Trang

Thứ Năm, 29 tháng 7, 2021

348.Một ông vua văn võ kiêm toàn.

 

MỘT NHÀ THƠ VĂN VÕ KIÊM TOÀN

Nước Nam ta có rất nhiều ông vua đồng thời là nhà thơ. Triều Trần có đến 7 ông vua là thi sĩ. Cuối thời phong kiến, gần ta nhất có các ông hoàng Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương.  Vua Tự Đức là một nhà thơ lớn.

Tuy nhiên, trong lịch sử thì có một ông vua vừa làm vua, VỪA CẦM QUÂN,vừa làm thơ nổi tiếng là vua Lê Thánh Tông.

Lê Thánh Tông, tự là Tư Thành, huý là Hạo, con trai út của Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao - con gái Thái Bảo Ngô Từ. Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi. Mẹ Nhân Tông khi đó đang buông rèm chính sự, cho đón Tư Thành về ở trong cung rồi phong làm Bình Nguyên Vương hằng ngày cùng vua Nhân Tông và các vương hầu học tập tại toà Kính Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập, thông tuệ hơn người, được vua Nhân Tông rất yêu quý.

 Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442. Ngày 6 tháng 6 năm Canh Thìn - 1460, các quan đại thần phế truất Nghi Dân, rước Tư Thành - lúc đó 18 tuổi lên ngôi. Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn bán, ban hành chế độ quân điền, coi trọng việc bảo vệ biên giới quốc gia. Bản đồ biên giới quốc gia Đại Việt được hoàn thành dưới triều Lê Thánh Tông. Và là người xuống chiếu giải oan cho Ức Trai trong vụ Lệ Chi Viên án. Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu vua Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta.  Bộ Đại việt sử ký toàn thư do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm Kỷ Hợi - 1479 dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông.  Lê Thánh Tông còn lập ra Hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi là "Tao Đàn nhị thập bát tú" do nhà vua làm nguyên suý. Trong đó có Thân Nhân Trung – người có câu văn bất hủ, được ghi vào Văn miếu Quốc Tử Giám: Hiền tài là nguyên khí quốc gia.

                                           ***

Không có vị nguyên thủ quốc gia (ở nước Nam) lại lo cho dân đến cùng như vua Lê Thánh Tông. Ở nửa sau thế kỷ XV, trong bối cảnh cực kỳ thuận lợi của một triều đại thái bình thịnh trị, thơ Nôm được triều đình nhà Lê với vị minh quân Lê Thánh Tông đặc biệt chú trọng. Nhà vua đã nâng việc sáng tác thơ Nôm từ chỗ tự phát đến quy mô quốc gia. Thơ Nôm đã tuyển thành tập “Hồng Đức quốc âm thi tập”.

Lê Thánh Tông là một thi nhân hội tụ được cả 3 yếu tố không thể thiếu với một thi nhân đích thực: trí tuệ phong phú, tài năng sáng tạo thơ và tính chất lãng tử trong tâm hồn.

Ông vua hiền triết này có cái nhìn “vạn vật nhất thể”, thấy được cái vĩ đại trong cái hèn mọn, cái may trong cái rủi, cái đẹp trong cái xấu, cái sướng trong cái khổ. Thơ Lê Thánh Tông hàm chứa ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Lê Thánh Tông như một vị thánh nhân đức đã “thế thiên” đi ban phát hạnh phúc cho con người ở cõi nhân gian, cho thần dân mà ông hết lòng yêu thương.

 Chỉ riêng một sự việc của Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, vợ chàng Trương Sinh nghe con trẻ trỏ cái bóng trên tường, gọi đó là cha mình. Hãy nghe một đoạn “án oan” này của Nguyễn Dữ viết trong Truyện kỳ mạn lục:

…Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương Sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ rồi bế đứa con nhỏ đi thăm. Ra đến đồng đứa con trẻ quấy khóc, Sinh dỗ dành:

-         Con nín đi, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!

          Đứa con thơ ngây nói:

-         Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.

Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:

-         Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, ngồi cùng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn có cách gì tháo gỡ ra được.

Về đến nhà mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:

-         Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa Tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự hư thân mất nét như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói, chỉ thường thường mắng mỏ, nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:

-                        Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia, nghi thất. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gẫy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gẫy cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Đoạn rồi nàng tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

-         Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ, điều đâu bày buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm chi diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi ngưởi phỉ nhổ.

Nói xong gieo mình xuống sông mà chết.

Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng động long thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳn thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:

Ô, Cha Đản lại đến rồi.

Chàng hỏi đâu? Nó trỏ bóng chàng ở trên vách.

Đây này!

         Sự việc chỉ có thế mà vua Lê Thánh Tông đã có đến 2 bài thơ.

Bài thứ nhất. Miếu bà Trương;

Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương

Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ

Cung nước chi cho lụy tới nàng?

Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt

Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng?

Qua đây mới biết nguồn cơn ấy

Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng

 

Và bài thứ hai Hoàng Giang, điếu Vũ nương.

Ngàn lau san sát, cỏ xanh xanh

Sảy nhớ ngày xưa kẻ tiết trinh

Cách trở bấy lâu hằng giữ phận

Hiềm nghi một phút bỗng vô tình

Hay lòng, phó mặc vầng cao thẳm

Lẻ bóng tìm nơi chốn vắng thanh

Dầu nhẫn ai ai qua đến đấy

Thương nàng hòa lại trách Trương sinh

Tâm hồn của vị vua thi sĩ dạt dào tình cảm hiện còn khắc trên đá trước cửa miếu Vũ nương tại Lý Nhân, Hà Nam.

Thơ Nôm của Lê Thánh Tông và của thời Hồng Đức là “máu mủ ruột rà”, là di sản văn hóa vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam ta cần được phổ cập đến mọi người.

Bên bờ Phước Long Giang, viết kỷ niệm ngày Hội Văn Nghệ Đồng Nai bước sang tuổi 40 . 22/12/1979 – 22/12/2018.

Nhà thơ Xuân Bảo.Bài đăng lại vao ngày hom nay, khi cao trào Co vit 19 đã xâm nhập Đồng Nai. Ngày 29/7/2021.

Nhà thơ Xuân Bảo.

 

 

 

 

 

Thứ Hai, 26 tháng 7, 2021

347. Thương tiếc nhà giáo- giáo sư Ngữ văn Trần Văn Hối

 

                    

                                 Thương tiếc nhà giáo, giáo sư Ngữ văn Trần Văn Hối.

                                          Sáng nay, ngày 27/7, tôi đang ngồi viết về ngày Thương binh Liệt sĩ thì nhận được hung tin từ anh Nguyễn Hậu, con ông cậu ruột của tôi ở Phường Sãi , Thượng Phước, Triệu Thượng, Quảng Trị báo tin anh Trần Văn Hối- giáo sư Ngữ văn đã từ trần!

                                          Thật vô cùng xót xa thương tiếc người anh, người bạn đã ra đi ở tuổi 90! Tôi viết mấy dòng huyết lệ để chia sẻ nỗi đau với chị Nụ, với các cháu trước sự mất mát này. Tôi xin thắp nén tâm nhang bằng bài viết về những kỷ niệm với giáo sư Trần Văn Hối!

 

                     Kỷ niệm 1.

                                                        

                                    Đến đường Phan Bội Châu, tôi nhớ mang máng là anh chị Hối ở số nhà 254. Kỳ cho xe chạy quá gấn tới cầu Bến Ngự. Tôi xuống xe, hỏi một chị đi bộ; Nhà thầy Hối thì chị ta xăng xái dẫn tôi vào một con hẻm hẹp và gọi tên thầy Đối ra có người gặp, Tôi là một ông già tuổi trên tám mươi, tai bị nghễnh ngãng đã đành còn chị ta mới 55 tuổi, sao lại nghe Hối ra Đối được nhỉ? Thế là phải ra lại đường chính và hỏi người khác. Đến đúng số nhà anh Hối. Tôi gọi cửa, anh chị mừng rỡ đón vào nhà. Anh chị nhắc lại một vài kỷ niệm hồi chúng tôi ở phố Hàng Đào, Hà Nội. Có lần anh ra thủ đô cùng với giáo sư ngữ văn Nguyễn Việt Anh để biên soạn cuốn Văn học sử Việt Nam, anh đã nghỉ lại nhà tôi. Nhưng nhớ nhất là chúng tôi về dự đám cưới của anh chị. Hồi đó, chị Nụ là sinh viên năm cuối khoa ngữ văn, quê ở Yên Khánh, Ninh Bình. Đoàn đồng hương Quảng Trị chúng tôi gồm anh Phan Hào, chồng chị Đào, anh rể anh Trần Văn Hối. Anh Phan Hào đã từng làm bí thư Thị ủy Quảng Trị thời chống Pháp, anh Trần Đức Lương, phóng viên Việt Nam Thông tấn xã và tôi. Thời gian đó việc mua vé xe ca Hà Nội đi các tỉnh rất khó khăn, nên anh Hào (đang công tác tại Văn phòng Bộ Giao thông Vận tải) phải lấy giấy giới thiệu của Bộ, bến xe mới ưu tiên bán vé cho.

                     Tôi và anh Hậu đến anh Hối còn có một việc quan trọng. Anh Hối là một nhà trí thức tầm cỡ, có uy tín. Năm nay anh đã 86 tuổi và là một trong những trí thức còn lại của làng. Chúng tôi trình anh bản “Dự thảo Xây Nhà bia tưởng niệm các liệt sĩ, anh hùng của làng Thượng Phước”. Trong Lời đề dẫn, chúng tôi có đề cập đến một làng quê nhỏ bé như Thượng Phước, trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đánh Pháp và đuổi Mỹ ròng rã ba mươi năm trời đã cống hiến cho Tổ quốc gần 45 liệt sĩ và có tới 7 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng. Chưa kể đến những người dân yêu nước của làng đã bị quân thù mổ bụng, moi gan, chôn sống.

                     Địa điểm để xây dựng Nhà bia là một quả đồi thường gọi là Cồn Cự, rộng chừng gần 4 hecta, nằm ngay khu vực trung tâm của làng. Mặt trước là con đường bằng bêtông, có khu dân cư hiện hữu và mé ngoài là con sông Thạch Hãn đưa nước từ thượng nguồn (có chiến khu Ba Lòng nổi tiếng) xuôi về biển Đông. Cồn Cự hiện có những ngôi mộ của các dòng tộc chôn cất người quá cố nằm rải rác, không theo một quy định nào. Phần lớn diện tích còn lại là trồng rừng keo lai. Công ty Thống Nhất Ninh Bình khi thi công con đường cứu hộ, cứu nạn từ đầu cầu phía bắc Thạch Hãn – nơi có tượng đài 19 giọt máu của trung đội anh hùng Mai Quốc Ca -  lên tới chân đập Trấm, thường gọi là công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn, dài non chục cây số. Công ty đã ủng hộ làng một con đường rải đá cấp phối chạy quanh Cồn Cự. Như vậy, nếu lãnh đạo xã Triệu Thượng và Huyện ủy. Ủy ban Nhân dân huyện Triệu Phong, Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Trị cho phép xây Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ thôn Thượng Phước thì Cồn Cự cũng sẽ thành công viên vĩnh hằng (hay gọi cách khác là Nghĩa trang Nhân dân) cho người dân nơi đây.

                     Anh Hối chăm chú nghe tôi đọc bản Dự thảo. Nghe xong, anh nói: Hay lắm, không có gì hơn là chúng ta – những người còn sống đến hôm nay phải luôn luôn nhớ đến những đồng bào, đồng chí đã ngả xuống!

                      Nhưng rồi anh cũng thấy nan giải bởi một câu hỏi giản đơn: Tiền xây dựng Nhà bia lấy ở đâu ra? Mặc dù trong “Dự thảo”, chúng tôi có đề cập đến phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhưng dân làm là chủ yếu”. Anh Hối nói vui: Xuân Bảo xung phong đóng góp 20 triệu đồng trước đi, rồi bà con sẽ noi theo mà góp công, góp của. Nếu “dự án” được tỉnh thông qua thì chắc chắn là làm được.

                     Chị Nụ vừa làm bếp vừa lắng nghe câu chuyện của chúng tôi trao đổi. Chị nói: nếu được duyệt cho xây Nhà bia thì chị cũng sẵn sàng đóng góp. Một lúc sau, cháu Phong, con trưởng của anh chị đánh ôtô về. Cháu nói về rước các con đi học. Tôi nhờ Phong chụp cho mấy kiểu ảnh làm kỷ niệm. Anh chị mời chúng tôi ở lại dùng cơm trưa, nhưng chúng tôi xin khất lại lần sau.

 

                     Kỷ niệm 2.

Mệt quá và cũng đã đến giờ hẹn với giáo sư Trần Văn Hối, tôi vẫy taxi để về khách sạn Song Cầm. Sửa soạn xong, chúng tôi định kêu xe, nhưng nhà văn Nguyễn Thanh Song Cầm nói: Để em đưa đi. Chúng tôi đến nhà anh chị Hối ở 264 đường Phan Bội Châu, gần Đàn Nam Giao đúng 10 giờ. Nhà văn còn về lo cho việc con gái đầu Aya tốt nghiệp đại học nên xin kiếu.

 

 

 

 

                                                Ảnh. Bữa cơm tại nhà anh chị Trần Văn Hối

                     Anh chị Hối rất vui khi được gặp lại nhà tôi. Chị Nụ thì khen nức nở: Hơn 40 năm qua rồi mà chị Minh vẫn trẻ đẹp như xưa! Bữa cơm thân mật được chị Nụ chuẩn bị từ sáng sớm. Có đủ các món đặc sản của Huế. Cả gia đình giáo sư có mặt đầy đủ. Anh Hối nhắc lại những kỷ niệm hồi còn chiến tranh chống Mỹ. Mỗi lần anh từ trường Đại học Sư phạm Vinh ra Hà Nội đều có ghé nhà tôi ở 59 phố Hàng Đào, Hà Nội. Các thầy Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Duy Bình, Nguyễn Việt Anh…đều có tới thăm gia đình chúng tôi. Thế mà bây giờ đã nhiều người đi xa. Giáo sư Trần Văn Hối cũng đã xấp xỉ cửu tuần rồi.

                     Ôi, Thời gian!

                     Tạm biệt Huế thân thương. Tạm biệt Mang Cá – Kẻ Trài, Bao Vinh, Thành Nội…Tạm biệt những người bạn rất đỗi yêu thương trìu mến! Chúng tôi lại ra sân bay Phú Bài để về Đồng Nai.

                            Nơi mà:

                            Làm trai cho đáng nên trai

                            Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.

 

                           Bên bờ Phước Long Giang, lúc 9 h 30’ ngày 26/7/2021, nhằm ngày 17 tháng Sáu, Tân Sửu.

