MỘT NHÀ THƠ VĂN VÕ KIÊM TOÀN
Nước Nam ta có rất nhiều ông vua đồng thời là nhà thơ. Triều Trần
có đến 7 ông vua là thi sĩ. Cuối thời phong kiến, gần ta nhất có các ông hoàng
Tuy Lý Vương, Tùng Thiện Vương. Vua Tự Đức
là một nhà thơ lớn.
Tuy nhiên, trong lịch sử thì có một ông vua vừa làm vua, VỪA CẦM
QUÂN,vừa làm thơ nổi tiếng là vua Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông, tự là Tư Thành, huý là Hạo, con trai út của Lê Thái
Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao - con gái Thái Bảo Ngô Từ. Sống giữa chốn dân gian
từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi. Mẹ Nhân Tông khi đó đang buông rèm chính sự, cho đón
Tư Thành về ở trong cung rồi phong làm Bình Nguyên Vương hằng ngày cùng vua
Nhân Tông và các vương hầu học tập tại toà Kính Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập,
thông tuệ hơn người, được vua Nhân Tông rất yêu quý.
Lê Thánh Tông sinh ngày 20
tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442. Ngày 6 tháng 6 năm Canh Thìn - 1460, các quan đại
thần phế truất Nghi Dân, rước Tư Thành - lúc đó 18 tuổi lên ngôi. Lê Thánh Tông
hết lòng chăm lo việc nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài, khuyến khích sản xuất
nông nghiệp, mở mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn bán, ban hành chế độ
quân điền, coi trọng việc bảo vệ biên giới quốc gia. Bản đồ biên giới quốc gia
Đại Việt được hoàn thành dưới triều Lê Thánh Tông. Và là người xuống chiếu giải
oan cho Ức Trai trong vụ Lệ Chi Viên án. Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên
hiệu vua Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh
và có nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta. Bộ Đại việt sử ký toàn thư do sử quan Ngô Sĩ
Liên biên soạn năm Kỷ Hợi - 1479 dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông còn lập ra Hội Tao Đàn gồm 28
ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi là "Tao Đàn nhị thập bát
tú" do nhà vua làm nguyên suý. Trong đó có Thân Nhân Trung – người có câu
văn bất hủ, được ghi vào Văn miếu Quốc Tử Giám: Hiền tài là nguyên khí quốc
gia.
***
Không có vị nguyên thủ quốc gia (ở nước Nam) lại lo cho dân đến
cùng như vua Lê Thánh Tông. Ở nửa sau thế kỷ XV, trong bối cảnh cực kỳ thuận lợi
của một triều đại thái bình thịnh trị, thơ Nôm được triều đình nhà Lê với vị
minh quân Lê Thánh Tông đặc biệt chú trọng. Nhà vua đã nâng việc sáng tác thơ
Nôm từ chỗ tự phát đến quy mô quốc gia. Thơ Nôm đã tuyển thành tập “Hồng Đức quốc
âm thi tập”.
Lê Thánh Tông là một thi nhân hội tụ được cả 3 yếu tố không thể
thiếu với một thi nhân đích thực: trí tuệ phong phú, tài năng sáng tạo thơ và
tính chất lãng tử trong tâm hồn.
Ông vua hiền triết này có cái nhìn “vạn vật nhất thể”, thấy được
cái vĩ đại trong cái hèn mọn, cái may trong cái rủi, cái đẹp trong cái xấu, cái
sướng trong cái khổ. Thơ Lê Thánh Tông hàm chứa ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Lê
Thánh Tông như một vị thánh nhân đức đã “thế thiên” đi ban phát hạnh phúc cho
con người ở cõi nhân gian, cho thần dân mà ông hết lòng yêu thương.
Chỉ riêng một sự việc của
Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, vợ chàng Trương Sinh nghe con trẻ trỏ cái bóng
trên tường, gọi đó là cha mình. Hãy nghe một đoạn “án oan” này của Nguyễn Dữ viết
trong Truyện kỳ mạn lục:
…Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương
Sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ rồi bế đứa con
nhỏ đi thăm. Ra đến đồng đứa con trẻ quấy khóc, Sinh dỗ dành:
- Con nín đi, đừng
khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!
Đứa con thơ ngây
nói:
- Ô hay! Thế ra ông
cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín
thin thít.
Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:
- Khi ông chưa về
đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, ngồi cùng
ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ
hư, không còn có cách gì tháo gỡ ra được.
Về đến nhà mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn nhà
nghèo, được vào cửa Tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc
lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa từng bén gót. Đâu có sự hư thân mất nét như lời
chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi
oan cho thiếp.
Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu
không kể lời con nói, chỉ thường thường mắng mỏ, nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ
hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất
đắc dĩ nói:
- Thiếp
sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia, nghi thất. Đâu ngờ ân
tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gẫy, mây tạnh mưa tan, sen
rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gẫy cuống, kêu xuân cái én
lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời
mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này
duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ, điều đâu bày buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ,
thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch
gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng
lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm
cơm chi diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi ngưởi phỉ nhổ.
Nói xong gieo mình xuống sông mà chết.
Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng động long
thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳn thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng
vẻ, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:
Ô, Cha Đản lại đến rồi.
Chàng hỏi đâu? Nó trỏ bóng chàng ở trên vách.
Đây này!
Sự việc chỉ có thế
mà vua Lê Thánh Tông đã có đến 2 bài thơ.
Bài thứ nhất. Miếu bà Trương;
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy tới nàng?
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng?
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng
Và bài thứ hai Hoàng Giang, điếu Vũ nương.
Ngàn lau san sát, cỏ xanh xanh
Sảy nhớ ngày xưa kẻ tiết trinh
Cách trở bấy lâu hằng giữ phận
Hiềm nghi một phút bỗng vô tình
Hay lòng, phó mặc vầng cao thẳm
Lẻ bóng tìm nơi chốn vắng thanh
Dầu nhẫn ai ai qua đến đấy
Thương nàng hòa lại trách Trương sinh
Tâm hồn của vị vua thi sĩ dạt dào tình cảm hiện còn khắc trên đá
trước cửa miếu Vũ nương tại Lý Nhân, Hà Nam.
Thơ Nôm của Lê Thánh Tông và của thời Hồng Đức là “máu mủ ruột
rà”, là di sản văn hóa vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam ta cần được phổ cập
đến mọi người.
Bên bờ Phước Long Giang, viết kỷ niệm ngày Hội Văn Nghệ Đồng Nai
bước sang tuổi 40 . 22/12/1979 – 22/12/2018.
Nhà thơ Xuân Bảo.Bài đăng lại vao ngày hom nay, khi cao trào Co
vit 19 đã xâm nhập Đồng Nai. Ngày 29/7/2021.
Nhà thơ Xuân Bảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét