấu, miền nam gọi là cái mộc)
nơi có chữ ký của ông. Hồi đó dân ta không mặc quần dải rút hay lồng bằng
dây thun như ngày nay mà mặc quần lưng vận.
Ông tôi là người
hay chữ. Chữ nho Ông viết rất đẹp.Ông được dân làng rất mến mộ. Trong làng nhà
nào có việc quan hôn tang tế đều đến xin Ông tôi cho đôi câu đối, hoành phi hoặc
văn ai, văn điếu. Mặc dù làm việc “nước”, nhưng Ông tôi cũng phải lao động cật
lực để nuôi sống gia đình. Khi việc làng, Ông được trọng vọng ngồi chiếu trên.
Khi hết việc, Ông tôi chỉ làm người dân như mọi người. Nhũng ngày giáp Tết
Nguyên đán, Ông tôi thường mang chiếu, tráp, giấy điều, mực nho ra ngồi dưới
tán cây đa cạnh đình làng để viết thuê câu đối. Viết đến đây tôi lại nhớ đến nhà thơ Vũ Đình Liên
với bài thơ Ông đồ nổi tiếng. Vì thế tôi càng nhớ và thương Ông tôi da diết.
Mệ nội tôi, quê
làng An Cư, tổng An Cư cùng phủ Triệu Phong là cháu quan đại thần Nguyễn Văn Tường.
Ông sinh năm 1824, theo phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết nên bị thực dân Pháp bắt ông giam xuống tàu chở vào
Gia Định, rồi chở ra đày ở đảo Tahiti và chết tại đó năm 1886.
Có một điều rất đặc
biệt là hai làng Đại Hào và An Cư đồng thờ chung Ngài Khai khẩn tên là Nguyễn
Thông. Chị ruột Mệ nội tôi được gả về làng Tường Vân, lấy chồng là vị quận công
được Triều đình tấn phong tước Hồng lô tự khanh.
Ông mệ nội tôi
sinh hạ được sáu người con, hai trai bốn
gái. Ba tôi là con trưởng.
Gia đình chúng tôi về quê nội. Đúng
lúc có trát sức về làng tôi đã đậu Yếu lược. Ông nội tôi đã cho mổ bò khao
làng, mừng đứa cháu đích tôn được phong là Ấm sinh.
Ba Mạ tôi lại đưa tôi vô Huế, chuẩn bị
cho ngày tựu trường niên khóa 1944-1945. Tôi vào học lớp Nhì nhất niên (cours
moyen 1) tại trường Queingec. Học nửa niên khóa thì Nhật đảo chính Pháp. Ngày 9
tháng 3 năm 1945, Việt Nam thôi là nước thuộc địa của “mẫu quốc Đại Pháp” đô hộ.
Tính theo thời gian mà Phả ký Tộc
Nguyễn Ngọc có hiện tại thì dòng họ này đến hiện nay là 16 đời, tương ứng với
thời điểm Chúa Tiên vào đây. Làng Đại Hào có họ Nguyễn tám phái mà phái Nguyễn
Ngọc của tôi là lớn nhất. Chi của cha tôi có nhiều người đỗ đạt.
Theo Phả ký Nguyễn Tộc làng
Đại Hào ghi chép từ đầu thế kỷ 20 thì Ông nội tôi nhiều lần lều chõng
vào kinh đô ứng thí. Ông đỗ vào Trường Nhì Bạch Giáo sư trúng sĩ bổ.
(theo ghi chép ở cuốn Chi phổ họ Nguyễn Tám phái làng Đại Hào).
Ra trường, ông được bổ về dạy học
(thầy dạy chữ Nho) ở làng Lâm Xuân, huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Lâm Xuân là
làng nghề dệt chiếu rất đẹp. Ở đây có một hủ tục là không cho con gái lấy chồng
ngoài làng, bởi sợ mất nghề. Cũng như ở Bắc Ninh, làng Vân có nghề nấu rượu nổi
tiếng cho nên làng không gả con gái cho nơi khác. Các bậc bô lão trong làng đề
nghị ông tôi làm thơ nói lên tác hại của hủ tục này. Ông tôi đã làm một bài vè
để cho dễ nhớ. trong đó có những câu:
…Ba mươi tuổi tác đó chừ
E lẫn thẩn mà trẻ qua già tới
Ngọc phải giá không buông còn đợi?!