                                                         Nhà thơ Xuân Bảo

Thứ Năm, 15 tháng 7, 2021

346. Những câu chuyện làng quê

 

Ngày Cát-tó ju-dê Quốc khánh Pháp – 14/7/ năm 1944  ở Huế

                                                           Hồi ức của nhà thơ Xuân Bảo

 

Trại Con gái Mang Cá có nhiều dãy nhà. Mỗi dãy có tới mấy chục căn hộ. Căn hộ hai đầu dãy thì thông nhau, nhìn ra hai phía, dùng bố trí cho cấp bậc đội và đội sếp.( sergent et sergent chef).  Còn từ cai (caporal) trở xuống thì chỉ ở những căn giữa. Căn hộ ba mạ tôi ở gần sân vận động. Trước mặt nhà về phía tây là nhà của ông đội sếp Nguyễn Văn Hinh. Ông này đặt tên con theo cái giờ nó được sinh ra. Còn tên thật theo giấy khai sinh thì khác. Thằng đầu cùng tuổi với tôi tên là À dix heures, tức Mười giờ. Bọn học trò chúng tôi thường chọc ghẹo nó, gọi nó là Thằng đít giơ theo tiếng Việt là thằng đít dơ (nhớp). Thằng em nó được đặt tên là À onze heures dix minutes, tức Mười một giờ mười phút. Chúng tôi lại gọi tên nó bằng tiếng Việt: thằng ông giơ đít mi nút.

 Ông Nguyễn Văn Hinh, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ lãnh đạo phe chống Ngô Đình Diệm và bị Diệm tiêu diệt nặng nề.

           Trong Trại này có một cái biệt thự riêng biệt, được đặt sau ngôi đền, từ ngoài cổng vào. Cụ quản Vương Đình Khoan (adjudant chef) ở cả gia đình từ Nghệ An vào. Thỉnh thoảng thấy cụ xuất hiện, đi xuống các dãy nhà, trong tay cụ lúc nào cũng có cây roi cặc bò. Lính tráng gặp cụ thì phải giơ tay chào kiểu nhà binh. Còn lũ trẻ chúng tôi gặp cụ thì phải đứng lại, vòng tay ra trước ngực “bẩm cụ”. Năm 1944, Cụ quản Khoan mãn hạn lính. Người thay thế là cụ quản Trang vào ở ngôi biệt thự đó.

           Cách cổng Trại Con gái chưa đầy ba trăm mét, phía tay phải là cổng đồn Mang Cá. Ngoài cổng có một dãy nhà của ông cai Thuyết cho thuê, kiểu như nhà trọ bây giờ. Nghe nói ông cai Thuyết khởi nghiệp chỉ có trong tay 5 xu tiền Đông Dương lúc bấy giờ. Thế mà 10 năm sau ông đã trở nên giàu sụ, có của ăn của để. Vào khỏi cổng phía tay phải có cái bót gác, vào bên trong chừng mươi mét có một tiệm cắt tóc. Tiệm cắt tóc có ba chiếc ghế cho khách ngồi. Trên trần nhà có ba cái quạt kéo bằng vải, giống như cái quạt giê lúa của nông dân. Khi có khách cắt tóc thì có một chú nhỏ khoảng trên 10 tuổi kéo dây cho quạt đung đưa qua lại trên chỗ khách ngồi cho mát.

           Vào một đoạn nữa là kho gạo. Cứ đến đầu tháng mạ tôi đem “bông”- một loại tem phiếu phát cho vợ lính - để lĩnh gạo mang về. Tiền mua gạo này được Trésorier (kho bạc) chiết trừ vào tiền lương hàng tháng của ba tôi. Đối diện với kho gạo là một cái nhà bàn rất to, (tức là nhà ăn tập thể), đủ chỗ ngồi cho cả một tiểu đoàn lúc tới giờ ăn.

           Muốn đi vào trong thành phải đi qua một cái cầu xi-măng hình bán nguyệt, bắc qua hào rồi đi qua cái cổng thành có cánh cửa gỗ to đùng ngày mở đêm đóng, có lính canh thường trực. Đây là cổng thành được gọi là Cổng Trấn Bình đài  (Cửa Đông Bắc Kẻ Trài). Phía trong thành là nơi đóng quân của binh lính và sĩ quan của Tiểu đoàn 3 ( 3 è batallon ). Có phòng làm việc, nơi ở, có câu lạc bộ, sân vận động bóng đá, sân bóng chuyền, bãi tập quân sự (thao trường). Đặc biệt có kermesse (theo nghĩa là chợ phiên), nhưng thực tế chỉ là cái cantine bán tạp hóa và thực phẩm cho binh lính. Mạ tôi thường hay được các chú lính mua giúp bia, nước ngọt và các thứ thực phẩm về dùng.

           Những ngày lễ lớn như Quốc khánh Pháp (14 tháng 7, mà dân Huế thường gọi là ngày Cát – tó Ju-dê), Noel, Tết Tây (nouvel an), Tết Nguyên đán, Bộ Chỉ huy thường tổ chức ngày hội gồm nhiều trò chơi như leo cột mỡ, thi nhảy bao bố, bịt mắt bắt vịt, bịt mắt đập om (một loại nồi đất) và nhiều trò chơi khác. Có lần tôi đập trúng cái om đựng đầy nước, nước bắn tung tóe, ướt hết mặt mũi quần áo. Vợ con binh lính được vào vui chơi trong thời gian mở hội.

           Kết thúc niên khóa 1943-1944, trường chúng tôi tổ chức cho học trò lớp sơ đẳng đi thi Sơ học yếu lược. Học trò phải có cái certifica d’identité (thẻ căn cước). Mạ tôi dẫn tôi lên hiệu ảnh gần chợ Đông Ba. Tôi được mặc áo lương đen và đội khăn đóng (khăn xếp) chụp hình để dán vào hồ sơ và sau này tôi thấy trong tấm bằng Yếu lược của tôi cũng dán bức hình này. Địa điểm thi là tại thị trấn Bao Vinh, huyện lỵ huyện Hương Trà. Từ sáng sớm, một chiếc xe nhà binh của đồn Mang Cá tới rước học trò đi thi. Cha mẹ học trò thì hoặc là đi bộ (từ Mang Cá xuống Bao Vinh cũng không xa lắm) hoặc là đi xe tay xuống nơi thi để động viên con em mình. Lớp chúng tôi được phân ra thi ở nhiều phòng thi khác nhau. Tôi để ý thấy trong phòng thi của tôi có cả những ông có râu và tuổi cũng cao như ba tôi. Sau này tôi mới được biết các ông này đi thi để lấy cái bằng Sơ học Yếu lược thì sẽ có nhiều quyền lợi như được triều đình ban phẩm trật, thường là cửu phẩm văn giai. Khi ra việc làng được ngồi chiếu trên, khi chia ruộng công thì được chia loại nhất hoặc nhị đẳng điền, khỏi đi phu phen phục dịch, không phải làm thằng mõ.

              Phía ngoài phòng thi có mấy ông cảnh sát (police) mặc quần áo màu vàng, cầm roi cặc bò đi lui đi tới. Sau phần thi buổi sáng gồm 2 môn ám tả và toán. Buổi chiều thi phần tiếng Pháp, có thi viết một đoạn văn ngắn (dictée francaise) và thi oral (vấn đáp). Tôi làm bài thi khá nhanh. Khi đang học ở trường, tôi thường được xếp hạng nhất nhì của lớp. Hàng tháng trên bảng Danh dự (tableau d’honneur) của lớp tên tôi luôn được xếp đầu tiên. Nộp bài thi xong thì được phép ra khỏi phòng thi để gặp thầy giáo và cha mẹ, nhưng không được làm ồn và đi lại lộn xộn. Cuộc thi kết thúc chúng tôi lại lên xe nhà binh trở lại Mang Cá. Khoảng hai tháng sau thì có kết quả. Tôi được xếp thứ 11 trong tổng số thí sinh dự thí. Bằng được gửi theo đường dây thép (bưu điện) về quê nội làng Đại Hào, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông nội tôi cho mổ bò khao làng. Thế mới biết việc khuyến học thời đó mới quý làm sao.

***

Năm 1944, đang trong Thế chiến thứ II nên việc đi lại bằng đường bộ hết sức nguy hiểm do Đồng minh thường xuyên ném bom hủy hoại đường giao thông. Ba mạ tôi rời khỏi Huế từ đầu năm 1944 vì ba tôi mãn hạn lính. Tôi ở lại, ở nhờ nhà bà sếp Thông chờ thi Yếu lược nên về sau. Đây là lần đầu tiên tôi được đi đò dọc từ Huế ra Quảng Trị. Khi chờ xuống đò ở Bao Vinh. Bao Vinh là một bến thuyền sầm uất. Tôi đứng nhìn các chiếc ghe bầu từ xứ Quảng ra buôn bán các loại hàng hóa, trong đó đường Quảng Nghĩa nổi tiếng. Họ có lối đếm rất độc đáo. “Một đôi, hai đắng, boa thìn, chín chăn, chẽng chục”. Thế là đủ một chục cái bánh đường.

Tôi còn nhớ những kỷ niệm thân thương về người cha của mình. Ông có dáng người cao lớn, khuôn mặt thông minh và nụ cười rạng rỡ. Hồi ở Huế, trong trang phục nhà binh, trông ông oai vệ không kém những tên quan Pháp. Những ngày nghỉ, ba tôi thường cho mạ, tôi và các em đi thăm thú các danh lam thắng cảnh của cố đô. Gia đình tôi đi xem cinéma, xem hát ở rạp Tân Tân. Có những đêm trăng đẹp, ba mạ và tôi được lên đò nghe ca Huế. Tôi còn nhớ cho tới bây giờ các điệu Nam ai, Nam bằng. Có những câu nghe ai oán: “Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi?” Và những câu hò mái nhì nghe thống thiết làm sao! “Chiều chiều ra trước Phu Văn Lâu. Ai ngồi ai câu, ai sầu, ai thảm, ai cảm, ai nhớ, ai thương. Thuyền ai thấp thoáng bên sông. Giọng hò mái đẩy chạnh lòng nước non.”

Trên sông Hương có rất nhiều đò cho khách thuê để dạo chơi và nghe ca Huế. Có những chiếc đò nhỏ bán chè đậu xanh, đậu ván, bán trứng vịt lộn và nhiều món ăn đêm khác. Họ chèo quẩn quanh các đò hát và cất tiếng rao lanh lảnh ngập tràn cả khúc sông. Trên bờ, đoạn trước cửa Ngọ Môn có một vườn hoa mang tên nhà vua Bảo Đại. Đêm đêm nơi đây có tổ chức nhảy đầm, có quán xá. Khách đến đây thường là các quan chức người Pháp và công chức, tư chức người Việt. Tuyệt nhiên không có khách là người nghèo hoặc thậm chí các ông xã xệ lý toét cũng không hề bén mảng.

              Tôi còn nhớ ngày đó ở chân cầu Thanh Long có một người ăn mày tên là Cụ Trâu. Mùa hè cũng như mùa đông, Cụ Trâu chỉ mặc độc chiếc quần đùi. Người cụ láng mượt một màu da nâu, đặc biệt tấm lưng trần như được bôi mỡ. Cụ nói lời ăn xin mà nghe như hát: “Lạy ông đi qua lạy bà đi lại…” Và cũng trên đoạn đường này có một tiệm hút thuốc phiện, ngoài cửa có treo tấm biển đề chữ OPIUM. Tôi nghe mạ tôi nói ba tôi thỉnh thoảng cùng những người bạn trong đồn đến nơi đây để hút thuốc phiện. Thuốc phiện được mở tiệm công khai. Các nhà cách mạng thì coi đây là một trong nhiều chính sách ngu dân của thực dân Pháp?!

                                                 ***

         Hôm nay, Ngày Quốc khánh Pháp, tôi lại nhớ về những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi nhớ Cách mạng Pháp 1789. Tôi nhớ bài Quốc ca La Marseillaise...Trong bài chào cờ này, tôi còn nhớ được mấy câu:

         Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Ba tôi được điều sang Pháp để đánh phát xít Đức. Vừa đến cảng Marseille thì thống chế Pétain Philippe đã đầu hàng nên đoàn quân lê dương này phải quay về. Chả hiểu vì sao lúc đó không gọi Pétain là tổng thống mà chỉ gọi là thống chế (maréchal Chef de l’État francais).

          Bọn học trò chúng tôi mỗi khi đến trường thì phải làm các nghi lễ chào cờ, hô khẩu hiệu…Cả trường hát quốc ca Pháp, bài Marseillaise (có nghĩa là bài ca của người Marseille). Bài ca này do Claude Joseph Rouget de Lisle – một sĩ quan trẻ thuộc Quân đoàn công binh sáng tác đêm 25 rạng 26 tháng 4 năm 1792 tại Strasbourg. Lúc đầu nó mang tên Chant de guerre pour l’armée du Rhin (Hành khúc quân sông Rhein). Tôi còn nhớ được một đoạn: Allons enfants de la Patrie/Le jour de gloire est arrivé! / Contre nous de la tyrannie, /L’entendard sanglant est levé…

Và điệp khúc: Aux armes citoyens! / Formez vos bataillons! Marchons! Marchons! / Qu’un sang impur/ Abreuve nos sillons!

Dịch ra Việt ngữ:

Hãy tiến lên! Những người con Tổ quốc/ Ngày vinh quang đã đến rồi! / Chống lại chúng ta, bọn bạo tàn/ Đã được giương lên lá cờ vấy máu…

Và điệp khúc:

          Hãy cầm lấy vũ khí, hỡi những công dân! / Hãy lập nên những đội quân! /Tiến lên! Tiến lến! / Hãy để cho dòng máu nhơ bẩn/ Tưới đẫm những luống cày của chúng ta!

 

Và quốc ca An Nam: Kìa núi vàng bể bạc/ Có sách trời sách trời định phần…. Theo Tạp chí Sông Hương số đặc biệt ra tháng 4 năm 2012, trang 48 có bài Âm nhạc Việt Nam và riêng ở Huế - giai đoạn 1930-1975 của nhạc sĩ Bửu Ý có đoạn viết: “Một trong những bài ca đầu tiên của nước ta là bài Kìa núi vàng bể bạc của Bửu Bác được dùng làm quốc ca thời Bảo Đại...Nó theo điệu “Đăng đàn cung” của nhạc phủ: Kìa núi vàng bể bạc /Sách trên trời định phần/…Bửu Bác còn là tác giả của bài “Mừng Phật đản”, cũng theo điệu “Đăng đàn cung”.

Bọn học trò chúng tôi còn phải hát bài suy tôn thống chế Pétain. Mở đầu bài hát là câu: Maréchal nous voilà devant toi, le sauveur de la Patrie…

Hát xong hai bài quốc ca thì cả trường lại vang lên cái câu: Vive La France! Vive L’ Annam! (Nước Pháp muôn năm! Nước An Nam muôn năm!). Tôi còn nhớ khi hô các câu này thì tay phải úp vào ngực trái rồi đưa cả bàn tay ra phía trước hơi chếch bên phải, ngang tầm mắt. Kiểu này hơi giống kiểu lính phát xít Đức khi chào nhau: Hailo Hitler!

 

     Bên bờ Phước Long Giang, 10 h, sáng Ngày 14/7- mùng Quốc khánh nước Pháp!

 

                                                                                    Nhà thơ Xuân Bảo

 

 

                                                  ***

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 6.- (Kỳ 2)Và là một thày thuốc bắc giỏi.

        

         Ngày xưa, nhiều nhà Nho học,sau khi tốt nghiệp các kỳ thi hương, thi hội, thi đình thường được học thêm nghề thầy thuốc lương y (thầy thuốc bắc) như trường hợp Cụ Đồ Chiểu…Ông ngoại tôi, không ra làm quan mà trở về quê hương chăm chỉ ruộng đồng và làm ông lang. Từ hai bàn tay trắng với một ít đất đồi, ông đã cho khai phá được hon hai chục

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 1. Mạ tôi dắt tôi đi hái lá mùng  năm-Tết Đoan ngọ

 

                              Hồi ức của nhà thơ Xuân Bảo.

