Trang

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

252. Chuyện nhỏ làng quê. Câu chuyện thứ 9..



252. Chuyện nhỏ làng quê. Câu chuyện thứ 9.
Kiếm sống bằng đánh bắt thủy sản trên sông.
Sông Thạch Hãn còn có một tên khác là Nguồn Hàn với câu ca dao:           “Không thơm, cũng thể hương đàn
Không trong cũng nước Nguồn Hàn chảy ra
         Ở Quảng Trị, tên Thạch Hãn còn đặt cho một làng quê và gọi theo dân dã là làng Đá Hàn, làng Thạch Hãn nằm trên đoạn đường sắt chạy qua thị xã Quảng Trị. Chữ Hàn cũng có nghĩa là cản lại. Sông Thạch Hãn là dòng sông dài nhất của tỉnh, nước trong vắt bốn mùa. Vì chảy qua rất nhiều lèn đá, núi đá. Chả thế mà cụ Tam Nguyên Yên Đỗ khi đi qua sông đã để lại:
             “Tây Phong hà xứ xuy trần khởi
    Bất trợ niên tiền triệt để thanh
Dịch thơ:
 “Gió Tây đâu cuốn bụi dồn
           Nước trong thấu đáy nay còn nữa đâu”
          Thi sĩ xứ Huế Khiêm Trai, tức Tương An Công Miên Bửu, trong bài thơ “Dạ túc Quảng Trị tân thứ” (Đêm nghỉ tại bến sông Quảng Trị) thì xúc cảm:
 “Danh cao lan xạ Kim Lung tửu
           Sắc tự thanh trừng Thạch Hãn than…
 Dịch thơ:   
          Chén rượu Kim Long hương ngát đậm
 Bãi sông Thạch Hãn nước trong veo…”
          Ngoài rào, vùng quê tôi không gọi sông Thạch Hãn mà nói là rào Thạch Hãn. Rào có nghĩa như con sông (tiếng Pháp phân biệt danh từ chỉ sông lớn như sông Hồng Hà là fleuve, còn sông nhỏ như sông Thạch Hãn là rivière, nếu là sông con, ngòi, lạch thì là rivièrète). Nơi bến Phường Sãi có một cái hà (giống như một cái lạch nước lấn vào bờ), chỗ nước sâu nhất chừng quá ngực một chút.
          Bọn trẻ thường xuống tắm ở đó. Hà có rất nhiều cá mương. Chúng không sợ người mà còn xông vào rỉa ráy. Dọc theo cái hà này, dài chừng ba bốn trăm mét, cậu Diêu Xoan thường hay đổ bổi khi mùa lũ về. Cậu đặt khoảng 20 bó bổi. Bổi được làm bằng những cành lá duối, nếu thiếu thì có thể bó thêm ít cành sim, cành nè hóp không gai và nhiều loại cây có cành khác, có chiều dài khoảng trên một mét, được bó thành từng bó, có dây buộc vào cái cọc trên bờ để nước không cuốn trôi. Tôm cá chui vào nấp hoặc tìm mồi trong đó. Người đổ bổi dùng một cái rổ sảo, đường kính to bằng cái nống phơi lúa. Cứ mỗi buổi sáng cậu Diêu và anh Vọng nhẹ nhàng lội xuống nước, nhẹ nhàng chúi cái rổ sảo ấy xuống bụng bó bổi rồi từ từ nâng lên. Cá rô, cá giếc, tôm và nhiều loài thủy sản khác, có khi được cả chạch lấu, cá hanh hoặc con hôn (một loại ba ba). Đổ hết những bó bổi thu hoạch cũng được vài ba ký lô, đủ cải thiện bữa ăn gia đình và người làm trong ngày.
               Đoạn sông này có lợi thế là có bậc lên xuống, không như những đoạn bãi bồi toàn cát. Con sông nào cũng có một bên lở thì bên kia là bồi. Vậy nên cứ đến mùa lụt Mạ tôi thường ngồi gần như sáng đêm để vợt tép. Để chuẩn bị cho việc vợt tép, trước đó những ngày hè Mạ đã vào rú chặt những cây sặt, một loại họ sậy, đem về phơi khô, bó thành từng bó nhỏ có đường kính khoảng một tấc tây để dùng làm đuốc đốt vợt tép. Khi nước lũ tràn về thì đêm đến Mạ mang một cái thúng, một cái vợt tự chế bằng vải mùng và thanh tre vót nhẵn bẻ cong lại, giống y như cái vợt cầu lông hiện nay, mấy bó đuốc. Hồi đó chưa có đập thủy lợi, thủy điện nên nước lụt dù có lên nhanh nhưng rút cũng nhanh, mà nó còn không hung hãn như bây giớ cho nên bọn trẻ rất thích có lụt để được đi vớt củi rều và đi bắt cá rô đẻ.  