Bài vè này dài, tôi chỉ trích mấy câu. Cháu ngoại của ông tên Trần
Kỳ Đại, con O Chuyển đã chép toàn văn cho tôi.Thời gian sau, Ông thôi dạy học
và trở về làng để làm lý trưởng.
Câu chuyện thứ 5.-(Kỳ 2)Ông nội tôi bị Tây
bắn chết.
Chiến tranh gieo biết bao
kinh hoàng cho nhân loại. Chiến tranh là tàn phá, là chết chóc. Dải đất nhỏ bé
hình chữ S này, trong thế kỷ 20 chịu đến 4 cuộc chiến tranh: đánh Pháp, đuổi Mỹ,
chống giặc Tàu và giúp ông bạn láng giềng Cambodia khỏi họa diệt chủng.
Nhân dân Việt Nam chịu bao
đau thương: cha mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha! Và cả những người dân vô
tội cũng đã ngả xuống! Cây cối, vườn tược, ruộng đồng bị hủy hoại…để trở thành
đất trắng.
Có đến hàng chục triệu
sinh linh đã mãi mãi không còn nhìn thấy mặt trời. Có người hài cốt được đưa về
quê hương, bản quán, nhưng cũng có hàng vạn con người nằm yên dưới lòng đất Mẹ!
Tôi căm ghét chiến tranh.
Và ca ngợi hòa bình để cho muôn phương trên trái đất, để nhân loại bình yên trong cuộc sống!
Năm 1948 là năm kinh hoàng nhất của gia đình chúng
tôi.Trong Văn ai khóc mẹ tôi có viết:
… Có ngờ đâu
Độc lập chưa được bao ngày
Giặc Pháp mưu đồ gây hấn…
Đất nước muôn người như một, đứng lên kháng
chiến trường kỳ
Trị Thiên một khối trường thành, lao vào mịt
mù khói lửa
Ba ra đi theo bước trung đoàn
Mẹ ở nhà tảo tần lam lũ
…
…Xót thay!
Năm (19)48 bao nỗi kinh hoàng
Tháng 11 dập dồn tin dữ
Ông Nội bị Tây bắn thả xác xuống ao
Chú Tịch hy sinh gần làng Da Độ
Còn Ba, trung đoàn báo tử
Xuân Lộc em con thiếu thuốc đói cơm
Giã từ dương thế lúc tuổi còn nhỏ
Năm này Mẹ đẻ song sinh
Tháng ấy vào tuần ở cữ
Nguyễn Vô Danh “tử tại phúc trung”*…
______________
*Tử tại phúc trung là chết từ trong bụng mẹ.
Có nguồn tin cho biết là mật thám Việt
gian báo cho giặc Pháp biết gia đình ông nội tôi có đến 3 người theo Việt minh
gồm ba tôi, chú Tịch và o Nghiễn.Cả 3 vị này đều ở trong quân đội, cho nên bọn
Tây khi đi càn quét vùng Đại Hào đã ra tay giết chết ông nội tôi và đốt ngôi
nhà rường ba gian hai chái! Đó là ngày 18 tháng 6 năm Đinh Hợi (1947).
Chúng tôi lấy ngày này để làm ngày kỵ của ông
nội tôi.
Năm 1972, khi Quảng Trị được giải
phóng, tôi có chuyến về thăm quê nội. Và đã viết được một chùm thơ tứ tuyệt và
một cái ký Đường vào ( đã in sách).
Trong Đường vào có đoạn: Về làng
Đại Hào. Anh ở lại nhà o Đạm (em ruột của bố anh) .Cơ quan Huyện ủy Triệu Phong
đóng trong nhà. O cháu gặp lại nhau sau
hai mươi năm trời mừng mừng tủi tủi o đã khóc rất nhiều vì hoàn cảnh gia đình
ly tán. Các con o thì bị giặc xúc tát vào nam, không biết sống chết ra sao. O
Bút thì chạy ra Vĩnh Linh. Còn mẹ anh và các em của anh cũng chạy tán loạn
trong “mùa hè đỏ lửa” năm ngoái, không biết có bị rủi ro gì trên cái “đại lộ kinh hoàng” từ Thành Cổ Quảng
Trị vào Huế không ?