 

Vacance niên khóa 1943-1944, sau khi thi Sơ học yếu lược xong, tôi được Mạ tôi vô Huế đón về quê Quảng Trị nghỉ hè. Quê nội tôi ở làng Đại Hào, tổng An Cư, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Quê ngoại tôi là phường Xuân Sơn, còn gọi là Phường Sãi (thuộc làng Xuân An), tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Hai làng cách nhau khỏang non 15 cây số. Phường Sãi là miền duyên sơn, còn Đại Hào là vùng đồng bằng.

Tôi được nghỉ hè vào dịp mà quê Mạ tôi cũng như nhiều nơi khác rộn rịp đón Tết Đoan Ngọ, mùng 5 tháng 5 âm lịch.

Tôi còn nhớ hồi học môn Quốc văn, thầy giáo cũng đã nhắc tới câu ca dao:

 Tháng giêng là tháng ăn chơi/

 Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè/

Tháng tư đong đậu nấu chè/

Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm…

 

Quê Mạ tôi, trước mặt là dòng sông Thạch Hãn, quanh năm nước trong xanh, trừ vài ngày lụt lội, phía sau là độông, hác, đồi có rất nhiều loại cây rừng, phần lớn là sim, mua, muồng muồng… Mọc xen vào đấy là nhiều loại cây thuốc nam, thuốc bắc như đậu khấu, thiên niên kiện, hà thủ ô, kim ngân, mạch môn…

Trước Đoan Ngọ vài hôm, Ông ngoại tôi vốn là một nhà Nho và là một thầy thuốc bắc rất giỏi nghề đã bảo chú Đáo chuẩn bị giã gạo nếp để làm bánh cúng. Mệ ngoại thì lo cỗ bàn. Còn mấy Dì và chị Thản thì được phép vào độộng để hái lá về phơi khô làm thức uống thay trà. Mạ tôi cho tôi đi theo hái lá mùng năm.

Tốp người đi hái lá rất đông vì nhà nào cũng có người tham gia. Tôi được Mạ tôi chỉ dẫn rất tỷ mỷ từng loại lá. Đây là lá vằng, thứ lá chủ yếu trong các thứ lá hái cho ngày Đoan Ngọ. Cây vằng quê Mạ là một cây thuốc quý. Trong nhân dân, khi người trong nhà có người mang thai thì phải hái lá vằng nguyên dây, nguyên lá và bông (hoa). Từng bó lá vằng được cuộn tròn lại, đủ cho một nồi nước lá, đem về phơi khô rồi xâu vào một con sào treo lên giàn bếp. Người sản phụ chỉ dùng nước lá vằng trong thời hạn 3 tháng 10 ngày. Sau hết giai đoạn “phòng long” thì được dùng thêm các loại thức uống khác. Lá vằng còn trở thành một địa danh nổi tiếng ở Quảng Trị. Đó là nhà thờ Thiên Chúa Giáo La Vang, khi những nhà truyền đạo phương Tây đến nước ta và đã xây nên. Vùng đất có nhiều lá vằng nhất là xã Hải Đạo, có những làng như Long Hưng, Đại Nại, Tích Tường, Như Lệ, phía trên đường cái quan, sau này là Đường số 1. Thực dân Pháp thường gọi là Rút – oong (Route No.1) gần thị xã. Chữ viết phương Tây không có dấu nên họ đã phiên âm “lá vằng” ra là “la vang”.

Lá vằng hiện nay còn lại rất ít vì rừng núi bị chất độc hóa học tàn phá nặng nề. Thêm nữa là nạn phá rừng vô tội vạ. Tuy nhiên, người dân quê tôi thấy tác dụng của cây lá vằng là rất to lớn nên đã canh tác chuyên vùng cây lá vằng. Ở thành phố Đông Hà có một công ty mang tên là Công ty TNHH LAVA, địa chỉ tại 21 Nguyễn Thiện Thuật, phường Đông Lương chuyên sản xuất cao chè vằng và chè vằng túi lọc. Thành phần gồm 100% được chiết xuất từ thân cây “vằng sẻ”, không có phụ gia. Cao chè vằng kích thích tuyến sữa, giúp sản phụ có nhiều sữa đồng thời giảm cân cho sản phụ giảm cân sau khi sinh. Ngoài ra, cây lá vằng còn có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát gan, ngăn ngừa mụn nhọt, tốt cho người béo phì, gan nhiễm mỡ, máu nhiễm mỡ; hỗ trợ điều trị bệnh nhân tiểu đường, trị chứng mất ngủ, hết mệt mỏi do giấc ngủ không trọn vẹn.

 Các thứ lá “mùng 5”này đem về thái nhỏ, phơi khô rồi dùng làm thức uống cho cả nhà.

Tôi được Ông ngoại rất thương nên thường cho tôi đi theo vào độộng để hái thuốc. Ông cũng chỉ dẫn rất tỷ mỷ các loại cây rừng để dùng làm thuốc chữa bệnh. Trong nương của Ông bà ngoại có những cây mang tên thường dùng như trái bồ quân xanh thì gọi là thanh tra, vỏ quýt thì gọi là trần bì…Những cây thuốc như tôi đã trình bày phần trên là tôi học được từ Ông ngoại. Ông còn giảng giải cho tôi biết vì sao có ngày gọi là tết Đoan Ngọ. Ông dạy rằng: Đoan nghĩa là mở đầu. Ngọ là giờ Ngọ (theo lịch Tàu – đêm có 5 canh, ngày có 6 khắc) thì giờ Ngọ ứng vào thời gian từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều. Đoan Ngọ là lúc mặt trời bắt đầu ngắn nhất, ở gần trời đất nhất, trùng với ngày hạ chí. Theo triết lý y học phương Đông thì hỏa khí thuộc “dương” của vũ trụ và trong cơ thể con người ở ngày này cũng lên đến tột bậc nên Tết Đoan Ngọ còn có tên là Tết Đoan Dương.

Lúc đầu, Đoan Ngọ chỉ là ngày dân chúng cúng lễ để đánh dấu một thời tiết mới, mừng sự trong sáng quang đãng. Vào hạ, trời thường oi bức, thường xuất hiện nhiều bệnh tật nên cúng bái để cầu yên, tránh mọi bệnh tật thời khí. Sau này, khi văn hóa giao lưu giữa ta và Tàu thêm sâu sắc thì Tết Đoan Ngọ lại thêm một ý nghĩa mới. Đó là ngày Khuất Nguyên, tự là Bình – một vị trung thần đã được Sở Hoài Vương phong đến chức Tả đồ và Tam lư đại phu và là một nhà văn hóa, nhà thơ vĩ đại đã bị gian thần hãm hại, bị nhà vua ruồng bỏ, thậm chí còn bị bắt đi đày (gần 20 năm). Khuất Nguyên đã làm ra Ly Tao nổi tiếng. Ly Tao là một bài phú trữ tình, lãng mạn, tự thuật đầu tiên và lớn nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ly Tao nguyên là một điệu dân ca nước Sở, thích hợp với việc thể hiện những nỗi uất ức, bất bình. Khuất Nguyên đã dùng Ly Tao làm đề để trữ phát những nỗi đau buồn day dứt uất kết trong lòng khi bị Sở Hoài Vương đày ải. Và kết cục thật bi thảm, ngày mùng 5 tháng 5 ông đã trầm mình xuống dòng Mịch La.

 Ôi thân phận của một cô thần! Thương thay một tài thơ vĩ đại đã chết một cách oan uổng!

                                                     ***

 

 

 

 

 

 

 

 

          Câu chuyện thứ 2. - Mạ tôi trở thành góa phụ lúc 32 tuổi đầu!

 

Tin đau đớn đối với mấy mẹ con tôi là khoảng tháng 11 năm 1948, có tin báo Ba tôi đã chết. Còn chết như thế nào thì không được nói rõ. Trong khi đó Mạ tôi chuẩn bị sinh đôi. Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Vô Danh (chết trong bụng mẹ). Như vậy Kim Cúc khi sinh ra không được nhìn thấy mặt cha! Có đau buồn nào hơn đau buồn này chăng?

 Như thế, Mạ tôi trở thành góa phụ khi tuổi đời mới trên ba mươi. Còn chúng tôi trở thành những đứa trẻ bồ côi cha!  Một mình Mạ tôi lam lũ làm thuê làm mướn nuôi 5 anh em chúng tôi. Cuộc sống vô cùng chật vật khó khăn. Còn đâu những ngày tháng sống trong nhung lụa ở đất Thần kinh Huế!

Sinh thời, trong những năm kháng chiến chống Pháp, không bao giờ Mạ tôi khóc vì thương nhớ Ba tôi trước mặt các con. Chỉ khi đêm về, Mạ tôi ngồi lặng lẽ khóc thầm bên bếp lửa. Lúc này tôi đã 13 tuổi, đã biết suy nghĩ về vai trò người con lớn trong gia đình. Tôi muốn giúp Mạ tôi một công việc gì đó để đỡ vất vả vật lộn với cuộc sống hàng ngày. Tôi xin Mạ tôi đi ở đợ! Câu ca:

 

                              “Còn cha gót đỏ như son

                                Mất cha gót mẹ gót con đen sì”.

                               Là như vậy đó!

 

               Những kỷ niệm không phai mờ của tôi đối với Mạ tôi .

 

  Kỷ niệm 1.Mạ tôi tham gia kháng chiến chống Pháp

 

 Nói “Thời 9 năm” là để nói về cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, bắt đầu từ cái mốc Nam Bộ kháng chiến - ngày 23 tháng 9 năm 1945 - cho đến khi ký kết Hiệp nghị Genève, ngày 20 tháng 7 năm 1954.

Trong những năm chiến tranh chống Pháp, Mạ tôi đã tham gia kháng chiến tích cực: đi dân công tải lương, tải đạn, phá đường, rào làng chiến đấu, tham gia Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Mẹ  và Chị Chiến sĩ. Mạ tôi đã được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba. Đây là một vinh dự lớn cho gia đình chúng tôi.

 

                                                  ***

         

Quê Mạ Phường Sãi của Mạ tôi được mệnh danh là vùng tiền chiến khu Ba Lòng, cũng có tên gọi là miền duyên sơn, chỉ nằm cách Quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt không đầy 5 cây số. Chỉ cần đi bộ khoảng một giờ đồng hồ thì đến thị xã Quảng Trị. Mặc dù là một miền quê nhưng người dân ở đây tiếp thụ được ánh sáng văn hóa đô thị khá đậm nét. Những đứa học trò sau khi học hết lớp Sơ đẳng (cours élémentaire) trường làng thì học tiếp lên lớp trên phải về học tại thị xã. Thị xã Quảng Trị ngoài trường công còn có một ngôi trường tư thục của ông đốc tờ Phan Văn Hy. Trường mang tên là Kỉnh Chỉ, bút danh của thầy thuốc kiêm nhà thơ Phan Văn Hy.

Những người nông dân muốn bán nông sản mình làm ra cũng phải gánh gồng về chợ tỉnh để bán. Những vật dụng hàng ngày, những nhu yếu phẩm cho cuộc sống đều phải mua ở chợ thị xã Quảng Trị. Từng đoàn người gồng gánh vật phẩm ra đi từ tờ mờ sáng cho tới gần trưa mới về nhà. Cứ tưởng cuộc sống êm ả trôi qua tháng ngày của vùng quê thanh bình. Nhưng than ôi! Bọn giặc Pháp đang quay trở lại. Không thể làm kiếp người nô lệ lần thứ hai!

Gia đình ba mạ tôi gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống khi rời Huế về Quảng Trị. Lương hưu của Ba tôi bị cắt từ hôm Nhật đảo chính Pháp. Mạ tôi đã xa rời cuộc sống nông thôn trên 10 năm, một nách bốn đứa con dại. Đồng bằng Triệu Phong là một vùng thuần nông. Làng Đại Hào quê nội cũng đói nghèo như nhiều nơi khác trong tỉnh. Ba mạ tôi xin ông mệ nội được đem đàn con về quê ngoại Phường Sãi. Dù sao ở đây vẫn có nhiều đất đai chưa khai thác hết. Rừng rú, khe suối thì sẵn sản vật có thể nuôi sống con người.

Về quê ngoại vốn liếng của ba mạ tôi chỉ đủ mua bức nương của cậu Diêu Khuê mà thôi. Để làm được cái nhà tranh tre, ba mạ tôi phải tự đi vào Dốc Son cắt tranh về làm mái lợp. Tre thì đã có sẵn xung quanh nương mới mua. Bà con xúm lại giúp đỡ chỉ trong vòng tháng trời nhà đã dựng xong.    

 Tôi lại được cắp sách tới trường. Trường công chưa có thì học trường tư tại thôn Thượng Phước. Tôi vào học lớp nhì nhất niên (cours moyen un) do thầy Trần Đình Khác dạy. Tôi còn nhớ có một lần điểm danh, khi thầy gọi đến tên Nguyễn Xuân Bảo thì tôi đã quen lối xưng hô thời trước, buột miệng trả lời “présent” làm cho cả lớp cười ồ lên. Tôi lại quen miệng nói “Pardon! Pardon!” Cả lớp lại ồn lên. Thầy Khác lấy thước kẻ đập xuống mặt bàn và nói “Silence!” tức là im lặng. 

 Để kiếm sống ba tôi phải vào rú (độộng) đốn củi gánh về chợ tỉnh Quảng Trị bán. Hình ảnh người cha còng lưng gánh gánh củi sim (củi chặt ra từ những cây sim có độ dài không tới một mét, được bó lại bằng những sợi dây chìu và dùng đòn xóc nhọn hai đầu xỏ xuyên qua lưng chừng bó củi), gánh bộ từ Phường Sãi đến chợ tỉnh dài hơn 5 cây số còn đọng mãi trong tâm trí tôi. Đâu rồi những ngày tháng sống trong sự sung túc ở Huế? Đâu rồi một bước đi chỉ có lên xe xuống ngựa?! Mạ tôi bắt đầu trở lại với công việc ruộng nương. Bức nương của ba mạ tôi có các loại cây lưu niên như mít, bồ quân, dâu gia, chè, chanh, cam, quýt, bưởi, thơm. Những thứ trái cây này khi vào mùa thu hoạch mạ tôi hái đem về chợ tỉnh bán.

 Phía góc nương gần Khúc Mưng có một cây dầu lai cổ thụ, năm nào cũng ra rất nhiều trái. Trái cây dầu lai này khi chín thì bóc tách bỏ lớp vỏ ngoài, lấy hạt (nhân) dùng để làm món muối trộn thay muối mè (vừng) hay muối đậu phụng (lạc) ăn với cơm hàng ngày. Chung quanh ba phía là lũy tre. Giữa nương có chừng hơn hai sào đất trống, Mạ tôi đã xuống giống trống khoai lang, môn và sắn. Gần nhà thì dựng mấy cây tre làm giàn trồng bầu, bí, mướp theo mùa nào thức ấy.