Trời tối, đuốc đốt lên không cháy thành lửa ngọn mà chỉ đỏ lửa than. Những bầy tép đi thành đàn cặp mép sông, bơi ngược dòng. Nước chảy xuôi nhưng tôm tép thì bơi ngược. Ngồi sáng đêm Mạ tôi xúc được bộn tép, có khi được cả thúng. Ngoài số tép dùng cho các bữa ăn, số còn lại Mạ tôi muối làm mắm để ăn dần. Dì Mão đã bắc sẵn lên bếp một nồi cháo gạo ít khoai nhiều. Dì xuống bến đến chỗ Mạ đang xúc tép và lấy một mớ tép. Dì vợt những con tép đang nhảy tưng tưng trên mặt thúng cho vào thúng nhỏ đem lên, chỉ dội lại một lần nước và cho vào nồi cháo, chỉ cần nêm thêm vài muỗng muối là có món cháo rất ngọt ngon. Tôi múc một đọi to mang xuống bến cho Mạ. Nhìn Mạ sùm sụp trong chiếc áo tơi rách với cái nón mê trên đầu mải mê vợt tép để nuôi đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn, trong khi Ba tôi còn đi chiến đấu bảo vệ quê hương. Tôi thấy thương Mạ vô ngần!                
Trừ những khi có lụt, còn lại là những đêm trời trong, Mạ thường đi soi cá. Soi cá cũng dùng đuốc bằng cây sậy hoặc cây hóp chẻ nhỏ, phơi khô bó thành từng bó bằng cái cột nhà tre, dài chừng 2 mét. Tối đến đuốc được đốt ở bến nước, rồi lội xuống mép sông, một tay giữ cây đuốc trên vai, một tay cầm cái nơm, khi thấy cá đóng đèn, tức là đóng ánh sáng đuốc. Chúng đứng im một chỗ thì dùng nơm úp lên con cá, bó đuốc tạm thời bỏ lên bờ, thò tay vào nơm bắt cá, thường là loại cá chép, cá trôi, cá mè…có con nặng cả ký lô. Khi không dùng nơm thì dùng dao thái chuối, thấy cá đóng đèn thì lấy dao chém. Có con bị chém dứt làm đôi. Đi soi cá thường đi vào đầu hôm, cháy hết hai cây đuốc thì về nhà. Số cá thu được cũng kha khá, chừng vài ba ký, đủ dùng cho vài ngày.   
          Trong thời 9 năm, Dì Mão sang ở với Mạ tôi. Dì là con gái cả của ông Thợ Trì, người làm vè nổi tiếng cả tổng An Đôn. Vì nhà quá nghèo nên ông thợ phải cho người con trai tên là Nguyễn Văn Loan, em Dì đi ở chăn trâu cho cậu Diêu Xoan của tôi. Còn Dì thì được Mạ tôi cưu mang trong những năm đầu chống Pháp cực kỳ khó khăn. Có lần Dì đang lúi húi xúc cá bống thì bọn giặc Pháp lên lùng bên làng Như Lệ. Chúng trông thấy Dì và xả súng bắn. Dì bị chúng bắn bị thương ở đùi. Hồi đó không có thuốc kháng sinh nên chỉ rửa vết thương bằng lá cây rừng. Nhưng rồi cũng qua khỏi. Một thời gian sau, Dì Mão được Dượng Lê Trường Tôn cưới làm vợ. Và họ sinh được sáu người con ba trai và ba gái. Người con trai thứ hai Lê Trường  Quyền đi bộ đội và hy sinh tại chiến trường Bình Trị Thiên, được truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Hai người con trai của Dì là Lê Trường Cận và Lê Trường Kỳ cùng người con gái thứ ba Lê Thị Hoàng hiện sinh sống tại quê nhà. Sau giải phóng miền Nam, hai người con của Dì (Hoàng và Cận), được chính quyền cấp đất làm nhà ngay trên bức nương của Mạ tôi.
Dọc theo bờ sông, thỉnh thoảng bọn trẻ chúng tôi đào thấy những ổ trứng hôn (con ba ba), có ổ có đến hơn hai chục trứng, nhưng không hiểu vì sao hồi đó, người dân không ăn trứng hôn và trứng rùa? 
Muốn qua rào chính thì phải qua một cồn cát. Cồn cát này, trong những năm đánh Pháp, theo lời kêu gọi “Tăng gia sản xuất” đã tận dụng để trồng khoai lang. Sau ba tháng thì nhổ lên, củ chỉ to bằng ngón chân cái người lớn, nhưng rất nhiều củ và ăn rất ngon, thơm và bùi. Tắm ở ngoài dòng chính rất nguy hiểm vì nước chảy xiết. Đã có lần tôi suýt bị chết đuối do nước cuốn, may mà tôi kịp thời bơi ngửa, chân đạp mấy cái mới vào được chỗ nông.
          Giữa rào, trên cao thường có mấy chú diều hâu. Chúng bay lượn rất mềm mại, sà đôi cánh như múa trong không trung. Nhưng đôi mắt thì rất tinh. Từ trên cao, chim diều hâu nhìn thấu đáy sông. Và khi đã phát hiện được cá thì chúng lao mình xuống nước như một mũi tên và hai chân của chúng quắp một con cá to. Diều đáp xuống giữa cồn cát ăn con cá ngon lành.
Bên bờ Phước Long Giang, ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2018
Nhà thơ Xuân Bảo