Anh về ngôi nhà cũ của ông mệ nội. Cả
nhà trên và nhà dưới biến đi đâu rồi, chỉ còn trở lại một cái hố bom khổng lồ,
đường kính có tới mười mét. Anh đau lòng nhìn ngôi nhà đã từng là nơi sinh ra bố
anh và các chú, các o. Là nơi mà những tháng nghỉ hè hay những ngày Tết, ngày kỵ
giỗ, ngày việc chi, việc họ anh được cha mẹ từ Huế cho về thăm quê. Nén đau thương anh châm một bó nhang và khấn:
Xin tổ tiên ông mệ và những người khuất mặt, khuất mày về chứng giám cho lòng
thành của đứa con xa quê biền biệt, nay mới có dịp về thăm nhà!
Những lũy tre bao bọc vườn nhà, những
cây khế, cây cam…nay không còn một vết tích nào. Tất cả là đất trắng!
O Đạm ra chợ Thuận mua cá tràu, cá mà
ở Hà Nội thường gọi là cá quả về nấu canh chuối chát (hay còn gọi là chuối hột,
chuối lá). Quả chuối được bóc lớp vỏ lụa bên ngoài rồi thái lát. Cá tràu chỉ cần
đánh vảy, bỏ mang, cắt khúc cho vào nồi nấu chừng nào đủ chín, bắc xuống rắc lá lốt thái chỉ và nêm hạt tiêu
là xong. Đây là món canh truyền thống của quê anh. Ngày xưa mệ nội thường nấu
cho cả nhà ăn hạ nhiệt trong những ngày hè oi bức.
Những đêm nghỉ lại Đại Hào, đêm đêm
anh cũng nghe bên phía quân đội cộng hòa tiếng hát của các ca sĩ trong những đội
Thiên Nga, Phượng Hoàng hát phục vụ binh lính. Những bài hát mà chúng ta cho là
nhạc vàng đó. Quân đội Sài Gòn đóng xen kẽ ở các làng Vân Hòa, An Lộng, Phú
Liêu, giáp ranh với Đại Hào…Theo tinh thần Hiệp định Paris khi có hiệu lực thì
quân đội bên nào giữ nguyên bên đó. Thành ra làng xóm chia cắt không ra một thứ
tự nào. Xen kẽ, xôi đỗ, da báo. Có một hiện tượng rất lạ là những cánh đồng dù
chỉ còn lại năn lác, cỏ dại nhưng lại rất nhiều chuột. Chúng đói nên mò vào cả
nhà dân kiếm sống .Dân các làng đã bắt tay vào xây dựng lại nhà cửa dù chỉ là
những căn nhà tre lá và lợp tôn. Đồng ruộng đã được cuốc xới. Ở đây không còn lấy một con trâu để cày bừa.
Máy cày,máy xới lại càng không. Việc đồng áng chỉ trông vào đôi tay trần! Việc
khôi phục ruộng đồng hoang hóa chỉ dựa vào sức người. Những rủi ro do bom mìn
còn sót lại không được báo trước Cũng đã có một vài trường hợp thương vong và bị
thương, phần lớn là gãy tay, gãy chân.
Đại Hào, đây là nơi chôn nhau cắt rốn của
dòng Nguyễn tộc từ Châu Hoan vào đã bốn năm thế kỷ nay, từ thời Chúa Tiên Nguyễn
Hoàng vào dựng phủ soái tại làng Ái Tử, gọi là Dinh Cát. Anh đã có bài thơ viết
về Ái Tử, bài:
Qua Ái Tử
Ái Tử nghĩa rằng mẹ yêu con
Trắng xóa lô nhô những cát cồn
Nguyễn Hoàng chúa cũ nay đâu thấy
Bảy vại nước tràn nặng tình son
*
____________
·* Khi Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Đàng
Trong, người dân Quảng Trị đã dâng Chúa 7 chum ( vại ) nước để tỏ lòng quy phục.
Viết nhân
ngày Kỵ của ông nội tôi sắp tới.
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 30/6/2021.
Câu chuyện thứ 6.- (Kỳ 1)Ông ngoại tôi là một nhà nho uyên thâm.