Tối đến Mạ tôi đi soi cá. Đuốc đốt lên không cháy thành lửa ngọn mà chỉ đỏ lửa than. Những bầy tép đi thành đàn cặp mép sông, bơi ngược dòng. Nước chảy xuôi nhưng tôm tép thì bơi ngược. Ngồi sáng đêm mạ tôi xúc được bộn tép, có khi được cả thúng. Ngoài số tép dùng cho các bữa ăn, số còn lại mạ tôi muối làm mắm để ăn dần. Dì Mão đã bắc sẵn lên bếp một nồi cháo gạo ít khoai nhiều. Dì xuống bến đến chỗ mạ đang xúc tép và lấy một mớ tép. Dì vợt những con tép đang nhảy tưng tưng trên mặt thúng cho vào thúng nhỏ đem lên, chỉ dội lại một lần nước và cho vào nồi cháo, chỉ cần nêm thêm vài muỗng muối là có món cháo rất ngọt ngon. Tôi múc một đọi to mang xuống bến cho mạ. Nhìn mạ sùm sụp trong chiếc áo tơi rách với cái nón mê trên đầu mải mê vợt tép để nuôi đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn, trong khi ba tôi còn đi chiến đấu bảo vệ quê hương. Tôi thấy thương mạ vô ngần!

Trừ những khi có lụt, còn lại là những đêm trời trong, mạ thường đi soi cá. Soi cá cũng dùng đuốc bằng cây sậy hoặc cây hóp chẻ nhỏ, phơi khô bó thành từng bó bằng cái cột nhà tre, dài chừng 2 mét. Tối đến đuốc được đốt ở bến nước, rồi lội xuống mép sông, một tay giữ cây đuốc trên vai, một tay cầm cái nơm, khi thấy cá đóng đèn, tức là đóng ánh sáng đuốc. Chúng đứng im một chỗ thì dùng nơm úp lên con cá, bó đuốc tạm thời bỏ lên bờ, thò tay vào nơm bắt cá, thường là loại cá chép, cá trôi, cá mè…có con nặng cả ký lô. Khi không dùng nơm thì dùng dao thái chuối, thấy cá đóng đèn thì lấy dao chém. Có con bị chém dứt làm đôi. Đi soi cá thường đi vào đầu hôm, cháy hết hai cây đuốc thì về nhà. Số cá thu được cũng kha khá, chừng vài ba ký, đủ dùng cho vài ngày.

 

 

       Kỷ niệm 2. Tình trạng bi đát của gia đình tôi

.

 Tôi chép ra đây một đoạn trong Chúc thư của Mạ tôi viết ngày 2 tháng 2 năm 2004, khi Mạ tôi đã 89 tuổi để nói lên tình trạng bi đát của gia đình tôi lúc bấy giờ. Mạ tôi đã viết như sau:

 

“…Mạ nói cho các con biết: Lúc ông bà ngoại còn sống, ông bà đã cho ba mạ 2 mẫu ruộng, 5 sào đất vườn. Ông nói: Cha mẹ cho hai con chừng đó, đừng có tửu điếm trà đình, lo làm lo ăn. Cho các cháu học hành tới nơi tới chốn. Nay mai ba nó hưu trí về phụ thêm làm ăn, không đại gia chứ cũng tiểu phú, con không lo cực đâu, bổn mạng con tốt lắm!

 

 “Các con ơi, thân má khổ lắm, ông bà ngoại mất rồi, ba đi công tác không thấy về, một mình má ôm đàn con dại biết cậy nhờ ai đây, nghĩ mình như chàng Thúc bó tay… tứ cố vô thân, biết nhờ ai đây? Má như cờ túng nước. Thôi, mai đi tìm việc làm đã. Mới nói thì cậu Diêu (tức ông Nguyễn Văn Xuân) ra nói: O còn nhớ cấy lúa không? – Còn nhớ chứ, cơm ăn bữa mà không nhớ sao được. – Mai vô sớm nghe! Má hỏi: Cấy ở đâu anh? Anh nói: Phúc Trèn. Các con ơi! Má gánh một gánh mạ, chân không có dép, bước lên sỏi đá chông gai. Lên tới đồng ruộng, má bước chân xuống bùn lầy, giá lạnh. Phúc Trèn hiu hắt đưa vào lòng má quá chua cay. Nước mắt, nước mưa trộn một, má tính bỏ ra về. Mà một mặt thì sợ cọp, một mặt sợ tối về không có chi cho các con ăn nên má cố làm cho tối ngày. Lúc về tới nhà thì đàn con đứa ngủ, đứa đang khóc, đứa thì trông mẹ về…”

 

 Ngày 27/3/1973, Hiệp định Paris,đình chiến,  tôi về Quảng Trị tìm về quê nội Đại Hào và quê ngoại Phường Sãi. Được biết, Mạ tôi và các em đã bị ông Thiệu xúc tát vào miền Nam hồi “mùa hè đỏ lửa – trên đại lộ kinh hoàng năm 1972”.

 Mãi tới giữa tháng 5/1975 tôi mới được gặp laị Mạ tôi ở ấp 3 xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh ĐồngNai.

 Tôi bàn với nhà tôi là cả hai cùng về công tác tại Đồng Nai để được gần gũi Mạ tôi và các em.

 

Trong những năm tháng này, tôi đã làm được một số việc. Đó là việc xây lăng gia đình ở quê nội; làm bộ phim Bài thơ về Mẹ và đi tìm mộ cha tôi.

 Lăng đã xây xong năm 1993, quy tập hài cốt của tứ đại gia đình từ ông bà cố, ông mệ nội tôi, cha tôi, chú ruột Nguyễn Xuân Tịch, o ruột tôi Nguyễn Thị Nghiễn và em ruột Nguyễn Xuân Lộc, em ruột Nguyễn Vô Danh.

 Và cũng đã viết một cuốn sách kể lại quá trình “Đi tìm mộ Cha”.

 

 Tôi viết cái Bút ký này là theo ước nguyện của Mạ tôi lúc sinh thời. Mạ tôi luôn đau đáu với niềm tin là trước sau cũng tìm thấy mộ phần của Ba tôi. Khi đưa được Ba tôi về quê nhà thì Mạ tôi không ra Quảng Trị kịp vì trắc trở tàu xe để nhìn thấy Ba tôi, dù chỉ là một nắm tro bụi thời gian. Mạ tôi có trách tôi thì tôi xin chịu tội. Theo tục lệ xưa nay vì không được phép để hài cốt Ba tôi ở lại trên trần gian.

 

Trong đoạn kết của bút ký Đi tìm mộ Cha, tôi đã viết:

 

               Kính thưa hương hồn Mạ!

     Như vậy là con đã hoàn thành sứ mệnh Mạ giao cho: Đưa được Ba con về với quê hương bản quán; được sum vầy cùng những người thân quá cố trong Lăng gia đình; thỏa mãn được lòng mong đợi tiếc thương người chồng vô cùng kính yêu của Mạ; thỏa lòng chúng con khỏi băn khoăn áy náy bấy lâu nay!

     Nhân đây, thay mặt gia đình tôi tỏ lòng biết ơn thầy Nguyễn Bá Khai, người đã giúp chúng tôi tìm ra mộ Ba tôi; cảm ơn chính quyền thôn Minh Cầm; cảm ơn gia đình ông Trần Bá Ban; cảm ơn họ hàng thân bằng quyến thuộc và bè bạn đã đến dự Lễ Tưởng niệm Ba tôi!

     Tôi cũng xin thành thật hoan nghênh Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người (UIA) được thành lập và đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Trung ương Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, đã giúp nhiều nhà ngoại cảm tìm ra mộ liệt sĩ đã ngả xuống vì nước Việt thân yêu!

 

 

     Bên bờ Phước Long Giang, ngày 16/6/2021, nhằm ngày mùng 7 tháng 5 năm Tân Sửu

                                    Nhà thơ Xuân Bảo,

 

________________________________________

    

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 3. -Tôi đi ở chăn trâu cho anh chị Lê Yên.

 

       Mạ tôi đã đồng ý cho tôi đi ở đợ (tức là đi làm thuê dài ngày). Trước đó, Mạ tôi đã đến gặp anh chị Lê Yên. Vợ anh Lê Yên là chị Trần Thị Cúc, con gái Ôông Mụ Giáo Trở - người mà bị mấy ông cốt cán của làng đem ra đấu tố trong thời kỳ đầu cải cách ruộng đất (1953). Thời kỳ này mới chỉ có “giảm tô, giảm tức”. Bạn tôi, Trần Đức Long đã có bài viết rõ việc đấu tố địa chủ này. Tôi đưa bài này vào Câu chuyện làng quê, câu chuyện thứ 19 trong sách này.

       Đá Đứng là một bán đảo rất đẹp của dòng Thạch Hãn. Con sông này đang chảy một dòng thẳng từ Trấm về xuôi thì bị các dãy đá hàn chắn lối, buộc chảy vòng sang hữu ngạn rồi uốn trở lại ở đầu dốc Cơn Thang một khúc chừng vài trăm mét. Hình thành một vòng cung tròn như cái đit thúng khổng lồ, đất ven bờ rất tốt.

      Đá Đứng sau này là nơi chặn dòng, làm đập tràn, xây dựng công trình Thủy lợi Nam Thạch Hãn. Có nhiều người gọi Đập Trấm là không đúng!

       Đá Đứng, cũng thuộc địa bộ làng Thượng Phước -  nơi nhiều nhà giàu trong làng lên khai phá đất đai làm vườn tược, trồng nhiều cây ăn trái lưu niên, thành những bức nương rất to và đẹp. Và có nhiều nhà ngói như nhà cụ Cửu Trần Đức Hạp. Cụ Hạp có mấy người con tham gia Việt Minh như nhà báo Trần Đức Lương, đại tá Trần Đức Duệ, viện trưởng Viện Nước , Bộ Thủy lợi Trần Khâm...

        Gia đình anh Lê Yên có một ngôi nhà ngói to ở tại phường này. Anh cũng đã từng đi thoát ly, tham gia kháng chiến và không hiểu tại sao anh bị giản chính biên chế, trở lại làm dân? Vì thành phần chăng, tôi không rõ lắm.

        Anh chị Lê Yên đồng ý cho tôi “ở đợ” với công việc thường nhật là chăn trâu. Anh chị có một con trâu đực, tên là Chảng dùng để cày bừa trong những ngày mùa. Ngoài ra, có thể giúp làm những việc lặt vặt trong nhà như bế em,gánh nước, làm cỏ, có lúc gánh cá giúp chị Cúc đi bán ở chợ Phong An.

        Anh chị nói với Mạ tôi rằng: Tiền công trả cho tôi một năm là một lương (đơn vị đo lường ở quê lúc bấy giờ) lúa bằng sáu thúng; hai bộ áo quần cộc bằng vải to*; ăn ở tại nhà anh chị.

        Cuộc đời tôi bước sang trang mới: xa Mạ và các em lúc tôi 15 tuổi.

        Sáng ra, tôi trèo lên lưng con Chảng, đưa nó vào ăn cỏ ở cánh đồng La Nghìn. Bất giác, tôi nhớ đến bài tập đọc Chăn trâu trong sách Quốc văn giáo khoa thư, lớp Đồng ấu, hồi ở Huế.

 

     Ai bảo chăn trâu là khổ?

     Chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ.

        Trong khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!

 

        Tôi vẫn mặc bộ áo quần cộc bằng vải to mà Mạ tôi đã mua ở chợ tỉnh Quảng Trị. Cái nón lá đã rách đến vành thứ ba. Chân vẫn mang đôi dép mo cau đã sờn rách. Tôi được chị Cúc bới cho một mo cơm độn sắn và một gói muối mè để ăn bữa trưa.  Chị dặn: mi nhớ mót ít củi sim về nấu nướng nghe!

Tôi chỉ dám đưa con Chảng ăn loanh quanh ở La Nghìn, Độộng Ôi, không dám đưa vào Phúc Trèn, nơi có rất nhiều cỏ, vì sợ cọp bắt!

     Trời chạng vạng tối, tôi cưỡi trâu về. Vắt ngang lưng con Chảng là hai bó củi, buộc lại với nhau bằng những sợi dây chìu.

     Cho trâu vào ràn xong, tôi xuống sông tắm táp. Và bữa cơm tối, tôi ngồi cùng ăn với o Bứa (người ở giữ con) cho anh chị. Ngày lại qua ngày, cuộc đời đi ở của tôi trôi đi đều đều như vậy.

       Cho tới một ngày, anh chị Lê Yên bán con Chảng đi. Và tôi, “thất nghiệp”! Giờ thì tôi được làm anh đầy tớ thực thụ. Chị Cúc làm thêm nghề bán cá. Cá sông Thạch Hãn rất nhiều, được hai vạn nốốc ôông Yên, ôông Dĩ đánh bắt bán cho chị Cúc. Chị bảo: Mi sẽ cùng tau sương cá đi chợ Phong An. (Chợ Phong An, cách Đá Đứng khoảng 4, 5 cây số.) Hồi mới, cách mệnh mùa thu, các xã mới được đặt tên mới. Thượng Phước, An Đôn, Nhan Biều có tên xã là Phong Sơn. Các làng phía trên Ái Tử có tên xã Phong An…

     Thời điểm cuối năm 1951, cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển từ “ phòng ngự” sang ‘ chuẩn bị tổng phản công”.Mạ tôi lên Đá Đứng xin cho tôi được về nhà để đi học.

     Anh chị Lê Yên – Trần Thị Cúc đồng ý.

    

      Thế là, tôi được về với Mạ và các em, sau hai năm đi ở. Tình hình Thượng Phước chưa bao giờ vui như hôm nay.Các cơ quan Tỉnh Đội bộ, Ty Thông tin – Tuyên truyền, Ty Bình dân học vụ, Đoàn Thanh niên Cứu quốc… lần lượt về đóng ở Thượng Phước.

     Tôi lại được cắp sách tới trường với suất học bổng 27 ký lúa.Tôi và Trần Đúc Long thay nhau chiếm ngội vị nhất nhì lớp. Tổ học sinh Thượng Phước chúng tôi đã có nhiểu thành tích tham gia kháng chiến.

     Tôi còn nhiều kỷ niệm với thời gian này. Xin khất bạn đọc sẽ viết tiếp vào thời gian sau.

 

 

Câu chuyện thứ 4. - Ba tôi tham gia Vệ Quốc Đoàn

 

Hồi ức của Xuân Bảo

Tôi không rõ Cha tôi được sinh ra ngày tháng nào. Khi tôi có trí khôn thì Mạ cho biết Cha tôi sinh năm Mậu Thân (1908). Quê tôi là làng Đại Hào, tổng An Cư, phủ Đăng Xương, sau này đổi thành phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Dân Quảng Trị sớm hình thành bởi hai lần đại di dân. Lần thứ nhất là vào khoảng thế kỷ 14, khi Huyền Trân công chúa trở thành Hoàng hậu Paramecvari – vợ vua Jaya Shimhavarman III – tức vua Chế Mân. Dân Châu Ái, Châu Hoan đưa nhau vào khai khẩn miền đất mới với tên cũ là Châu Ô, Châu Lý (Rý), vốn là đất sính lễ của Chiêm quốc. Lần thứ hai, cũng không kém phần ồ ạt hơn. Đó là vào năm 1558 Chúa Nguyễn Hoàng sợ anh rể Trịnh Kiểm sát hại nên đã nói với chị Ngọc Bảo cho mình vào trấn thủ đất Thuận Quảng.