Thứ Hai, 19 tháng 11, 2018

251.Chuyện nhỏ làng quê. Bẫy cọp

251.Chuyện nhỏ làng quê.
Câu chuyện thứ 8.

Bẫy cọp
Cầm thú cũng đủ loại: Cọp thỉnh thoảng ghé về, tiếng kêu bép bép. Dân làng không dám gọi là con cọp mà gọi là “ông” cọp. Người ta đồn rằng “ông” rất thính, nghe được tiếng người nhắc đến mình, nhưng có tật mau quên, nhất là động vào bất kỳ cành cây chiếc lá nào là quên ngay việc đi bắt người. Chuyện về cọp ở đây - nói chung là cái vùng duyên sơn Quảng Trị của dãy Trường Sơn - rất nhiều chuyện ly kỳ, rùng rợn. Năm 1950, năm ta là năm Canh Dần. Dần là ứng với cọp trong 12 con giáp. Đúng là một năm rừng động. Thảm kịch xảy ra giữa cọp và người rất khủng khiếp. Chúa sơn lâm đã làm mưa làm gió một vùng. Những tay thợ bắn cọp cũng một thời nổi tiếng. Ông Bát Bé, ông Đen đã bắn được nhiều cọp ở đoạn này từ Bến Than tới Trái, Trấm và Tràu, Phong An, Dốc Dài, Dốc Son…Chuyện ông Đen bắn cọp được dân trong vùng ca ngợi hết lời. Có một buổi chiều, cọp bắt một bé gái chăn trâu gần Động Ôi. Được tin báo, ông Đen xách khẩu súng trường mút-cơ-tông (mousqueton) chạy vào động. Từ xa đã nhìn thấy con cọp đang vờn mồi. Ông lựa phía cuối chiều gió để cọp không ngửi thấy mùi hơi người. Mặt trời thì sắp lặn, để đến tối thì nguy hiểm. Con cọp để em bé nằm đầu xuôi phía đông. Không thể chờ, ông Đen đã giặng hắng một tiếng, cọp liền quay phắt về phía ông, phía mặt trời đang lặn. Do chói nắng nên cọp hơi lúng túng trong khi đó một phát súng nổ đoàng, đúng vào giữa trán con cọp. Nó chỉ nhảy đựng lên khoảng hai mét và nằm chết tươi trước chỗ ông Đen nấp bắn khoảng năm mét. Dân làng khiêng xác em bé về chôn cất, con cọp cũng được đưa về làng. Chẳng hiểu vì sao hồi đó người dân không ăn thịt và cũng chẳng nấu cao hổ cốt? Bà ngoại của tác giá bút ký này cũng bị cọp bắt khi chạy giặc Tây lên lùng. Sau này khi tìm được nơi bà bị cọp ăn tại Phúc Trèn thì chỉ còn lại bộ xương khô và cái khăn quàng cổ bằng đũi, một loại vải dệt từ tơ tằm, rất bền, khó mục.
Dân làng Thượng Phước cũng đã làm bẫy bắt cọp. Bẫy là những cây tre đực dài trên ba mét, ngọn được vót nhọn, gốc chôn xuống đất ở độ sâu nửa mét, kết lại với nhau bằng những cây tre nằm ngang, hai lớp trên và dưới cách nhau một mét, buộc vào hàng tre đứng bằng những sợi dây chìu, dây mây thật chặt. Cái hàng rào kiên cố này được dựng ba phía. Phía còn lại thì để chừa lối vào cho cọp. Những thanh tre cật được đan thành một cái liếp (phên). Hai bên cửa có hai cây tre đực được vót nhọn một đầu, một đầu để bằng, có dây kết nối với tấm liếp cửa bằng một sợi dây dừa to bằng ngón chân cái. Sau này khi Pháp nhảy dù xuống Hòn Linh, Bậc Lở, quân ta thu được chiến lợi phẩm nhiều thứ trong đó có những chiếc dù mà sợi dây dù rất dai và chắc. Bộ đội cho dân làng để làm bẫy cọp. Sợi dây dừa hay dây dù được kéo căng ra và móc vào hai cái chốt. Cọp bước vào thì chốt bật ra, kéo tấm liếp đứng lên. Trong lúc đó hai cây tre hai bên tự động đóng cửa lại. Cọp vào bên trong chuồng bẫy rồi nhưng không thể nào ăn thịt được con mồi. Vì rằng con mồi, thường là con bê con được nhốt trong một cái cũi rất chắc. Sáng ra, dân làng và dân quân du kích vác súng và những cây giáo dài ra để bắt cọp mắc bẫy, thường thì phải bắn hạ, ít khi bắt sống cọp.
Nhân nói chuyện bẫy cọp xin nói thêm về chuyện bẫy heo rừng. Muốn bẫy heo rừng thì phải đào hầm. Hầm có kích thước: sâu 1 mét rưỡi, chiều ngang và chiều dọc thì tùy, nhưng phải từ 1 mét rưỡi. Miệng hầm được lót phên đan bằng tre chẻ ra từng mảnh. Tấm phên được gác lên những thanh tre nhỏ cỡ ba phân và rắc một lớp đất lên trên tấm phên để ngụy trang. Nương sắn phải rào thật kín, heo không chui vô được. Chỉ để một khoảng trống chừng bốn năm mươi phân nơi bên trong có hầm bẫy. Vào mùa thu hoạch sắn. Lũ heo rừng thường về ủi tìm thức ăn. Có khi đi từng đàn năm bảy con. Chúng rảo quanh nương sắn tìm đường vào. Thấy chỗ trống, chúng tranh nhau, chen lấn chui vào dẫm lên thì tấm phên sụp xuống, có khi hai ba con heo tụt xuống hầm. Hầm sâu, heo không thể nào nhảy lên được. Chủ nương sắn vác giáo ra đâm hoặc thả dây tróng vào cổ, vào chân heo để bắt sống đem về làm thịt. Nhà ông Sáng bên xóm Mộ, đối diện với dinh cơ ông huyện Hoàng Hữu Kiệt, thường bẫy heo kiểu này.
Cả vùng rừng núi, độộng, trảng, hác xã Phong Sơn có rất nhiều loại thú rừng nhưng người dân ở đây không lập phường săn. Mặc dù đã từ lâu Lễ hội săn bắt thú rừng của làng Thượng Phước được đưa vào danh mục Lễ hội quốc gia. Lễ hội khai mạc ngày rằm tháng Ba âm lịch, có bà con của hai làng anh em Thượng Nghĩa và Thượng Trạch tham dự. Đây là Lễ hội truyền thống để nhớ về Ngài Tiền khai Võ nguyên Hùng dõng Hùng Quốc công – người đã có công truyền nghề săn bắt thú rừng để bảo vệ mùa màng, thể hiện sức mạnh đoàn kết của dân làng.
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 19/11/2018
Nhà thơ Xuân Bảo

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2018

250..Quảng Trị quê tôi

250.QUẢNG TRỊ QUÊ TÔI.