Bài viết:
Hơn
bốn trăm năm trước, Nguyễn Hoàng người Tống Sơn, Thanh Hóa, sinh năm
1525, con thứ hai của Nguyễn Kim.Ông nội là Thái phó Nguyễn Hoằng Dụ
từng giúp vua Lê Tương Dực lật đổ Lê Uy Mục (1509). Chỉ còn hai đời
vua Lê cuối cùng nữa thôi để rồi rơi vào tay nhà Mạc. Sử sách thường
ghi: Thời Lê mạt.
Nguyễn Hoàng là em Ngọc Bảo,
Ngọc Bảo lấy Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm thâu tóm hết mọi quyền lực,
lấn át vua Lê, loại bỏ uy thế các em vợ: Nguyễn Uông bị hãm hại.
Nguyễn Hoàng cáo bệnh giữ mình.
Nghe lời sấm của Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng)
“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái
Ngọc Bảo xin anh cho đi trấn thủ Đàng Trong, miền Thuận Quảng.
Tuân
chiếu vua Lê Anh Tông (1556-1573), năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
đất Thuận Hóa. Cùng đi có hàng ngàn binh mã bản bộ và họ hàng ở
Tống Sơn, Nghĩa Dũng (bấy giờ là Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Hà Trung,
Thanh Hóa); Đông đảo nhất có các họ tộc Nguyễn, Lê, Trương, Trần. Lúc
đầu Nguyễn Hoàng đóng dinh tại Ái Tử, còn gọi là Dinh Cát, thuộc
phủ Đăng Xương. Nguyễn Hoàng vỗ về quân dân, thu dụng hào kiệt, khẩn
hoang lập làng; tiếp tục đón nhận di dân từ Đàng Ngoài vào mà phần
đông là dân nghèo ở các làng mạc của các trấn Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh.
Năm 1545 Nguyễn Kim bị
hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, thọ 78 tuổi.
Từ đó quyền hành rơi vào tay con rể Trịnh Kiểm.
Mặc dù ở Đàng Trong ngày càng
lớn mạnh, nhưng Nguyễn Hoàng với ý thức trung quân vẫn làm tròn
nghĩa vụ với nhà Lê. Hàng năm nộp 400 cân vàng bạc, 500 tấn lúa…Vua
Lê đánh Mạc thiếu thốn quân dụng, lương thực. Nguyễn Hoàng đem của
cải ra giúp vua và ở lại Bắc tới 7 năm. Nguyễn Hoàng có công lớn
trong việc đánh dẹp các dư đảng nhà Mạc nên được phong nhiều chức
tước quan trọng: Trung quân Đô đốc Thủ phủ, Tả Đô đốc Chưởng phủ sự,
Thái úy Đoan Quốc Công.Năm 1599, Nguyễn Hoàng được phong làm Hữu
tướng.
Năm 1600, sau khi dẹp bọn nội
loạn Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khê xong, Nguyễn Hoàng dong ra
biển về thẳng Thuận Hóa, chỉ để con trai thứ năm là Hải và cháu
nội là Hắc ở lại làm con tin.
Năm 1613, Nguyễn Hoàng đã gần 90 tuổi,
biết mệnh trời đã đến lúc từ giã cõi trần, ông cho gọi con thứ 6
vào dặn: “Đất Thuận Quảng, phía
Bắc có Núi Ngang (Hoành Sơn) và Sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía
Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sẵn
vàng sắt, biển có cá, muối, thật là đất dụng võ của người anh
hùng”.
Ông
có mười người con trai, trấn thủ Thuận Quảng 56 năm (1558-1613). Sau
này triều Nguyễn truy tôn là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế.
Con
trai thứ 6 của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên đã 51 tuổi mới nối
ngôi cha. Phúc Nguyên cũng được vua Lê ban hàm Thái bảo, tước Quốc
công. Nguyễn Phúc Nguyên nối ngôi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng từ năm 1613,
trấn thủ Thuận Quảng. Đây là ông chúa có bản lĩnh, bắt đầu là việc
không thần phục chúa Trịnh, định quốc tính là Nguyễn Phúc (Từ đời
này trở đi, vương triều Nguyễn có chữ đệm là Phúc). Không nộp thuế
cống, trả lại sắc phong cho vua Lê.