 Ngoài binh mã bản bộ thuộc Gia Miêu ngoại trang, quê Chúa Nguyễn thì có thêm hàng vạn hộ  dân Thanh Hóa theo vào. Khi Nguyễn Hoàng vào tạm dựng Đại bản doanh tại làng Ái Tử, còn gọi là Dinh Cát. Dân bản xứ đã mang dâng Chúa 7 chum nước đầy để tỏ lòng quy phục.

Tính theo thời gian mà Phả ký Tộc Nguyễn Ngọc có hiện tại thì dòng họ này đến hiện nay là 16 đời, tương ứng với thời điểm Chúa Tiên vào đây. Làng Đại Hào có họ Nguyễn 8 phái mà phái Nguyễn Ngọc của tôi là lớn nhất. Chi của Cha tôi có nhiều người đỗ đạt.

 

Cha tôi là con  đầu. Học hết bậc tiểu học ở Trường Tiểu học Triệu Phong. Thời gian này ở tỉnh Quảng Trị chỉ có 3 trường : Trường tỉnh, trường Triệu Phong và trường Cam Lộ. Còn nếu học tiếp lên bậc Thành chung thì phải vào Huế.

Cha tôi  thi xong được cấp bằng Certificat d’ Études Primaire và ít lâu sau đó ông  đăng lính vào 5è Brigade ( Lữ đoàn thứ năm của quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương). Hồi đó thường gọi sắc lính này là lính khố đỏ. Đây là đội quân chủ lực do người Pháp chỉ huy và điều động. Bên Nam triều có hai sắc lính khác. Đó là lính khố xanh mà tỉnh nào cũng có (trừ Nam kỳ) do quan Lãnh binh người Việt chỉ huy. Phủ Tôn nhơn thì có lính khố vàng chỉ phục vụ cho nội bộ Triều đình. Sở dĩ gọi khố đỏ, khố xanh, khố vàng là mỗi sắc lính đều có trang phục khác nhau. Người dân chỉ phân biệt khi các anh lính đi ra đường có quấn cái xà cạp có màu khác nhau ấy.

Quân đội Pháp đóng ở Huế.  Cha tôi  ở Tiểu đoàn cơ động nên ông đã được điều đi đánh Xiêm La do chúng quấy rối ở biên giới Cao Mên – Xiêm. Lúc bấy giờ 3 nước Việt Mên Lào đã bị thực dân Pháp thôn tính, được gọi chung là xứ Đông Pháp ( Indochine Francaise ). Không biết ông có bắn được thằng Xiêm nào không mà về đến Huế được Chính phủ Pháp tặng thưởng Huân chương Chiến tranh ( médaille de la guère ). Tiếp theo đó, chẳng biết có quan hệ gì với chính quyền Trung Hoa, lúc này nhà Mãn Thanh đã sụp đổ,= chính phủ Trung Hoa Dân quốc do Đại thống chế Tôn Trung Sơn nắm quyền bính - mà tiểu đoàn này được điều sang Côn Minh .

Năm 1933, đây là thời điểm Cha tôi làm 2 bài thơ tặng Mạ tôi dù chưa làm lễ cưới. (hai bài thơ sẽ đăng phần cuối bài này). Nhờ có biết tiếng Pháp nên Cha tôi được điều về làm văn phòng tại cơ quan  tham mưu (État Major) của Lữ đoàn đóng tại nội thành Huế, phần đất Nam triều cắt nhượng cho Pháp theo Hiệp ước Patenôtre ký năm 1884. Các cơ quan chỉ huy của Lữ đoàn và các đơn vị lính đều đóng phía trong thành.

 Ngoài thành, đồn Mang Cá lớn chỉ có một Camp mariée, thường được gọi là Trại con gái, nhưng thực chất là một khu gia binh, dùng làm nơi ở cho vợ con binh lính. niệm ấu thơ thì còn nhiều, tôi xin trở lại bài viết về hai bài thơ của Ba tôi.

Bài thứ nhất, Ba tôi viết trước khi ông đi Côn Minh, Trung Quốc có nhan đề là Liệu còn gặp gỡ.  Cuộc đời người lính ra sa trường sống chết trong gang tấc, nên Ba tôi viết bài thơ này, nếu trở về trùng phùng tái hợp thì tốt nhưng nếu có mệnh hệ nào thì mong cho Mạ tôi “gặp được chốn lửa hương”. Bài thơ như sau:

 

Lênh đênh anh tưởng là điều trân trọng

Ai hay chạnh nỗi niềm đôi ngả quan san

Lúc ra đi mỗi bước một ngừng

Con tàu chạy mỗi ga mỗi khuất

Mắt trông về Bến Sãi,(1) gan vàng thổn thức

Nhìn Chợ Hàn (2), lệ ngọc chứa chan

Gẫm tơ trời lắm nỗi đa đoan

Trách máy Tạo sớm đem đường thay đổi

Xưa những ước Thôi Trương (3) kỳ ngộ

Trước gió trăng sau lại đá vàng

Ai ngờ Ngưu Nữ đôi đàng (4)

Chưa sum họp vội vàng cách trở

Thôi thôi em đừng than đừng thở

 

Thôi thôi em đừng tưởng đừng trông

Xưa Mạnh Lệ Quân ở chốn không phòng

Cũng có khi Tương Như hội ngộ

Chị Thúy Kiều ghe phen tân khổ

Cũng có lúc Kim Trọng tái phùng

Huống chi em chút phận má hồng

Bền giữ dạ ắt Hoàng thiên nào phụ

Anh nguyện cùng Ngọc Hoàng Thiên Địa

Sớm cho em gặp được chốn lửa hương

Còn như anh gánh gãy giữa đường

Liệu cùng em còn có ngày gặp gỡ?

                                         Nguyễn Xuân Tập

                                                  1933

__________

_(1)  Chợ Sãi ở gần Thành Cổ Quảng Trị

  (2)  Chợ Hàn tức chợ ở thị xã Quảng Trị

  (3)  Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy, chuyện tình đẹp của Tàu.

  (4)  Tức Ngưu Lang và Chức Nữ

 

Bài thơ này được Mạ tôi đọc lại cho tôi ghi âm lúc 9 giờ ngày 18-6-1999 khi Mạ tôi đã 84 tuổi. Nhưng đầu óc và tinh thần của Bà vẫn còn minh mẫn.

Và đây là bài thơ thứ hai, theo thể thơ Đường luật, Mạ tôi không nhớ tựa đề. Mãi mấy năm sau, khi đã cận kề cái tuổi gần đất xa trời, khi chúng tôi làm Lễ mừng đại thọ cho Bà thì Mạ tôi bỗng nhiên nhớ lại được và bảo tôi ghi lại. Đó là bài Nhắn nhủ cùng em:

 

Thung DUNG yên ngựa bước du xuân

Học TẬP đắc thành sách Thánh nhân

THUẬN nẻo đá nhào cơn bão tố            

 SÃI tay đánh bạt bước gian truân  

Hạ nhật duyên ưa chưa tính được        

Xuân xanh phận đẹp đã tới tuần        

Nhắn nhủ cùng em người tri kỷ     

Yêu nhau ta phải liệu cho xong

 

 Câu đầu, chữ thứ hai DUNG là tên Mạ tôi Nguyễn Thị Kim Dung. Câu thứ hai, chữ thứ hai TẬP là tên Ba tôi Nguyễn Xuân Tập. Chữ đầu câu thứ ba THUẬN là chợ Thuận, quê Ba tôi. Chữ đầu thứ tư SÃI là Chợ Sãi, đối diện làng Xuân Yên là quê Mạ tôi. Ngày xưa các Cụ thường ghép tên làng quê với tên mình, tên người yêu để làm những câu thơ tặng nhau, bày tỏ tình yêu lứa đôi nhưng không quên cội nguồn gốc gác của mình. Đó là một cử chỉ đẹp và lãng mạn. Bài thơ này tôi đã đưa vào bộ phim Bài thơ về Mẹ mà tác giả kịch bản và viết Lời bình là tôi, nhà thơ Xuân Bảo.

 

Năm 1934, Ông Mệ nội tôi làm lễ cưới cho Ba tôi. Trước đó, gia đình Ông Mệ tôi đã dạm ngõ một người con gái họ Phạm. Chẳng hiểu vì lý do gì mà sau khi Ba tôi ở Côn Minh về thì ông xin từ hôn và Ông Mệ tôi lại đi hỏi cưới Mạ tôi cho Ba tôi. Mệ ngoại tôi là người làng Đại Hào. Tôi nghe kể là đám cưới Ba Mạ tôi tổ chức đi rước dâu bằng thuyền. Đi từ con hói Chợ Thuận, ra sông Thạch Hãn rồi ngược lên Phường Sãi. Cả đoạn đường sông này dài gần hai chục cây số, đi về mất hẳn một ngày trời, kể cả thời gian làm lễ nghi đám cưới. Cưới xong Ba Mạ tôi vào Huế.

 

Hè năm 1944, Ba tôi mãn hạn lính, Ba Mạ tôi dắt díu đàn con về quê. Làng Đại Hào là một làng nằm ở đồng bằng Triệu Hải, người dân chủ yếu làm nông, song ruộng đất ít, người đông cho nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Ba Mạ tôi xin Ông Mệ nội về quê ngoại ở Phường Sãi, thuộc làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dù sao, nơi đây còn có nhiều đất đồi chưa khai phá hết.

Tiền hưu của Ba tôi bị mất do thực dân Pháp bị Nhật đảo chính ngày 9/3/1945. Tôi còn nhớ hình ảnh người cha còng lưng gánh gánh củi sim từ làng xuống chợ tỉnh bán để lấy tiền nuôi con. Đoạn đường này dài trên dưới 5 cây số!  Hình ảnh này tương phản với bức ảnh Ba tôi chụp chung với các sĩ quan État Major 5è Brigate ở Huế. Ba tôi mặc quân phục của quân đội viễn chinh Pháp với quân hàm Sergent chef, có ngù vai, có biểu trưng chữ V ở cầu vai và tay áo.

Tuy nhiên Ba tôi cũng đã được hưởng một lần tiên chỉ. Ba tôi được phong hàm lục phẩm thay cho người tiền nhiệm chỉ được phong là thất phẩm triều đình. Tôi còn nhớ cái Tết Ất Dậu (đầu năm 1945), sau khi Lễ tế Ngài Khai khẩn xong, thì Hội đồng làng Đại Hào đã cắt cái đầu bò và cho trai đinh khiêng về nhà Ông nội tôi ở xóm Đường quan. Đáng lẽ như những năm trước lộc tiên chỉ về thẳng đường từ miếu Ngài thẳng xuống xóm Chợ (thường gọi là chợ Thuận). Mấy người khiêng đầu bò đến đoạn cầu Đại Hào thì người chỉ huy hô “ tắc tắc” tức là rẽ phải để vào nhà Ông nội tôi. Tiên chỉ thì được đầu, còn thứ chỉ thì được noọng. Đó là lệ làng.

Sau cách mạng Tháng 8, Mạ tôi gom các thứ của thời thực dân, phong kiến như Thẻ ngà (dân thường gọi là Bài ngà) đi kèm với sắc phong Lục phẩm của triều đình Huế của Ba tôi; bằng Sơ học yếu lược của tôi và các bức ảnh có hình Ba tôi mặc quân phục Pháp đều được Mạ tôi đốt đi kẻo sợ Việt Minh!

 

Tôi còn nhớ những kỷ niệm thân thương về người cha của mình. Ông có dáng người cao lớn, khuôn mặt thông minh và nụ cười rạng rỡ. Hồi ở Huế, trong trang phục nhà binh trông ông oai vệ không kém những tên sĩ quan Pháp. Những ngày nghỉ, Ba tôi thường cho Mạ, tôi và các em đi thăm thú các danh lam thắng cảnh của cố đô. Gia đình tôi đi xem cinéma, xem hát ở rạp Tân Tân. Có những đêm trăng đẹp, Ba Mạ và tôi được lên đò nghe ca Huế. Tôi còn nhớ cho tới bây giờ các điệu Nam Ai, Nam Bằng. Có những câu nghe ai oán: “Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi?” Và những câu hò mái nhì nghe thống thiết làm sao! “Chiều chiều ra trước Phu Văn Lâu. Ai ngồi ai câu, ai sầu, ai thảm, ai cảm, ai nhớ, ai thương. Thuyền ai thấp thoáng bên sông. Giọng hò mái đẩy chạnh lòng nước non.” 

Ba tôi là một trong số cán bộ đại đội, tiểu đoàn vốn là cai, đội lính khố xanh, khố đỏ, có tinh thần yêu nước, tự nguyện tham gia vào Chi đội Giải phóng quân. Ngày 9 tháng 9 năm 1945, Chi đội chuyển đổi thành Chi đội Thiện Thuật. Theo Sắc lệnh số 71, ngày 22 tháng 5 năm 1946 của Chính phủ về tổ chức Quân đội Quốc gia Việt Nam, Chi đội Thiện Thuật đổi thành Trung đoàn 95. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn 13, 14 và 15 và 1 tiểu đoàn lính nữ. Song song với lực lượng chủ lực, tỉnh chú ý xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, gọi là Tỉnh đội Dân quân.    

 Tôi còn nhớ lúc 9 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, một cuộc mitting lớn được tổ chức trước cổng tòa công sứ Pháp (lúc này do bọn Nhật chiếm đóng). Và sau này là trụ sở của Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị. Thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa, ông Trần Hữu Dực trịnh trọng tuyên bố thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh, xóa bỏ chính quyền cũ. Sự thực thì cái gọi là “chính quyền bù nhìn” của thủ tướng Trần Trọng Kim đã tự xóa tên mình cũng trong ngày 23 tháng 8, chấm dứt Đế quốc Việt Nam, khởi đầu ngày 11 tháng 3 và kết thúc vào ngày 23 tháng 8 năm 1945, sau 5 tháng 6 ngày.

Trong ngày này (23-8-1945), Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị đã ra 2 Quân lệnh. Quân lệnh số 1 phát đi lúc 10 giờ sáng, có nội dung: “Tất cả lực lượng vũ trang chiếm đóng hoặc dự bị, kể cả lực lượng hỗn hợp giữ nguyên tại chỗ. Người và vũ khí không được thay đổi, di chuyển cho đến khi có lệnh mới”. Và sau 2 tiếng, tức lúc 12 giờ trưa, Quân lệnh số 2 đước phát đi với nội dung: “Mở cuộc đăng ký tuyển quân, cấp tốc thành lập Chi đội Giải phóng quân với tổng số 1.500 chiến sĩ, kể cả một số đơn vị trực thuộc như thông tin, quân y, quân nhu”.

Khởi nghĩa thành công không một tiếng súng!