(Viết nhân Ngày hội Thống nhất non sông 27 tháng 7 hàng năm ở Quảng Trị)
                                                              Nhà thơ Xuân Bảo
Trong cổ sử. Từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng Quảng Trị ngày nay được cho là thuộc lãnh địa bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu thời Hán thuộc (từ năm 179 trước Công Nguyên đến năm 192), Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam. Cuối thế kỷ 2, nhân triều đình nhà Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, một chính quyền bản xứ của quận Nhật Nam và xứ Tượng Lâm đã được hình thành, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ của Lâm Ấp được phỏng đoán tương ứng với vùng từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang ngày nay, tức bao gồm cả vùng Quảng Trị. Vào thời Lý- mãi đến thế kỷ 10 mới giành lại được độc lập, nhưng các chính quyền của nhà nước Đại Việt nhanh chóng phát triển về mọi mặt và luôn tìm cách phát triển lãnh thổ để giành lấy không gian sinh tồn trước sự uy hiếp của Trung Quốc ở phía Bắc và Chăm Pa (hậu thân của Lâm Ấp) ở phía Nam. Sự phát triển nhanh chóng của Đại Việt là mối lo ngại cho Chăm Pa cũng như tham vọng của nhà Tống. Để loại trừ mọi uy hiếp ở phía Nam và phá tan âm mưu của nhà Tống câu kết với Chăm Pa đánh phá Đại Việt, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệt đi tiên phong đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Chăm Pa là Rudravarman III (sử Việt chép tên là Chế Củ) đưa về Thăng Long. Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về nước. Ông cho đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Địa bàn của châu Minh Linh được phỏng đoán tương ứng với vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía bắc Quảng Trị ngày nay, gồm các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Đa Krông, một phần đất của thành phố Đông Hà, các huyện Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay. Vào thời Trần có một trong những sự kiện lịch sử đáng nhớ là: Năm 1306, vua Chăm Pa là Jaya Sinhavarman III (Chế Mân) dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh Tông xin cưới Công chúa Huyền Trân và dâng 2 châu Ô và Lý (Rí) làm vật sính lễ. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô, Rí. Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Rí thành Hóa Châu. Địa bàn Thuận Châu tương ứng với vùng đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào phía Nam Quảng Trị ngày nay, trong đó có các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, thị xã Quảng Trị và một phần đất thành phố Đông Hà hiện nay.
Từ đó cho đến khi người Việt hoàn thành công cuộc Nam tiến, dù có vài lần Chăm Pa chiếm lại được quyền kiểm soát, nhưng chung quy người Việt vẫn làm chủ được vùng này. Đặc biệt từ sau năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông sai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử. Các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách di dân cũng như cho phép người nước ngoài nhập cư vào Đàng Trong, đặc biệt là người Hoa, nhằm làm tăng nhanh dân số cũng như tiềm lực kinh tế để làm cơ sở tranh hùng với các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Trong suốt gần 300 năm, vùng đất Quảng Trị tồn tại với tên gọi Cựu dinh thuộc vào trấn Thuận Hóa. Mãi đến sau khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đã đặt lại Cựu dinh thành dinh Quảng Trị, bao gồm các huyện Hải Lăng, Đặng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ. Năm 1806, Quảng Trị trở thành dinh trực lệ kinh sư Huế. Năm 1822, đặt châu Hướng Hóa lệ thuộc đạo Cam Lộ. Đến năm 1827, dinh Quảng Trị nâng lên thành trấn Quảng Trị. Năm 1832, vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh Quảng Trị. Năm 1853, tỉnh Quảng Trị hợp nhất với phủ Thừa Thiên thành đạo Quảng Trị. Tới năm 1876, tỉnh Quảng Trị được tái lập.
Thời Pháp thuộc. Sau khi nắm được quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 3 tháng 5 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra Nghị định hợp Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Ngày 23 tháng 1 năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rousseau ra Nghị định rút Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền Công sứ Đồng Hới, cùng Thừa Thiên dưới quyền Công sứ Trung Kỳ, đặt một phó Công sứ đại diện cho Khâm sứ ở Quảng Trị. Đến năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra Nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên lập thành một tỉnh riêng biệt gồm 4 phủ: Triệu Phong (Thuận Xương cũ), Hải Lăng, Vĩnh Linh (Chiêu Linh cũ) Cam Lộ và huyện Gio Linh. Ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Paul Bert ra Nghị định thành lập thị xã Quảng Trị và đặt làm tỉnh lỵ.