Chúa
Sãi là người dám đương đầu với Trịnh Tùng để rồi xảy ra đụng độ,
cốt nhục tương tàn, Trịnh Nguyễn phân tranh suốt gần 150 năm. Bắt đầu
là giữa Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh 1627-1672 và lần thứ 8 Trịnh Sâm
chiếm Phú Xuân 1774-1775 mở rộng biên thùy Đàng Ngoài. Sông Gianh thành
con sông giới tuyến Bắc Nam, con sông chia cắt đất nước. Hận Sông Gianh
là nỗi đau dân tộc, nỗi đau cho hậu thế khôn nguôi!
***
Theo tộc phả Nguyễn Văn, cụ
Nguyễn Văn Cơ, còn gọi là Cố Nghi, vốn người gốc Giáp Nê, làng Đông
Hán, xã Thuần Trung, tổng Thuần Trung, huyện Lương Sơn, phủ Anh Sơn,
trấn Nghệ An, nay là thôn Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An, Cụ được Chúa Sãi cho theo vào Quảng Trị và được triều đình
ban hàm Thất phẩm sơ lại, tương đương với cấp huyện ngày nay, nhậm
chức tại phủ Triệu Phong. Ở đây Cụ lấy người vợ hai. Người vợ cả ở
quê Đông Hán có hai người con gái. Người vợ thứ sinh được một người
con trai duy nhất đặt tên là Nguyễn Văn Thùy.
Làng
mới của những di dân có tên là Xuân An, nhưng Cụ Cơ đã xin triều đình
đi khai hoang lập ấp ở miền sơn cước.
Đó là Phường Xuân Sơn,thường gọi là
Phường Sãi.
Nguồn gốc Phường Sãi được người đời sau ghi
nhận. Tương truyền rằng “ Có một o
bán bánh xinh đẹp vốn người làng Xuân An mở ngôi quán gần Lùm
Miệu(*) bán bánh bột lọc bọc tôm thịt, bánh quai vạc làm bằng bột
củ sắn. Sáng sáng có ông thổ hào, người làng Thượng Phước (làng
Thượng Phước có cùng một ông tổ là người ở Bắc vào Quảng Trị và
chia thành 3 làng mang chữ Thượng gồm có làng Thượng Phước, làng
Thượng Nghĩa và làng Thượng Trạch, (Thượng Trạch là quê của nhà văn
quân đội Trần Công Tấn) đến ăn quà sáng và say sưa ngắm nhìn o hàng
bánh, mơ được làm chồng. Ông ta quên cả ghi sổ nợ. Đến khi không sao
tìm ra số nợ o bán bánh thì ông thương thảo với o rằng: “Chừ o ôm
cục đá (có người kể là cối đá nhỏ) đi từ đây, nơi có quán bánh và
sau này là địa giới giữa làng Thượng Phước với ấp Xuân Sơn, tục gọi
là Phường Sãi, khi mô mỏi không ôm được đá nữa, bỏ xuống nơi mô thì
là đất của ta trả nợ o đó! O thuận ý, xóc lại quần lưng vận, hồi
đó chưa có quần giải rút hay dây thun cao su như bây giờ. O ôm đá bước
đi trước, ông thổ hào bước theo sau. Oái ăm là ông này có tính hài
hước, luôn mồm kể chuyện vui, hoặc là cố ý chọc cười để cục đá mau
rớt xuống. Đến đoạn chuyện vui quá, o bán bánh cười ngặt nghẽo,
thót cả bụng. Vì thót bụng nên lưng vận tuột ra. O vội vứt đá xuống
để giữ quần. Ông thổ hào la lên: “Đó.Đó, đó đất của o đến đó thôi
nghe!”
***
Sau nương của cụ Nguyễn Văn
Toại, nơi có cây mương là địa giới của Phường Sãi và làng Thượng
Phước. Cụ Nguyễn Văn Toại là con của Cụ Nguyễn Văn Hạng và Cụ bà
Tống Thị Phong, cháu nội của Cụ Nguyễn Văn Dinh với Cụ bà Nguyễn
Thị Cửu, chắt nội Cụ Nguyễn Văn Thùy và Cụ bà Nguyễn Thị Kiên.