 

  Ba tôi gia nhập quân đội. Buổi sơ khai này Quân đội nhân dân Việt Nam có rất nhiều tên gọi: Giải phóng quân, Vệ quốc quân, Vệ quốc đoàn. Đầu năm 1946, Ba tôi được cử về xã Phong Sơn (xã này lúc đầu có tên là Công Ái), với chức danh là Phái viên Quân sự, có nhiệm vụ trực tiếp huấn luyện quân sự cho dân quân và du kích. Tôi thường được ông cho đi theo vào bãi tập, sau mới gọi là thao trường tại nương mít Mụ Hểu. Đây là một cái trảng rất rộng, bằng phẳng. Các làng, sau này mới đổi thành thôn của xã. Mỗi thôn thành lập 1 trung đội dân quân, có cả chiến sĩ gái. Chương trình huấn luyện bắt đầu từ các động tác tập họp đội hình, nghiêm nghỉ, bước đi một hai, một hai rồi tiến tới lăn lê bò toài. Súng chỉ có hai khẩu: súng trường mút-cờ-tông (mousqueton) và một khẩu tiểu liên mi-tờ-ray-dét (mitraillette). Dân quân được trang bị quần áo bằng vải to, một loại vải do người nông dân quê tôi tự trồng lấy cây bông vải, tự kéo thành sợi và dệt trên khung cửi thủ công. Chị Thản tôi là người phụ nữ đầu tiên mặc bộ đồ quân sự cũa người lính Giải phóng quân. Chị mặc áo sơ-mi ngắn tay, hai túi trên có nắp, có cầu vai và quần soóc toàn màu trắng, trông rất đẹp. Vì không có đủ súng nên phải đẽo cây theo hình dạng khẩu súng để tập động tác bồng súng lên và bỏ súng xuống. Có những buổi tối, tôi thấy Ba tôi ngồi giữa sân của ông ngoại, trước mặt là một cái nống. Ông tháo rời khẩu súng trường ra và giảng giải cho dân quân nghe: đây là cái cơ bẫm, đây là nòng, đây là đầu ruồi…Ba tôi có một giọng nói rất âm vang, hùng hồn và hấp dẫn. Trong những cuộc mit-ting, Ba tôi ngoài việc điều khiển hành lễ, ông còn được phân công đọc các bài văn tế làm sục sôi ý chí chiến đấu cho mọi người. Tôi còn nhớ được mấy câu:

 

“Hỡi ôi!

Hoàng Thiên chốn thấu thương lũ xâm lăng

Tạo hóa vô tình ghét người chí sĩ

Đoàn dân tộc ra tay gầy dựng, đem lòng thân ái nâng niu

Lũ dã man lên mặt hung tàn, một phút anh em ly dị

Bâng khuâng kẻ mất người còn

Tưởng tượng lòng ghi nghĩa để…”

 

 Không rõ bài văn tế này tác giả là ai? Và tế liệt sĩ trận nào, nơi nào? Tôi đã tìm đọc lại rất nhiều bài văn tế trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta, nhưng không tìm thấy! Hay đây tác giả chính là Ba tôi? Vì Ba tôi cũng đã có sáng tác những bài thơ trước đó và cả thời kỳ này. Năm 1933, Ba tôi có làm mấy bài thơ gửi cho Mạ tôi, thời chưa cưới. Tôi nghĩ là có thể của Ba tôi sáng tác???

 Những ngày tháng 10 năm 2014, khi tôi lục lại những cuốn sách viết về cách mạng và kháng chiến để có tư liệu tham gia Trại Sáng tác thì may mắn làm sao tôi tìm thấy trong cuốn Hợp tuyển Thơ Văn Cách mạng (1930 – 1945) do nhóm Hoàng Dung, Huỳnh Lý và Nguyễn Đăng Mạnh biên soạn, nhà Xuất bản Văn học in năm 1980, có bài Văn tế Nghĩa quân Xô viết Nghệ Tĩnh do tác giả khuyết danh  đã đăng trên báo Văn học số 167 tháng 10 năm 1961.

 

Toàn văn như sau:

 

Than ôi,

Thời cơ chưa đến, còn lũ xâm lăng;

Sự nghiệp chưa thành, lụy người chiến sĩ.

Toàn dân tộc ra tay gây dựng, đồng lòng thân ái nâng niu;

Bọn sói lang lên mặt hung đồ, tàn sát nào đâu có kể.

Than ôi, kẻ mất người còn;

Tưởng tượng lòng ghi nghĩa để

.    Nhớ anh em xưa:

Mày râu tai mặt, đứng bậc nam nhi;

Can đảm tinh thần, nức danh chiến sĩ.

Lòng hăng hái theo anh theo chị, nào con thơ, nào vợ dại, mặc gia đình, mặc quách chuyện riêng tây;

Chí hy sinh vì nước vì nhà, dù đạn lạc, dù bom rơi, liều tính mạng, quản chi đời dâu bể.

         Anh em ơi!

Súng bắn chẳng cần.

Bom rơi mặc kệ.

Dồn chân bước lên đường nghĩa vụ, cờ chỉ huy phất đội tiền phong;

Vỗ tay reo nức cuộc biểu tình, còi tự vệ dội ra bốn phía.

Đoái lại cơ đồ tan tác, vì non sông, vì xã hội, tấm can trường đòi đoạn sục sôi;

Trông ra bờ cõi điêu tàn, nào dân tộc, nào đồng bào, giọt nước mắt hai hàng chan chứa.

Căm cho lũ quan trường độc ác, cậy thế con dòng cháu giống, bán giang san mà sướng thê nhi;

Dơ mặt phường Pháp quốc dã man, mượn lời bảo hộ cải lương, thu đất nước vào vòng chuyên chế.

Thành cao, lũy rộng, mặc sức hùm;

Gác tía, lầu son, dơ mặt khỉ.

Thằng phủ, thằng tuần, thằng án, cậy quyền quan áp bức dân lành;

Dân cày, dân thợ, dân buôn, bán váy vợ đền bồi thuế lệ.

Máu lê dân hút đã khô khan;

Mủ trăm họ liếm vào sạch sẽ.

Nòi giống đó, lang hùm còn đó, người thác đi còn có bia danh;

Thời đại này, nghĩa vụ dường này, kẻ sống lại càng thêm phẫn chí.

Máu nhiệt thành sôi nổi, người Đàn Giang  là đội tiên phong;

Gương cảm tử soi chung, đất Nghệ Tĩnh là nơi chủ nghỉa.

Bây giờ:

Khắp cả huyện thành

Biểu tình làm lễ.

Hương một kiện khói lên nghi ngút, dưới cửu tuyền có thấu cho chăng?

Văn vài hàng đọc trước linh sàng, hồn thiên cổ có hay cho đó!

 

Bài văn tế này so với với Ba tôi đọc hồi đó có vài chỗ dị biệt ở 4 câu đầu. Nhưng dầu sao có được bản gốc này tôi cho là điều may mắn đối với tôi, khỏi băn khoăn suy nghĩ.

.Vai trò đặc phái viên quân sự của Ba tôi chấm dứt khi tiếng súng quân Pháp bắt đầu tấn công nống chiếm Quảng Trị. Ba tôi trở lại Trung đoàn và ông được phân công làm Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn chủ lực của tỉnh. Chú ruột tôi, ông Nguyễn Xuân Tịch được bố trí làm quản trị trưởng tiểu đoàn 13 và o ruột tôi tên là Nguyễn Thị Nghiễn, bí danh là Thanh Tâm được điều về Ban Chính trị Trung đoàn 95. Chú Tịch của tôi hy sinh năm 1949 và được công nhận là liệt sĩ. O Nghiễn thì bị bệnh cảm nặng khi bơi qua sông tránh giặc và sau đó hy sinh.

 

Trong cuốn sách Đi tìm mộ Cha tôi đã nói rõ về cái sự mất tích trong chiến tranh chống Pháp của Ba tôi. Di hài của Ba tôi đã được đưa về an táng trong Lăng gia đình ở Đại Hào.Tôi xin trích một đoạn trong sách này.

 

VĂN ĐIẾU

Lễ Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập

Ngày 10 tháng 7 năm Nhâm Ngọ - 18/8/2002.

 

Sau 54 năm thất lạc, nay đã tìm thấy hài cốt của chồng, cha, ông chúng tôi là ông Nguyễn Xuân Tập, sinh năm 1908 (Mậu Thân). Quê quán: làng Đại Hào, tổng An Cư, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nay là thôn Đại Hào, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Đó là một hạnh phúc lớn của gia đình chúng tôi!

Tháng 8 năm 1945, ông Nguyễn Xuân Tập tham gia thành lập chính quyền tại phủ Triệu Phong. Ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công, ông gia nhập Vệ Quốc đoàn, vào Chi đội Nguyễn Thiện Thuật, tiền thân của Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 của Bình Trị Thiên. Ông đã kinh qua các chức vụ: Phái viên quân sự phụ trách huấn luyện dân quân du kích; tiểu đoàn trưởng; tổng đội ban trưởng và trưởng phòng quân nhu Trung đoàn.

Trong suốt những năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, nhất là từ năm 1948 đến ngày ký Hiệp định Genève (1954), gia đình chúng tôi không nhận được tin tức gì về ông. Chỉ biết rằng ông từ giã gia đình vào ngày 10/10/1948 (nhằm ngày 12 tháng 9 âm lịch).

 Sau này gia đình chúng tôi lấy ngày ra đi đó của ông làm ngày Kỵ (Giỗ). Cái chết của ông được coi là mất tích trong chiến tranh.

Nhiều năm qua, gia đình chúng tôi đã ra sức dò hỏi, tìm kiếm nhưng đều vô vọng!

Năm 2002 này gia đình chúng tôi may mắn được người mách bảo chỉ dẫn và tìm được mộ phần của ông và biết được một số thông tin về ông. Ông Nguyễn Xuân Tập đã từng đóng quân ở huyện Tuyên Hóa. Ông bị bệnh mà chết và được đồng đội chôn cất tại thôn Minh Cầm Ngoại, xã Phong Hóa, tỉnh Quảng Bình.

Ngày 14 /8/2002, gia đình chúng tôi đã tổ chức di dời hài cốt ông về làng Đại Hào, cát táng trong lăng cùng những người thân quá cố.

Ngày 18/8/2002, gia đình chúng tôi mời chính quyền địa phương và bà con thân tộc nội ngoại và bạn bè gần xa đến dự lễ Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập tại nhà thờ tổ tiên, vốn là nơi đã sinh ra ông.

Trưởng nam Nguyễn Xuân Bảo - Kính cáo.

 

 Lời kết: Như vậy là Ba tôi đã sống trên cõi đời này đúng 40 năm. 1908 – 1948. Mạ tôi thì sống cùng chồng được 32 năm và về thế giới bên kia sau 93 năm 2 ngày (2/1916-28/2/2008).

Tôi viết để lưu lại cho con cháu biết về gia thế của chúng tôi.

 

Bên bờ Phước Long Giang, ngày rằm tháng 5 Tân Sửu nhằm ngày 24/6/2021.

Nhà thơ Xuân Bảo.

 

 

 

 

                                        

 

                                                                                    

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

           Câu chuyện thứ 5. –(Kỳ 1). Ông nội tôi làm lý trưởng

 

           Ông nội tôi nhiều lần lều chõng vào kinh đô ứng thí nhưng không đỗ, đành về quê :

                    Văn chương phú lục chẳng hay

                    Trở về làng cũ học cày cho xong

         Thế nhưng, Triều đình dường như tiếc cái công lao dùi mài kinh sử nên cũng cho ông tôi làm lý trưởng đến gần chục năm. Lý trưởng còn được gọi là xã trưởng,( chức tương đương như chủ tịch phường, xã bây giờ) .Dân Quảng Trị quê tôi phát âm không chuẩn nên thường  gọi xã ra thành  ông xạ.

           Lúc còn nhỏ, những khi cha mạ cho về thăm làng,  tôi  thường được Ông nội dạy bảo bằng những câu chữ nho như ; nhân chi sơ vốn bản thiện, nhân bất học bất tri lý- ấu bất học lão hàn vi…Ông dạy tôi học chữ thánh hiền bằng những bài học vỡ lòng trong cuốn Tam thien tu như Thiên trời địa đất. Cử cất tồn còn. Tử con tôn cháu. Lục sáu tam ba. Gia nhà quốc nước. Tiền trước hậu sau. Ngưu trâu mã ngựa…Ông còn dạy tôi viết chữ Hán. Ông đem ra cái mâm gỗ, lấy cát Tiểu Trường Sa ( tức là loại cát lấy ở đoạn giũa cắt khúc đồng bằng và miền duyên sơn.). Ở Quảng Trị ngày nay còn nhiều từ đoạn Thành Cổ đến các xã thuộc huyện Hải Lăng – bây giờ đoạn này còn được gọi là Đại lộ kinh hoàng trong Mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cát được đổ vào xâm xấp lòng mâm, sau đó dùng ngón trỏ viết tập. Thí dụ : Chữ Thiên  gồm hai nét ngang và một nét phẩy, một nét mác. Viết xong, lắc cái mâm cho cát trở về bằng phẳng như ban đầu. Ở cái thời đó, cách  tập viết như thế quả là một sáng kiến vĩ đại, vừa tiết kiệm giấy lại vừa luyện cho nhuần nhuyễn quen tay. Đến khi nào thuần thục thì mới dùng bút nho viết lên giấy bổi.

             Tôi cũng thường được Ông cho theo ra đồng, Tuy là lý trưởng nhưng ông cũng phải lam lũ ruộng nương như những lực điền. Tôi còn nhớ như hằn sâu vào ký ức thơ ngây của tôi về cái cung cách làm việc của những công bộc của dân thời đó. Chuyện là như thế này : Ông tôi đang cày ruộng. Có một người dân cần lên quan có việc gì đó nên phải lặn lội ra đồng để tìm xã trưởng ký chứng vào đơn. Ông tôi họ ( dừng ) trâu lại và lên bờ gặp đương sự. Sau khi rút cây bút nho, thường dắt tai, Ông tôi mút vào miệng cho ướt đầu thấm mực, ký chứng vào đơn, Ông tôi lấy cái triện vận trong lưng quần ra, hà hơi cho ẩm hơi nước rồi kê lá đơn vào đầu gối ấn cái triện vaò, ( triện , miền bắc gọi là con dấu, miền nam gọi là cái mộc)  nơi có chữ ký của ông. Hồi đó dân ta không mặc quần dải rút hay lồng bằng dây thun như ngày nay mà mặc quần lưng vận.

          Ông tôi là người hay chữ. Chữ nho Ông viết rất đẹp.Ông được dân làng rất mến mộ. Trong làng nhà nào có việc quan hôn tang tế đều đến xin Ông tôi cho đôi câu đối, hoành phi hoặc văn ai, văn điếu. Mặc dù làm việc “nước”, nhưng Ông tôi cũng phải lao động cật lực để nuôi sống gia đình. Khi việc làng, Ông được trọng vọng ngồi chiếu trên. Khi hết việc, Ông tôi chỉ làm người dân như mọi người. Nhũng ngày giáp Tết Nguyên đán, Ông tôi thường mang chiếu, tráp, giấy điều, mực nho ra ngồi dưới tán cây đa cạnh đình làng để viết thuê câu đối. Viết  đến đây tôi lại nhớ đến nhà thơ Vũ Đình Liên với bài thơ Ông đồ nổi tiếng. Vì thế tôi càng nhớ  và thương Ông tôi da diết.

 

          Mệ nội tôi, quê làng An Cư, tổng An Cư cùng phủ Triệu Phong là cháu quan đại thần Nguyễn Văn Tường. Ông sinh năm 1824, theo phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết nên bị  thực dân Pháp bắt ông giam xuống tàu chở vào Gia Định, rồi chở ra đày ở đảo Tahiti và chết tại đó năm 1886.

          Có một điều rất đặc biệt là hai làng Đại Hào và An Cư đồng thờ chung Ngài Khai khẩn tên là Nguyễn Thông. Chị ruột Mệ nội tôi được gả về làng Tường Vân, lấy chồng là vị quận công được Triều đình tấn phong tước Hồng lô tự khanh.