Năm 1954, Sông Bến Hải được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời, tỉnh Quảng Trị tạm thời chia làm hai vùng: Vùng bờ nam sông Bến Hải là tỉnh Quảng Trị, gồm các huyện: Hải Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ, Gio Linh, Hướng Hóa, xã Vĩnh Liêm và một phần của xã Vĩnh Sơn (Vĩnh Linh), thị xã Quảng Trị, do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý; hơn 3/4 địa bàn và dân cư của huyện Vĩnh Linh ở phía Bắc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý, được thành lập đặc khu. Đặc khu Vĩnh Linh tương đương đơn vị hành chính cấp tỉnh, trực thuộc Trung ương. Sau khi Sài Gòn thất thủ (30-4-1975), tỉnh Quảng Trị và đặc khu Vĩnh Linh được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản. Từ tháng 3 năm 1976, thực hiện Quyết định của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quảng Trị cùng hai tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên và đặc khu Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh mới là Bình Trị Thiên. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 3 huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Cam Lộ thành huyện Bến Hải; hợp nhất 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng thành huyện Triệu Hải.
Ngày 17 tháng 12 năm 1996, huyện Đa Krông được thành lập trên cơ sở tách 10 xã thuộc huyện Hướng Hóa và 3 xã thuộc huyện Triệu Phong. Ngày 1 tháng 10 năm 2004, thành lập huyện đảo Cồn Cỏ.
Hiện Quảng Trị có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã (trong đó có 7 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố), có 136 xã, phường và thị trấn.
Quảng Trị. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía Tây giáp các tỉnh Savannakhet và Saravane, (Lào), phía Đông giáp biển Đông. Tỉnh lỵ của Quảng Trị là thành phố Đông Hà nằm cách thủ đô Hà Nội 593 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.120 km về phía Nam.
Quảng Trị là một tỉnh nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam, nơi chuyển tiếp giữa hai miền địa lý Bắc - Nam. Tọa độ địa lý trên đất liền Quảng Trị ở vào vị trí Cực Bắc là 17°10′ vĩ Bắc, thuộc địa phận thôn Mạch Nước, xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh. Cực Nam là 16°18′ vĩ Bắc thuộc bản A Ngo, xã A Ngo, huyện Đa Krông. Ngập úng vào mùa mưa lũ. Cực Đông là 107°23′58″ kinh Đông thuộc thôn Thâm Khê, xã Hải Khê, Hải Lăng. Cực Tây là 106°28′55″ kinh Đông, thuộc địa phận đồn biên phòng Cù Bai, xã Hướng Lập, Hướng Hóa. Với tọa độ địa lý này, Quảng Trị được tạo nên bởi một không gian lãnh thổ mang sắc thái khí hậu nhiệt đới ẩm, điển hình của vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng rất lớn của biển Đông.
Phía Bắc của tỉnh Quảng Trị giáp huyện Lệ Thủy (tỉnh Quảng Bình), phía Nam giáp hai huyện A Lưới, Phong Điền (tỉnh Thừa Thiên-Huế), phía Tây giáp tỉnh Savanakhet (Lào), với chiều dài biên giới chung với Lào là 206 km, được phân chia bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ. Phía Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 75 km và được án ngữ bởi đảo Cồn Cỏ, có tọa độ địa lý 17°9′36″ vĩ Bắc và 107°20′ kinh Đông, Đảo Cồn Cỏ cách bờ biển (Mũi Lay) 25 km, diện tích khoảng 4 km². Chiều ngang trung bình của tỉnh 63,9 km, (chiều ngang rộng nhất 75,4 km, chiều ngang hẹp nhất 52,5 km).
Tuy với một diện tích không rộng, người không đông nhưng do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nên Quảng Trị đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ và khai thác biển Đông, giao lưu giữa hai miền Bắc - Nam của đất nước cũng như lưu thông thuận lợi với các nước phía tây bán đảo Đông dương, các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và thế giới qua Lao Bảo - hành lang quốc lộ số 9 ra cảng Cửa Việt.
Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi với 7 hệ thống sông chính là sông Thạch Hãn, sông Bến Hải, sông Hiếu, sông Ô Lâu, sông Bến Đá, sông Xê Pôn và sông Sê Păng Hiêng. Sông ở các huyện miền núi có khả năng xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Nhìn đại thể, địa hình núi, đồi và đồng bằng Quảng Trị chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam và trùng với phương của đường bờ biển.
Sự trùng hợp này được thấy rõ trên đường phân thủy giữa Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Ở Quảng Bình, các đỉnh cao nhất đều nằm ở giữa đường biên giới Việt - Lào nhưng ở Quảng Trị, các đỉnh cao lại nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Các sông lớn như Sê Păng Hiêng, Sê Pôn... đều bắt nguồn từ Việt Nam chảy qua Lào.Tuy nhiên nếu xem xét địa hình ở quy mô nhỏ hơn, từng dãy núi, từng dải đồi thì địa hình lại có hướng song song với các thung lũng sông lớn như Cam Lộ, Thạch Hãn, Bến Hải...
Tính phân bậc của địa hình từ tây sang đông thể hiện khá rõ ràng. Nếu ở phía tây của đường phân thủy địa hình nghiêng khá thoải, bị phân cắt yếu thì ở phía đông đường phân thủy chuyển nhanh từ núi trung bình xuống đồng bằng. Các bậc địa hình bị phân cắt khá mạnh bởi mạng lưới sông suối dày đặc với trắc diện dọc và ngang đều dốc. Đồng bằng hẹp, phía Tây thì lộ đá gốc, phía đông là địa hình cát. Dải địa hình đồng bằng cấu tạo bởi phù sa ở giữa lại thấp và dễ dàng bị ngập úng.