Để có cơ sở cho con cháu
trong dòng tộc nắm vững gốc tích cội nguồn, người viết bút ký này
đưa vào đây bản Toát yếu Tộc phả, kể từ đời Cụ Nguyễn Văn Cơ (Đời
thứ 9 – Chi thứ 3, Chi Bính), thường gọi là Cố Nghi, người được chúa
Nguyễn Phúc Nguyên cho theo từ quê Nghệ An vào khai khẩn đất ở ấp Xuân
Sơn – Phường Sãi đến nay.
(*) Lùm Miệu: một khu rừng nguyên sinh nhỏ, trong đó có xây miếu
thờ thần? Thờ thần nào, đến bây giờ khi các cụ đã mất, con cháu
đời sau không rõ.Và hiện nay đã xây lên ở đó một ngôi nhà thờ tộc
Nguyễn. Có lẽ sau này o bán bánh được tôn là Thành Hoàng và thờ ở
Lùm Miệu chăng?
Cụ Cố Nghi lấy người
vợ thứ hai tên là Nguyễn Thị Phan, người làng Thượng Phước và sinh
hạ Cụ Nguyễn Văn Thùy (Đời thứ 10). Cụ Nguyễn Văn Thùy có người vợ
tên là Nguyễn Thị Kiên sinh hạ được 4 người con (3 trai và 1 gái). Đó
là các cụ Nguyễn Văn Dẩu, Nguyễn Thị Cương, Nguyễn Văn Dinh và Nguyễn
Văn Tần. Cụ Nguyễn Văn Dinh (Đời thứ 11) là con trai thứ 3 có người
vợ cả tên là Nguyễn Thị Cửu sinh hạ được duy nhất một người con trai
đặt tên là Nguyễn Văn Hạng (Đời thứ 12). Cụ Nguyễn Văn Dinh có thêm
người vợ thứ tên Lê Thị Kiều sinh hạ được 5 người con, (4 trai và 1
gái). Đó là các cụ Nguyễn Văn Đại, Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Tề,
Nguyễn Văn Chinh và Nguyễn Thị Tập. Người con thứ ba tên là Nguyễn Văn
Tề (Đời thứ 12) từ nhỏ tới lớn sống ở Phường Sãi.
Như vậy là Cụ
Nguyễn Văn Hạng và Cụ Nguyễn Văn Tề là anh em ruột cùng cha khác mẹ.
Cụ Nguyễn Văn Hạng với Cụ bà Tống Thị Phong sinh hạ được 4 người con
(2 trai và 2 gái).Đó là các cụ Nguyễn Thị Thuộc, Nguyễn Văn Toại,
Nguyễn Thị Đằng và Nguyễn Văn Cảm (Đời thứ 13) Người vợ thứ hai của
Cụ Nguyễn Văn Hạng tên là Tống Thị Nguyệt sinh được 2 người con. Đó
là Cụ Nguyễn Thị Thắng và Cụ Nguyễn Văn Quang Cụ Nguyễn Văn Toại đồng hàng với Cụ
Nguyễn Văn Cảm (đời thứ 13) nhưng sinh trước nên ở ngôi anh.
Cụ Nguyễn Văn
Toại và Cụ bà Hồ Thị Lan sinh được sáu người con, ba người con trai
và ba người con gái. Thứ tự như sau: chị cả Nguyễn Thị Cúc, anh trai
thứ hai Nguyễn Văn Liễu, chị thứ ba Nguyễn Thị Lựu, thường gọi là
mụ Bát Lữ, người con trai thứ tư tên là Nguyễn Văn Tần, người con trai
thứ năm tên là Nguyễn Văn Tùy và người con út Nguyễn Thị Quý. Bà
Quý sống gần trọn thế kỉ XX, năm 1998 mất tại xã Xuân Tâm, huyện Xuân
Lộc, Đồng Nai. Năm 2008 ông Đỗ Văn Lâu, con trai trưởng đã cùng mấy chị
em đưa hài cốt về cát táng tại quê nhà, làng Bích Khê, huyện Triệu
Phong, Quảng Trị.
Cụ bà Nguyễn Thị Lựu,
lấy chồng họ Lê làng Xuân An. có những người con tên Trinh và Lợi. Ông
Lợi có con tên là Lê Văn Tiềm hiện sống ở Nông trường cao su Cù Bị,
huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, và có con là Mẫn ở xã Xuân
Tâm, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai.