           Ông mệ nội tôi sinh hạ được  sáu người con, hai trai bốn gái. Ba tôi là con trưởng.

 

         Gia đình chúng tôi về quê nội. Đúng lúc có trát sức về làng tôi đã đậu Yếu lược. Ông nội tôi đã cho mổ bò khao làng, mừng đứa cháu đích tôn được phong là Ấm sinh.

 

         Ba Mạ tôi lại đưa tôi vô Huế, chuẩn bị cho ngày tựu trường niên khóa 1944-1945. Tôi vào học lớp Nhì nhất niên (cours moyen 1) tại trường Queingec. Học nửa niên khóa thì Nhật đảo chính Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Nam thôi là nước thuộc địa của “mẫu quốc Đại Pháp” đô hộ.

 

           Tính theo thời gian mà Phả ký Tộc Nguyễn Ngọc có hiện tại thì dòng họ này đến hiện nay là 16 đời, tương ứng với thời điểm Chúa Tiên vào đây. Làng Đại Hào có họ Nguyễn tám phái mà phái Nguyễn Ngọc của tôi là lớn nhất. Chi của cha tôi có nhiều người đỗ đạt.

 

            Theo Phả ký Nguyễn Tộc làng Đại Hào ghi chép từ đầu thế kỷ 20 thì Ông nội tôi nhiều lần lều chõng vào kinh đô ứng thí. Ông đỗ vào Trường Nhì Bạch Giáo sư trúng sĩ bổ. (theo ghi chép ở cuốn Chi phổ họ Nguyễn Tám phái làng Đại Hào).

           Ra trường, ông được bổ về dạy học (thầy dạy chữ Nho) ở làng Lâm Xuân, huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Lâm Xuân là làng nghề dệt chiếu rất đẹp. Ở đây có một hủ tục là không cho con gái lấy chồng ngoài làng, bởi sợ mất nghề. Cũng như ở Bắc Ninh, làng Vân có nghề nấu rượu nổi tiếng cho nên làng không gả con gái cho nơi khác. Các bậc bô lão trong làng đề nghị ông tôi làm thơ nói lên tác hại của hủ tục này. Ông tôi đã làm một bài vè để cho dễ nhớ. trong đó có những câu:

 

…Ba mươi tuổi tác đó chừ

E lẫn thẩn mà trẻ qua già tới

Ngọc phải giá không buông còn đợi?!

           Bài vè này dài, tôi chỉ trích mấy câu. Cháu ngoại của ông tên Trần Kỳ Đại, con O Chuyển đã chép toàn văn cho tôi.Thời gian sau, Ông thôi dạy học và trở về làng để làm lý trưởng.

Câu chuyện thứ 5.-(Kỳ 2)Ông nội tôi bị Tây bắn chết.

 

         Chiến tranh gieo biết bao kinh hoàng cho nhân loại. Chiến tranh là tàn phá, là chết chóc. Dải đất nhỏ bé hình chữ S này, trong thế kỷ 20 chịu đến 4 cuộc chiến tranh: đánh Pháp, đuổi Mỹ, chống giặc Tàu và giúp ông bạn láng giềng Cambodia khỏi họa diệt chủng.

         Nhân dân Việt Nam chịu bao đau thương: cha mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha! Và cả những người dân vô tội cũng đã ngả xuống! Cây cối, vườn tược, ruộng đồng bị hủy hoại…để trở thành đất trắng.

         Có đến hàng chục triệu sinh linh đã mãi mãi không còn nhìn thấy mặt trời. Có người hài cốt được đưa về quê hương, bản quán, nhưng cũng có hàng vạn con người nằm yên dưới lòng đất Mẹ!

         Tôi căm ghét chiến tranh. Và ca ngợi hòa bình để cho muôn phương trên trái đất, để nhân loại bình yên trong cuộc sống!

Năm 1948 là năm kinh hoàng nhất của gia đình chúng tôi.Trong Văn ai khóc mẹ tôi có viết:

… Có ngờ đâu

Độc lập chưa được bao ngày

Giặc Pháp mưu đồ gây hấn…

Đất nước muôn người như một, đứng lên kháng chiến trường kỳ

Trị Thiên một khối trường thành, lao vào mịt mù khói lửa

Ba ra đi theo bước trung đoàn

Mẹ ở nhà tảo tần lam lũ

…Xót thay!

Năm (19)48 bao nỗi kinh hoàng

Tháng 11 dập dồn tin dữ

Ông Nội bị Tây bắn thả xác xuống ao

Chú Tịch hy sinh gần làng Da Độ

Còn Ba, trung đoàn báo tử

Xuân Lộc em con thiếu thuốc đói cơm

Giã từ dương thế lúc tuổi còn nhỏ

Năm này Mẹ đẻ song sinh

Tháng ấy vào tuần ở cữ

Nguyễn Vô Danh “tử tại phúc trung”*…

______________

*Tử tại phúc trung là chết từ trong bụng mẹ.

 

           Có nguồn tin cho biết là mật thám Việt gian báo cho giặc Pháp biết gia đình ông nội tôi có đến 3 người theo Việt minh gồm ba tôi, chú Tịch và o Nghiễn.Cả 3 vị này đều ở trong quân đội, cho nên bọn Tây khi đi càn quét vùng Đại Hào đã ra tay giết chết ông nội tôi và đốt ngôi nhà rường ba gian hai chái! Đó là ngày 18 tháng 6 năm Đinh Hợi (1947).

          Chúng tôi lấy ngày này để làm ngày kỵ của ông nội tôi.

         Năm 1972, khi Quảng Trị được giải phóng, tôi có chuyến về thăm quê nội. Và đã viết được một chùm thơ tứ tuyệt và một cái ký Đường vào ( đã in sách). Trong Đường vào có đoạn:         Về làng Đại Hào. Anh ở lại nhà o Đạm (em ruột của bố anh) .Cơ quan Huyện ủy Triệu Phong đóng trong nhà.  O cháu gặp lại nhau sau hai mươi năm trời mừng mừng tủi tủi o đã khóc rất nhiều vì hoàn cảnh gia đình ly tán. Các con o thì bị giặc xúc tát vào nam, không biết sống chết ra sao. O Bút thì chạy ra Vĩnh Linh. Còn mẹ anh và các em của anh cũng chạy tán loạn trong “mùa hè đỏ lửa” năm ngoái, không biết có bị rủi ro gì  trên cái “đại lộ kinh hoàng” từ Thành Cổ Quảng Trị vào Huế không ?

          Anh về ngôi nhà cũ của ông mệ nội. Cả nhà trên và nhà dưới biến đi đâu rồi, chỉ còn trở lại một cái hố bom khổng lồ, đường kính có tới mười mét. Anh đau lòng nhìn ngôi nhà đã từng là nơi sinh ra bố anh và các chú, các o. Là nơi mà những tháng nghỉ hè hay những ngày Tết, ngày kỵ giỗ, ngày việc chi, việc họ anh được cha mẹ từ Huế cho về thăm quê.  Nén đau thương anh châm một bó nhang và khấn: Xin tổ tiên ông mệ và những người khuất mặt, khuất mày về chứng giám cho lòng thành của đứa con xa quê biền biệt, nay mới có dịp về thăm nhà!

         Những lũy tre bao bọc vườn nhà, những cây khế, cây cam…nay không còn một vết tích nào. Tất cả là đất trắng!

          O Đạm ra chợ Thuận mua cá tràu, cá mà ở Hà Nội thường gọi là cá quả về nấu canh chuối chát (hay còn gọi là chuối hột, chuối lá). Quả chuối được bóc lớp vỏ lụa bên ngoài rồi thái lát. Cá tràu chỉ cần đánh vảy, bỏ mang, cắt khúc cho vào nồi nấu chừng nào đủ chín,  bắc xuống rắc lá lốt thái chỉ và nêm hạt tiêu là xong. Đây là món canh truyền thống của quê anh. Ngày xưa mệ nội thường nấu cho cả nhà ăn hạ nhiệt trong những ngày hè oi bức.

            Những đêm nghỉ lại Đại Hào, đêm đêm anh cũng nghe bên phía quân đội cộng hòa tiếng hát của các ca sĩ trong những đội Thiên Nga, Phượng Hoàng hát phục vụ binh lính. Những bài hát mà chúng ta cho là nhạc vàng đó. Quân đội Sài Gòn đóng xen kẽ ở các làng Vân Hòa, An Lộng, Phú Liêu, giáp ranh với Đại Hào…Theo tinh thần Hiệp định Paris khi có hiệu lực thì quân đội bên nào giữ nguyên bên đó. Thành ra làng xóm chia cắt không ra một thứ tự nào. Xen kẽ, xôi đỗ, da báo. Có một hiện tượng rất lạ là những cánh đồng dù chỉ còn lại năn lác, cỏ dại nhưng lại rất nhiều chuột. Chúng đói nên mò vào cả nhà dân kiếm sống .Dân các làng đã bắt tay vào xây dựng lại nhà cửa dù chỉ là những căn nhà tre lá và lợp tôn. Đồng ruộng đã được cuốc xới.  Ở đây không còn lấy một con trâu để cày bừa. Máy cày,máy xới lại càng không. Việc đồng áng chỉ trông vào đôi tay trần! Việc khôi phục ruộng đồng hoang hóa chỉ dựa vào sức người. Những rủi ro do bom mìn còn sót lại không được báo trước Cũng đã có một vài trường hợp thương vong và bị thương, phần lớn là gãy tay, gãy chân.

      Đại Hào, đây là nơi chôn nhau cắt rốn của dòng Nguyễn tộc từ Châu Hoan vào đã bốn năm thế kỷ nay, từ thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào dựng phủ soái tại làng Ái Tử, gọi là Dinh Cát. Anh đã có bài thơ viết về Ái Tử, bài:

 

 Qua Ái Tử

Ái Tử nghĩa rằng mẹ yêu con

Trắng xóa lô nhô những cát cồn

Nguyễn Hoàng chúa cũ nay đâu thấy

Bảy vại nước tràn nặng tình son  *

____________

·*   Khi Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Đàng Trong, người dân Quảng Trị đã dâng Chúa 7 chum ( vại ) nước để tỏ lòng quy phục.

 

Viết nhân ngày Kỵ của ông nội tôi sắp tới.

                 

         Bên bờ Phước Long Giang, ngày 30/6/2021.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 6.- (Kỳ 1)Ông ngoại tôi là một nhà nho uyên thâm.

Bài viết:

 

 

Hơn bốn trăm năm trước, Nguyễn Hoàng người Tống Sơn, Thanh Hóa, sinh năm 1525, con thứ hai của Nguyễn Kim.Ông nội là Thái phó Nguyễn Hoằng Dụ từng giúp vua Lê Tương Dực lật đổ Lê Uy Mục (1509). Chỉ còn hai đời vua Lê cuối cùng nữa thôi để rồi rơi vào tay nhà Mạc. Sử sách thường ghi: Thời Lê mạt.

           Nguyễn Hoàng là em Ngọc Bảo, Ngọc Bảo lấy Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm thâu tóm hết mọi quyền lực, lấn át vua Lê, loại bỏ uy thế các em vợ: Nguyễn Uông bị hãm hại. Nguyễn Hoàng cáo bệnh giữ mình.

           Nghe lời sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái Ngọc Bảo xin anh cho đi trấn thủ Đàng Trong, miền Thuận Quảng.

Tuân chiếu vua Lê Anh Tông (1556-1573), năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Cùng đi có hàng ngàn binh mã bản bộ và họ hàng ở Tống Sơn, Nghĩa Dũng (bấy giờ là Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Hà Trung, Thanh Hóa); Đông đảo nhất có các họ tộc Nguyễn, Lê, Trương, Trần. Lúc đầu Nguyễn Hoàng đóng dinh tại Ái Tử, còn gọi là Dinh Cát, thuộc phủ Đăng Xương. Nguyễn Hoàng vỗ về quân dân, thu dụng hào kiệt, khẩn hoang lập làng; tiếp tục đón nhận di dân từ Đàng Ngoài vào mà phần đông là dân nghèo ở các làng mạc của các trấn Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.

                Năm 1545 Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, thọ 78 tuổi. Từ đó quyền hành rơi vào tay con rể Trịnh Kiểm.

            Mặc dù ở Đàng Trong ngày càng lớn mạnh, nhưng Nguyễn Hoàng với ý thức trung quân vẫn làm tròn nghĩa vụ với nhà Lê. Hàng năm nộp 400 cân vàng bạc, 500 tấn lúa…Vua Lê đánh Mạc thiếu thốn quân dụng, lương thực. Nguyễn Hoàng đem của cải ra giúp vua và ở lại Bắc tới 7 năm. Nguyễn Hoàng có công lớn trong việc đánh dẹp các dư đảng nhà Mạc nên được phong nhiều chức tước quan trọng: Trung quân Đô đốc Thủ phủ, Tả Đô đốc Chưởng phủ sự, Thái úy Đoan Quốc Công.Năm 1599, Nguyễn Hoàng được phong làm Hữu tướng.

              Năm 1600, sau khi dẹp bọn nội loạn Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khê xong, Nguyễn Hoàng dong ra biển về thẳng Thuận Hóa, chỉ để con trai thứ năm là Hải và cháu nội là Hắc ở lại làm con tin.

 Năm 1613, Nguyễn Hoàng đã gần 90 tuổi, biết mệnh trời đã đến lúc từ giã cõi trần, ông cho gọi con thứ 6 vào dặn: “Đất Thuận Quảng, phía Bắc có Núi Ngang (Hoành Sơn) và Sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá, muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng”.

Ông có mười người con trai, trấn thủ Thuận Quảng 56 năm (1558-1613). Sau này triều Nguyễn truy tôn là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế.

Con trai thứ 6 của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên đã 51 tuổi mới nối ngôi cha. Phúc Nguyên cũng được vua Lê ban hàm Thái bảo, tước Quốc công. Nguyễn Phúc Nguyên nối ngôi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng từ năm 1613, trấn thủ Thuận Quảng. Đây là ông chúa có bản lĩnh, bắt đầu là việc không thần phục chúa Trịnh, định quốc tính là Nguyễn Phúc (Từ đời này trở đi, vương triều Nguyễn có chữ đệm là Phúc). Không nộp thuế cống, trả lại sắc phong cho vua Lê.

Chúa Sãi là người dám đương đầu với Trịnh Tùng để rồi xảy ra đụng độ, cốt nhục tương tàn, Trịnh Nguyễn phân tranh suốt gần 150 năm. Bắt đầu là giữa Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh 1627-1672 và lần thứ 8 Trịnh Sâm chiếm Phú Xuân 1774-1775 mở rộng biên thùy Đàng Ngoài. Sông Gianh thành con sông giới tuyến Bắc Nam, con sông chia cắt đất nước. Hận Sông Gianh là nỗi đau dân tộc, nỗi đau cho hậu thế khôn nguôi!

                                                              ***

                Theo tộc phả Nguyễn Văn, cụ Nguyễn Văn Cơ, còn gọi là Cố Nghi, vốn người gốc Giáp Nê, làng Đông Hán, xã Thuần Trung, tổng Thuần Trung, huyện Lương Sơn, phủ Anh Sơn, trấn Nghệ An, nay là thôn Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Cụ được Chúa Sãi cho theo vào Quảng Trị và được triều đình ban hàm Thất phẩm sơ lại, tương đương với cấp huyện ngày nay, nhậm chức tại phủ Triệu Phong. Ở đây Cụ lấy người vợ hai. Người vợ cả ở quê Đông Hán có hai người con gái. Người vợ thứ sinh được một người con trai duy nhất đặt tên là Nguyễn Văn Thùy.