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ “81 NGÀY ĐÊM MÁU VÀ HOA”.

Diện tích: 25 ha. Chiều cao: 4 m. Xây dựng: 1809
Thành Cổ Quảng Trị hoặc Cổ thành Quảng Trị là một Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4, tọa lạc ở trung tâm thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị.
Đầu thời Gia Long, thành Quảng Trị được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (tức vị trí ngày nay, thuộc phường 2, thị xã Quảng Trị). Ban đầu thành được đắp bằng đất, tới năm 1837 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Thành có dạng hình vuông, chu vi tường thành là hơn 2.000 m, cao hơn 4 m, dưới chân dày hơn 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài nhô hẳn ra ngoài. Thành được xây theo lối kiến trúc (Vauban) thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian. Thành trổ bốn cửa chính ở các phía Đông, Tây, Nam, Bắc.
Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Từ năm 1929, Pháp xây dựng thêm nhà lao ở đây và biến nơi đây thành nơi giam cầm các những người có quan điểm chính trị đối lập.
Tại nơi đây đã có những trận đánh lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong các năm 1968, 1972. Sau chiến dịch Thành Cổ "chiến dịch Xuân - Hè 1972" 1972 toàn bộ Thành Cổ gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn.
Trong thập niên 90 của thế kỷ 20, UBND tỉnh Quảng Trị cho tôn tạo lại thành để làm di tích. Người ta phục chế vài đoạn tường thành, làm lại bốn cổng chính, ngay trung tâm thành được xây một đài tưởng niệm ghi dấu ấn 81 ngày đêm năm 1972. Góc phía tây nam dựng lên một ngôi nhà Hiện đại làm bảo tàng. Toàn bộ đường dẫn vào di tích và mặt đất bên trong Thành Cổ được tráng xi măng chừa ô trồng cỏ. Thành Cổ được người dân trong vùng xem là "Đất Tâm Linh" vì nơi đây bất cứ tấc đất nào cũng có bom đạn và máu xương các binh sĩ hai bên. Hiện nay là một công viên lớn nhất Thị xã Quảng Trị.
Trận Cổ thành Quảng Trị 1972
Thành Cổ Quảng Trị còn nổi tiếng là nơi diễn ra trận chiến 81 ngày đêm giữa lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với liên minh Quân đội Hoa Kỳ-Quân lực Việt Nam Cộng hòa có sự yểm trợ tối đa của hỏa lực từ pháo hạng nặng, pháo hạm và B-52 ném bom của quân đội Mỹ. Đây là một trận đánh gây thiệt hại nặng cho cả hai bên và là trận đánh khốc liệt nhất toàn bộ cuộc chiến. Kết quả, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tái chiếm được Thành Cổ và một phần thị xã nhưng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giữ được nửa bắc tỉnh Quảng Trị, các vị trí chiến lược ở cực Tây tỉnh Quảng Trị và xung quanh Thành cổ cũng như các vị trí xung yếu trong thị xã. Hiện nay tại bảo tàng Thành Cổ Quảng Trị vẫn còn có nhưng di vật, và những bức thư bộ đội gửi vĩnh biệt gia đình trong thời gian xảy ra trận đánh này.
Thành Cổ Quảng Trị được xếp vào danh mục những Di tích quốc gia đặc biệt và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan Việt Nam và khách du lịch quốc tế.
***
MỘT KHÚC BI TRÁNG
Thành Cổ Quảng Trị là một khúc ca bi tráng, một bản anh hùng ca bất tử.
Ngày đó, hàng vạn người lính bơi qua sông Thạch Hãn vào Thành Cổ và nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại với dòng sông, để rồi cựu chiến binh Lê Bá Dương ngày hòa bình trở về chất đầy một thuyền hoa huệ trắng thả xuống sông viếng bạn bè, và từ tim anh, những câu thơ yêu thương ứa máu dành cho đồng đội:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.