Cụ Nguyễn Văn Cảm và Cụ bà
Nguyễn Thị Liễu, người làng Đại Hào, sinh hạ được 9 người con. Đó
là chị cả Nguyễn Thị Trâm.Người con gái thứ hai Nguyễn Thị Lý. Anh
trai thứ ba Nguyễn Văn Xuân. Anh trai thứ tư Nguyễn Văn Khoa. Người con
gái thứ năm Nguyễn Thị Dung. (Mẹ tác giả bút ký này) Người thứ sáu
Nguyễn Thị Tâm. Người thứ bảy Nguyễn Thị Tùng. Người thứ tám Nguyễn
Thị Hài. Người thứ chín Nguyễn Thị Hoà.Và người thứ mười là
Nguyễn Thị Thành (con vợ hai), nhưng không rõ lai lịch người vợ hai
này?
***
Từ cây mương cổ thụ,
thân cây có rất nhiều hốc - chim gõ kiến, chim cà cưỡng, tu hú…,
thường chui vào làm tổ - đến cây ươi Cồn Quả, nơi cục đá o bán bánh
buông rơi là đất của ấp Xuân Sơn, Phường Sãi. Giờ nơi đây là dàn cột
điện đường dây 500 kv chạy qua. Chữ Xuân lấy từ gốc làng Xuân An, chữ
Sơn nghĩa là núi. Xuân Sơn chỉ dùng trên giấy tờ, văn bản, đơn từ ít
người biết tới. Còn chữ Phường Sãi là để tưởng nhớ đến Chúa Sãi,
người đã có công lớn mở rộng xã tắc Đàng Trong.Và là người đã đưa
Cụ Hiền Tổ Khảo Nguyễn Văn Cơ từ Nghệ An vào Quảng Trị. Phường Sãi
chỉ có mấy hộ gia đình, kể từ đời Cụ Cố Nghi Nguyễn Văn Cơ định cư
(đời thứ 9), đến đời hậu duệ thứ 17, tổng cộng được 9 đời.
***
Đến năm Ất Dậu 1945, Phường Sãi vẫn
chỉ có 6 gia đình thuộc dòng tộc
Nguyễn cư trú.
Dòng chánh thất của Cụ
Nguyễn Văn Toại, không có người nối dõi tông đường nên bà Nguyễn Thị
Lựu được ở trên mảnh đất hương hỏa.
Cụ Nguyễn Văn Cảm (em ruột
Cụ Nguyễn Văn Toại) ở bức nương rộng. Cụ Cảm còn có tên thường gọi
là cụ Khóa Cảm, là tước phong của triều đình khi thi sát hạch xong ở địa
phương. Cụ xuất thân là một nhà nho, tôn thờ Đạo Khổng. Cụ còn là
một thầy thuốc bắc rất giỏi, đã bắt mạch kê đơn chữa lành bệnh cho
rất nhiều người, được bà con quanh vùng rất khâm phục, nể trọng. Con
trai Cụ Cảm là ông Nguyễn Văn Xuân còn gọi là ông Diêu Xoan ở chung
nương với cha mẹ. Con trai thứ là Nguyễn Văn Khoa nhưng vì kiêng húy nên
gọi chệch sang Khuê (ông Diêu Khuê) có nhà và nương riêng ở kiệt phía
dưới, có đường ranh giới, cận kề nhà thờ họ Lê, làng Thượng Phước.
Dòng trắc thất có Cụ Nguyễn Văn Quang, không có con trai.Chỉ
một người con gái tên là Nguyễn Thị Thí, lấy chồng làng Thanh Lê, xã
Triệu Trung, huyện Triệu Phong.
Năm 1944 bà Nguyễn Thị Kim
Dung, con Cụ Nguyễn Văn Cảm lấy chồng người làng Đại Hào tên là
Nguyễn Xuân Tập, (là thân mẫu và thân phụ của tác giả bút ký lịch
sử này) mãn hạn lính được về ở cùng cha mẹ vợ bức nương sát
đường, cận kề mảnh đất cằn cỗi Khúc Mưng. Đất Khúc Mưng quanh năm
không trồng tỉa cấy hái gì. Bức nương Mạ tôi mua rộng 6 sào với giá
2 vạn đồng Tài chính Trung Bộ. Người ký trên tờ giấy bạc lúc đó là
ông Trần Văn Tấn, chồng bà Công tằng Tôn nữ Lan Huê - thuộc dòng tôn
thất triều đình Huế. Sau năm 1954 tác giả có gặp hai vợ chồng ông
Tấn và bà Lan Huê ở Hà Nội.