Làng mới của những di dân có tên là Xuân An, nhưng Cụ Cơ đã xin triều đình đi khai hoang lập ấp ở miền sơn cước.

           Đó là Phường Xuân Sơn,thường gọi là Phường Sãi.

     Nguồn gốc Phường Sãi được người đời sau ghi nhận. Tương truyền rằng “ Có một o bán bánh xinh đẹp vốn người làng Xuân An mở ngôi quán gần Lùm Miệu(*) bán bánh bột lọc bọc tôm thịt, bánh quai vạc làm bằng bột củ sắn. Sáng sáng có ông thổ hào, người làng Thượng Phước (làng Thượng Phước có cùng một ông tổ là người ở Bắc vào Quảng Trị và chia thành 3 làng mang chữ Thượng gồm có làng Thượng Phước, làng Thượng Nghĩa và làng Thượng Trạch, (Thượng Trạch là quê của nhà văn quân đội Trần Công Tấn) đến ăn quà sáng và say sưa ngắm nhìn o hàng bánh, mơ được làm chồng. Ông ta quên cả ghi sổ nợ. Đến khi không sao tìm ra số nợ o bán bánh thì ông thương thảo với o rằng: “Chừ o ôm cục đá (có người kể là cối đá nhỏ) đi từ đây, nơi có quán bánh và sau này là địa giới giữa làng Thượng Phước với ấp Xuân Sơn, tục gọi là Phường Sãi, khi mô mỏi không ôm được đá nữa, bỏ xuống nơi mô thì là đất của ta trả nợ o đó! O thuận ý, xóc lại quần lưng vận, hồi đó chưa có quần giải rút hay dây thun cao su như bây giờ. O ôm đá bước đi trước, ông thổ hào bước theo sau. Oái ăm là ông này có tính hài hước, luôn mồm kể chuyện vui, hoặc là cố ý chọc cười để cục đá mau rớt xuống. Đến đoạn chuyện vui quá, o bán bánh cười ngặt nghẽo, thót cả bụng. Vì thót bụng nên lưng vận tuột ra. O vội vứt đá xuống để giữ quần. Ông thổ hào la lên: “Đó.Đó, đó đất của o đến đó thôi nghe!”

 

 

                                                  ***

                Sau nương của cụ Nguyễn Văn Toại, nơi có cây mương là địa giới của Phường Sãi và làng Thượng Phước. Cụ Nguyễn Văn Toại là con của Cụ Nguyễn Văn Hạng và Cụ bà Tống Thị Phong, cháu nội của Cụ Nguyễn Văn Dinh với Cụ bà Nguyễn Thị Cửu, chắt nội Cụ Nguyễn Văn Thùy và Cụ bà Nguyễn Thị Kiên.

               Để có cơ sở cho con cháu trong dòng tộc nắm vững gốc tích cội nguồn, người viết bút ký này đưa vào đây bản Toát yếu Tộc phả, kể từ đời Cụ Nguyễn Văn Cơ (Đời thứ 9 – Chi thứ 3, Chi Bính), thường gọi là Cố Nghi, người được chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho theo từ quê Nghệ An vào khai khẩn đất ở ấp Xuân Sơn – Phường Sãi đến nay.

 

 

 

 

 

 

(*) Lùm Miệu: một khu rừng nguyên sinh nhỏ, trong đó có xây miếu thờ thần? Thờ thần nào, đến bây giờ khi các cụ đã mất, con cháu đời sau không rõ.Và hiện nay đã xây lên ở đó một ngôi nhà thờ tộc Nguyễn. Có lẽ sau này o bán bánh được tôn là Thành Hoàng và thờ ở Lùm Miệu chăng?

 

             Cụ Cố Nghi lấy người vợ thứ hai tên là Nguyễn Thị Phan, người làng Thượng Phước và sinh hạ Cụ Nguyễn Văn Thùy (Đời thứ 10). Cụ Nguyễn Văn Thùy có người vợ tên là Nguyễn Thị Kiên sinh hạ được 4 người con (3 trai và 1 gái). Đó là các cụ Nguyễn Văn Dẩu, Nguyễn Thị Cương, Nguyễn Văn Dinh và Nguyễn Văn Tần. Cụ Nguyễn Văn Dinh (Đời thứ 11) là con trai thứ 3 có người vợ cả tên là Nguyễn Thị Cửu sinh hạ được duy nhất một người con trai đặt tên là Nguyễn Văn Hạng (Đời thứ 12). Cụ Nguyễn Văn Dinh có thêm người vợ thứ tên Lê Thị Kiều sinh hạ được 5 người con, (4 trai và 1 gái). Đó là các cụ Nguyễn Văn Đại, Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Tề, Nguyễn Văn Chinh và Nguyễn Thị Tập. Người con thứ ba tên là Nguyễn Văn Tề (Đời thứ 12) từ nhỏ tới lớn sống ở Phường Sãi.

            Như vậy là Cụ Nguyễn Văn Hạng và Cụ Nguyễn Văn Tề là anh em ruột cùng cha khác mẹ. Cụ Nguyễn Văn Hạng với Cụ bà Tống Thị Phong sinh hạ được 4 người con (2 trai và 2 gái).Đó là các cụ Nguyễn Thị Thuộc, Nguyễn Văn Toại, Nguyễn Thị Đằng và Nguyễn Văn Cảm (Đời thứ 13) Người vợ thứ hai của Cụ Nguyễn Văn Hạng tên là Tống Thị Nguyệt sinh được 2 người con. Đó là Cụ Nguyễn Thị Thắng và Cụ Nguyễn Văn Quang  Cụ Nguyễn Văn Toại đồng hàng với Cụ Nguyễn Văn Cảm (đời thứ 13) nhưng sinh trước nên ở ngôi anh.

              Cụ Nguyễn Văn Toại và Cụ bà Hồ Thị Lan sinh được sáu người con, ba người con trai và ba người con gái. Thứ tự như sau: chị cả Nguyễn Thị Cúc, anh trai thứ hai Nguyễn Văn Liễu, chị thứ ba Nguyễn Thị Lựu, thường gọi là mụ Bát Lữ, người con trai thứ tư tên là Nguyễn Văn Tần, người con trai thứ năm tên là Nguyễn Văn Tùy và người con út Nguyễn Thị Quý. Bà Quý sống gần trọn thế kỉ XX, năm 1998 mất tại xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai. Năm 2008 ông Đỗ Văn Lâu, con trai trưởng đã cùng mấy chị em đưa hài cốt về cát táng tại quê nhà, làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. 

      Cụ bà Nguyễn Thị Lựu, lấy chồng họ Lê làng Xuân An. có những người con tên Trinh và Lợi. Ông Lợi có con tên là Lê Văn Tiềm hiện sống ở Nông trường cao su Cù Bị, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, và có con là Mẫn ở xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai.

  Cụ Nguyễn Văn Cảm và Cụ bà Nguyễn Thị Liễu, người làng Đại Hào, sinh hạ được 9 người con. Đó là chị cả Nguyễn Thị Trâm.Người con gái thứ hai Nguyễn Thị Lý. Anh trai thứ ba Nguyễn Văn Xuân. Anh trai thứ tư Nguyễn Văn Khoa. Người con gái thứ năm Nguyễn Thị Dung. (Mẹ tác giả bút ký này) Người thứ sáu Nguyễn Thị Tâm. Người thứ bảy Nguyễn Thị Tùng. Người thứ tám Nguyễn Thị Hài. Người thứ chín Nguyễn Thị Hoà.Và người thứ mười là Nguyễn Thị Thành (con vợ hai), nhưng không rõ lai lịch người vợ hai này?

                                   ***

 

          Từ cây mương cổ thụ, thân cây có rất nhiều hốc - chim gõ kiến, chim cà cưỡng, tu hú…, thường chui vào làm tổ - đến cây ươi Cồn Quả, nơi cục đá o bán bánh buông rơi là đất của ấp Xuân Sơn, Phường Sãi. Giờ nơi đây là dàn cột điện đường dây 500 kv chạy qua. Chữ Xuân lấy từ gốc làng Xuân An, chữ Sơn nghĩa là núi. Xuân Sơn chỉ dùng trên giấy tờ, văn bản, đơn từ ít người biết tới. Còn chữ Phường Sãi là để tưởng nhớ đến Chúa Sãi, người đã có công lớn mở rộng xã tắc Đàng Trong.Và là người đã đưa Cụ Hiền Tổ Khảo Nguyễn Văn Cơ từ Nghệ An vào Quảng Trị. Phường Sãi chỉ có mấy hộ gia đình, kể từ đời Cụ Cố Nghi Nguyễn Văn Cơ định cư (đời thứ 9), đến đời hậu duệ thứ 17, tổng cộng được 9 đời.

 

                                                       ***

 

           Đến năm Ất Dậu 1945, Phường Sãi vẫn  chỉ có 6 gia đình thuộc dòng tộc Nguyễn cư trú.

 Dòng chánh thất của Cụ Nguyễn Văn Toại, không có người nối dõi tông đường nên bà Nguyễn Thị Lựu được ở trên mảnh đất hương hỏa.

 Cụ Nguyễn Văn Cảm (em ruột Cụ Nguyễn Văn Toại) ở bức nương rộng. Cụ Cảm còn có tên thường gọi là cụ Khóa Cảm, là tước phong của triều đình khi thi sát hạch xong ở địa phương. Cụ xuất thân là một nhà nho, tôn thờ Đạo Khổng. Cụ còn là một thầy thuốc bắc rất giỏi, đã bắt mạch kê đơn chữa lành bệnh cho rất nhiều người, được bà con quanh vùng rất khâm phục, nể trọng. Con trai Cụ Cảm là ông Nguyễn Văn Xuân còn gọi là ông Diêu Xoan ở chung nương với cha mẹ. Con trai thứ là Nguyễn Văn Khoa nhưng vì kiêng húy nên gọi chệch sang Khuê (ông Diêu Khuê) có nhà và nương riêng ở kiệt phía dưới, có đường ranh giới, cận kề nhà thờ họ Lê, làng Thượng Phước.

Dòng trắc thất có Cụ Nguyễn Văn Quang, không có con trai.Chỉ một người con gái tên là Nguyễn Thị Thí, lấy chồng làng Thanh Lê, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong.

 Năm 1944 bà Nguyễn Thị Kim Dung, con Cụ Nguyễn Văn Cảm lấy chồng người làng Đại Hào tên là Nguyễn Xuân Tập, (là thân mẫu và thân phụ của tác giả bút ký lịch sử này) mãn hạn lính được về ở cùng cha mẹ vợ bức nương sát đường, cận kề mảnh đất cằn cỗi Khúc Mưng. Đất Khúc Mưng quanh năm không trồng tỉa cấy hái gì. Bức nương Mạ tôi mua rộng 6 sào với giá 2 vạn đồng Tài chính Trung Bộ. Người ký trên tờ giấy bạc lúc đó là ông Trần Văn Tấn, chồng bà Công tằng Tôn nữ Lan Huê - thuộc dòng tôn thất triều đình Huế. Sau năm 1954 tác giả có gặp hai vợ chồng ông Tấn và bà Lan Huê ở Hà Nội.

Cụ Nguyễn Văn Tề là con cụ Nguyễn Văn Dinh và bà Lê Thị Kiều (trắc thất) có những người con là ông Nguyễn Văn Trì (còn gọi là ông thợ Trì) làm nghề may quần áo may bằng khâu tay. Ông là tay thợ giỏi, may rất đẹp nên được bà con tín nhiệm. Ông còn là một nhà làm vè nổi tiếng cả tổng. Trong làng, trong tổng có chuyện gì xảy ra thì chỉ từ sáng đến chiều là có thơ, có vè ngay, thường là vè, thơ châm biếm. Vè của ông động chạm đến những tay cường hào, hách dịch và những phú hộ, trọc phú hợm của, khinh người. Ông đả kích những thói hư tật xấu của con người. Ông còn có tài kể chuyện vè và giọng của ông rất hay, rất hấp dẫn nên không những trẻ con mà cả người lớn cũng thích. Mỗi khi ông ngân nga kể vè thì có hàng chục người đứng vòng trong vòng ngoài nghe một cách chăm chú và có nhiều người thuộc vè của ông. Có thể nói ông là một nhà thơ dân gian, chuyên làm thơ trào phúng. Rất tiếc là những bài vè, bài thơ của ông chỉ được truyền khẩu cho nên hiện nay coi như thất tán hoàn toàn,

         Tuy nhiên, ông vẫn rất nghèo đến nỗi một mảnh nương nho nhỏ, hơn  sào, đã phải cắt đi một phần ba, bán lại cho ông Nguyễn Văn Xuân. Người con đầu của ông có tên là Nguyễn Văn Loan cũng đi ở chăn trâu cho ông Xuân. Cách mạng về, ông Loan đi bộ đội và đến khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết thì tập kết ra Bắc, lấy vợ người Vĩnh Linh, gần giới tuyến quân sự tạm thời. Hiện nay người cháu nội của ông thợ Trì tên là Nguyễn Văn Lực vẫn sống trên mảnh nương đó, làm nghề đóng gạch táp -lô.

             Người em kế ông thợ Trì tên là Nguyễn Văn Thanh (còn gọi là ông Con) ở sát nương người em út là ông Dần. Hiện nay những người con Ông Con tản mác, không có ai ở lại Phường Sãi. Ông Nguyễn Văn Hiếu ở tận tỉnh KonTum, đã gần 80 tuổi thường về việc họ, tết nhất, giỗ chạp. Ông là người rất có tình, có nghĩa với cố hương. Và người cháu tên Nguyễn Tăng, con ông Hiếu, sống ở Tánh Linh (Bình Thuận) cũng thường về quê trong những ngày giỗ chạp.

             Ông Nguyễn Văn Dần, thường hay gọi theo tên con, gọi là ông Đuổi (tên tục ông Thiều) ở sát nương. Ông Dần sinh được hai người con trai. Người con cả tên là Nguyễn Hồng Thiều, trước đi ở cho địa chủ làng Thượng Phước. Ông đã từng nhai cơm trún vào nồi cá kho để chủ nhà tưởng lầm mèo mửa đem cho người làm ăn. Thời đi ở có lần ông giả vờ điên để có thể chửi bới địa chủ mà không bị bắt tội. Cách mạng về ông đi bộ đội và tập kết ra Bắc, lấy vợ người Quảng Bình, sinh được bốn người con. Ông Nguyễn Văn Quýnh, em ông Thiều, lấy vợ họ Phan, người làng An Đôn. Ông Quýnh có tất cả là 10 người con. Hiện nay ở tỉnh Khánh Hòa. Người em gái tên là Nguyễn Thị Cầm thì lấy một người tên Trần Đức Hứa ở làng Thượng Phước. Còn cô em út là Nguyễn Thị Huệ, lấy chồng ở làng An Đôn.

 

Còn tiếp>

Bên bờ Phước Long Giang, ngày 1 tháng 7 năm 2021, nhằm ngày 22/5/Tân Sửu.

Nhà thơ Xuân Bảo.