Chưa ai biết đích xác có bao nhiêu người lính đã nằm lại đây, có số liệu bảo hơn một vạn, có tài liệu bảo hơn một vạn rưỡi, nhưng tại nghĩa trang Thành Cổ chỉ chưa đến một ngàn nấm mộ, hầu hết là vô danh, bao nhiêu nữa những chiến sĩ trẻ vừa rời giảng đường vào Thành Cổ ngày ấy đã vĩnh viễn không thể tìm thấy thân xác. Chỉ vừa mấy tuần trước đây thôi, những người thợ đào móng xây tháp chuông Thành Cổ đã tìm thấy sáu hài cốt, chỉ một hài cốt chắc chắn là liệt sĩ nhờ những di vật kèm theo, còn năm hài cốt khác không ai dám chắc, nhưng chắc chắn họ đã nằm lại đất này vào mùa hè khốc liệt ấy.
Họ, những cựu chiến binh Thành Cổ, về lại đêm nay có người đang giữ những trọng trách như ông Nguyễn Quốc Triệu - chủ tịch thành phố Hà Nội, ông Đinh Thế Huynh - tổng biên tập báo Nhân Dân... Nơi đây, các anh đã trồng những cây đa Ấn Độ để tưởng nhớ.
Ông Nguyễn Trọng Bường, một cựu chiến binh Thành Cổ, bằng chất giọng Quảng Trị mộc mạc kể về những người lính sinh viên ấy: “Hồi đó, thấy mấy anh từ Bắc vào anh nào cũng trắng trẻo, thư sinh đẹp trai, nhìn mấy anh ấy tụi tui thấy tiếc, cứ nghĩ những người như mấy anh phải đi học, phải làm bác sĩ, kỹ sư để xây dựng đất nước chứ răng lại vào đây cầm súng chiến đấu?”. Và chính lớp chiến sĩ - sinh viên Thành Cổ ấy đã tạo thêm một nét hào hoa trong trang sử bi tráng của mảnh đất này.
Trước tượng đài Chiến sĩ - sinh viên Thành Cổ, bài hát Nga Khi đàn sếu bay qua của Ian Frenkel vang lên, bài hát của một thế hệ lính trẻ ra trận nhưng trong balô luôn có những tập thơ, giữa những phút lặng im của bom đạn họ đã viết những dòng nhật ký chiến trường để bây giờ còn lay động trái tim bao người như Nguyễn Văn Thạc, Nguyễn Kỳ Sơn…Lê Văn Huỳnh đã để lại bức thư cho bố mẹ, cho người vợ thân yêu trước khi đi vào lòng đất, nơi mà theo anh nói là để tìm kiếm sự thực cho ngày mai! Các anh cũng đã nằm lại trên chiến trường Thành Cổ này.
Hàng vạn hoa đăng đèn nến đã thắp sáng dòng sông, ánh sáng những hoa đăng ấy mang linh hồn những người lính nhắc nhở rằng ngày hôm qua bi tráng không chỉ ở Thành Cổ, ở sông Thạch Hãn mà cả bao miền đất nước thắm máu đào người lính, luôn là sự thức tỉnh cho những người đang sống.
Máu xương của hơn một vạn người lính nằm xuống Thành cổ ngày ấy đã góp phần vào thắng lợi của Hiệp định Paris 1973, góp cho mùa xuân đại thắng 1975.
Tôi có bài thơ
“81 tấm lịch đá Thành Cổ”

Nơi đây, những tấm bia đá
Không còn là vật vô tri
Mỗi tấm lịch đá còn ghi
Đủ 81 ngày đêm đạn bom khốc liệt
Thành Cổ Quảng Trị anh hùng
Mỗi tấc đất đều thấm máu cha ông
Từ thuở Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Đàng Trong – Ái Tử
Thành Cổ vang lên tiếng thét căm hờn
Đây chính là tiếng thét của núi song
Đã tạc vào lương tâm thời đại
Chiến tranh – nỗi đau lớn nhất của nhân loại
Nơi đây những linh hồn trai trẻ
Nằm xuống để ươm mầm xanh Quảng Trị
Nguyễn Văn Thạc tuơi mãi tuổi hai mươi
Tô thắm cho những cuộc đời
Không ai lựa chọn cho mình cái chết
Cũng không ai muốn điều ly biệt
Ai cũng muốn cuộc sống bình yên
Giá trị làm người, giá trị thiêng liêng
Không chiến tranh để người vợ không thành góa bụa
Để các em thơ vui đùa nhảy múa
81 khối đá hóa thành kim cương
Khóc mãi ngàn năm Thành Cổ đau thương
Thành Cổ Quảng Trị, ngày 27 tháng 7 năm 2007
Ảnh 1. Một góc Thành Cổ
Ảnh 2. Đài Tưởng niệm Thành Cổ Quảng Trị.

249. Đi tìm mộ cha.


                                               249.   ĐI TÌM MỘ CHA

NHÂN NGÀY GIỖ LẦN THỨ 70 CỦA CHA TÔI, CỤ ÔNG NGUYỄN XUÂN TẬP.
            Ngày 12 tháng 9 Mậu Tý (1948) – Ngày 12 tháng 9 Mậu Tuất (2018)
            Đi tìm mộ Cha là tác phẩm tôi ấp ủ từ lâu. Nay nhân ngày Giỗ lần thứ 70 ( 1948 - 2018) và cũng là kỷ niệm 110 năm Năm sinh của bố tôi (1908 – 2018), tôi đưa lên MXH bài viết này.

                                                ĐI TÌM MỘ CHA
                                                                   Bút ký
          