Cụ Nguyễn Văn Tề là con cụ Nguyễn Văn Dinh và bà Lê Thị Kiều
(trắc thất) có những người con là ông Nguyễn Văn Trì (còn gọi là ông
thợ Trì) làm nghề may quần áo may bằng khâu tay. Ông là tay thợ giỏi,
may rất đẹp nên được bà con tín nhiệm. Ông còn là một nhà làm vè
nổi tiếng cả tổng. Trong làng, trong tổng có chuyện gì xảy ra thì
chỉ từ sáng đến chiều là có thơ, có vè ngay, thường là vè, thơ châm
biếm. Vè của ông động chạm đến những tay cường hào, hách dịch và
những phú hộ, trọc phú hợm của, khinh người. Ông đả kích những thói
hư tật xấu của con người. Ông còn có tài kể chuyện vè và giọng của
ông rất hay, rất hấp dẫn nên không những trẻ con mà cả người lớn
cũng thích. Mỗi khi ông ngân nga kể vè thì có hàng chục người đứng
vòng trong vòng ngoài nghe một cách chăm chú và có nhiều người thuộc
vè của ông. Có thể nói ông là một nhà thơ dân gian, chuyên làm thơ
trào phúng. Rất tiếc là những bài vè, bài thơ của ông chỉ được
truyền khẩu cho nên hiện nay coi như thất tán hoàn toàn,
Tuy nhiên, ông vẫn rất
nghèo đến nỗi một mảnh nương nho nhỏ, hơn
sào, đã phải cắt đi một phần ba, bán lại cho ông Nguyễn Văn
Xuân. Người con đầu của ông có tên là Nguyễn Văn Loan cũng đi ở chăn
trâu cho ông Xuân. Cách mạng về, ông Loan đi bộ đội và đến khi Hiệp
định Giơ-ne-vơ được ký kết thì tập kết ra Bắc, lấy vợ người Vĩnh
Linh, gần giới tuyến quân sự tạm thời. Hiện nay người cháu nội của
ông thợ Trì tên là Nguyễn Văn Lực vẫn sống trên mảnh nương đó, làm
nghề đóng gạch táp -lô.
Người em kế ông
thợ Trì tên là Nguyễn Văn Thanh (còn gọi là ông Con) ở sát nương
người em út là ông Dần. Hiện nay những người con Ông Con tản mác,
không có ai ở lại Phường Sãi. Ông Nguyễn Văn Hiếu ở tận tỉnh KonTum,
đã gần 80 tuổi thường về việc họ, tết nhất, giỗ chạp. Ông là người
rất có tình, có nghĩa với cố hương. Và người cháu tên Nguyễn Tăng,
con ông Hiếu, sống ở Tánh Linh (Bình Thuận) cũng thường về quê trong
những ngày giỗ chạp.
Ông Nguyễn Văn Dần, thường hay gọi
theo tên con, gọi là ông Đuổi (tên tục ông Thiều) ở sát nương. Ông Dần
sinh được hai người con trai. Người con cả tên là Nguyễn Hồng Thiều,
trước đi ở cho địa chủ làng Thượng Phước. Ông đã từng nhai cơm trún
vào nồi cá kho để chủ nhà tưởng lầm mèo mửa đem cho người làm ăn.
Thời đi ở có lần ông giả vờ điên để có thể chửi bới địa chủ mà
không bị bắt tội. Cách mạng về ông đi bộ đội và tập kết ra Bắc, lấy
vợ người Quảng Bình, sinh được bốn người con. Ông Nguyễn Văn Quýnh, em
ông Thiều, lấy vợ họ Phan, người làng An Đôn. Ông Quýnh có tất cả là
10 người con. Hiện nay ở tỉnh Khánh Hòa. Người em gái tên là Nguyễn
Thị Cầm thì lấy một người tên Trần Đức Hứa ở làng Thượng Phước.
Còn cô em út là Nguyễn Thị Huệ, lấy chồng ở làng An Đôn.
Còn tiếp>
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 1 tháng 7 năm 2021, nhằm ngày 22/5/Tân Sửu.
Nhà thơ Xuân Bảo.