             Năm 1948 là năm kinh hoàng nhất của gia đình chúng tôi. Trong Văn ai khóc mẹ tôi có viết:
Có ngờ đâu
Độc lập chưa được bao ngày
Giặc Pháp mưu đồ gây hấn…
Đất nước muôn người như một, đứng lên kháng chiến trường kỳ
Trị Thiên một khối trường thành, lao vào mịt mù khói lửa
Ba ra đi theo bước trung đoàn
Mẹ ở nhà tảo tần lam lũ
Xót thay!
Năm (19)48 bao nỗi kinh hoàng
Tháng 11 dập dồn tin dữ
Ông Nội bị Tây bắn thả xác xuống ao
Chú Tịch hy sinh gần làng Da Độ
Còn Ba, trung đoàn báo tử
Xuân Lộc em con thiếu thuốc đói cơm
Giã từ dương thế lúc tuổi còn nhỏ
Năm này Mẹ đẻ song sinh
Tháng ấy vào tuần ở cữ
Nguyễn Vô Danh tử tại phúc trung*…
                                                            ***
Hè năm 1944, mãn hạn lính, Ba Mạ tôi dắt díu đàn con về quê. Làng Đại Hào là một làng nằm ở đồng bằng Triệu Hải, người dân chủ yếu làm nông, song ruộng đất ít, người đông cho nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Ba Mạ tôi xin Ông Mệ nội về quê ngoại ở Phường Sãi, thuộc làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dù sao, nơi đây còn có nhiều đất đồi chưa khai phá hết.
Tiền hưu của Ba tôi bị mất do thực dân Pháp bị Nhật đảo chính ngày 9/3/1945. Tôi còn nhớ hình ảnh người cha còng lưng gánh gánh củi sim từ làng xuống chợ tỉnh bán để lấy tiền nuôi con. Đoạn đường này dài trên dưới 5 cây số!  Hình ảnh này tương phản với bức ảnh Ba tôi chụp chung với các sĩ quan ở État Major 5è Brigate ở Huế. Ba tôi mặc quân phục của quân đội viễn chinh Pháp với quân hàm Sergent chef, có ngù vai, có biểu trưng chữ V ở cầu vai và tay áo.
Sau cách mạng Tháng 8, Mạ tôi gom các thứ của thời thực dân, phong kiến như Thẻ ngà (dân thường gọi là Bài ngà) đi kèm với sắc phong Lục phẩm của triều đình Huế; bằng Sơ học yếu lược của tôi và các bức ảnh có hình Ba tôi mặc quân phục Pháp đều được Mạ tôi đốt đi kẻo sợ Việt Minh!
Mạ tôi thì đi làm thuê, mùa nào việc nấy: cấy lúa, nhổ cỏ, gặt thuê…Tôi thì đi ở chăn trâu cho một nhà giàu làng Thượng Phước với tiền công một năm là 5 thúng lúa và 2 bộ áo quần cộc bằng vải to (một loại vải do người dân quê tôi tự trồng lấy cây bông vải, kéo thành sợi và dệt trên khung cửi thủ công).
Tôi còn nhớ lúc 9 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, một cuộc mitting lớn được tổ chức trước cổng tòa công sứ Pháp (lúc này do bọn Nhật chiếm đóng). Và sau này là trụ sở của Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị. Thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa, ông Trần Hữu Dực trịnh trọng tuyên bố thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh, xóa bỏ chính quyền cũ. Sự thực thì cái gọi là “chính quyền bù nhìn” của thủ tướng Trần Trọng Kim đã tự xóa tên mình cũng trong ngày 23 tháng 8, chấm dứt Đế quốc Việt Nam, khởi đầu ngày 11 tháng 3 và kết thúc vào ngày 23 tháng 8 năm 1945, sau 5 tháng 6 ngày.
Trong ngày này (23-8-1945), Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị đã ra 2 Quân lệnh. Quân lệnh số 1 phát đi lúc 10 giờ sáng, có nội dung: “Tất cả lực lượng vũ trang chiếm đóng hoặc dự bị, kể cả lực lượng hỗn hợp giữ nguyên tại chỗ. Người và vũ khí không được thay đổi, di chuyển cho đến khi có lệnh mới”. Và sau 2 tiếng, tức lúc 12 giờ trưa, Quân lệnh số 2 đước phát đi với nội dung: “Mở cuộc đăng ký tuyển quân, cấp tốc thành lập Chi đội Giải phóng quân với tổng số 1.500 chiến sĩ, kể cả một số đơn vị trực thuộc như thông tin, quân y, quân nhu”.
Khởi nghĩa thành công không một tiếng súng!
***
Ba tôi là một trong số cán bộ đại đội, tiểu đoàn vốn là cai, đội lính khố xanh, khố đỏ, có tinh thần yêu nước, tự nguyện tham gia vào Chi đội Giải phóng quân. Ngày 9 tháng 9 năm 1945, Chi đội chuyển đổi thành Chi đội Thiện Thuật. Theo Sắc lệnh số 71, ngày 22 tháng 5 năm 1946 của Chính phủ về tổ chức Quân đội Quốc gia Việt Nam, Chi đội Thiện Thuật đổi thành Trung đoàn 95. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn 13, 14 và 15 và 1 tiểu đoàn lính nữ. Song song với lực lượng chủ lực, tỉnh chú ý xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, gọi là Tỉnh đội Dân quân.
Buổi sơ khai này Quân đội nhân dân Việt Nam có rất nhiều tên gọi: Giải phóng quân, Vệ quốc quân, Vệ quốc đoàn. Đầu năm 1946, Ba tôi được Ban Chỉ huy Trung đoàn cử về xã Phong Sơn (trước đó có tên là xã Công Ái) với chức danh là Phái viên Quân sự, có nhiệm vụ trực tiếp huấn luyện quân sự cho dân quân và du kích ở các thôn Thượng Phước, An Đôn, Nhan Biều.
Tôi thường được ông cho đi theo vào bãi tập, sau mới gọi là thao trường tại nương mít Mụ Hểu. Đây là một cái trảng rất rộng, bằng phẳng. Chữ làng, sau này mới đổi thành thôn. Chương trình huấn luyện bắt đầu từ các động tác tập họp đội hình, nghiêm nghỉ, bước đi một hai, một hai rồi tiến tới lăn lê bò toài. Súng chỉ có hai khẩu: súng trường mút-cờ-tông (mousqueton) và một khẩu tiểu liên mi-tờ-ray-dét (mitraillètte). Dân quân được trang bị quân phục. Áo quần may bằng vải to, một loại vải do người nông dân quê tôi tự trồng lấy cây bông vải, tự kéo thành sợi và dệt trên khung cửi thủ công. Chị Thản tôi là người phụ nữ đầu tiên mặc bộ đồ quân sự cũa người lính Giải phóng quân. Chị mặc áo sơ-mi ngắn tay, hai túi trên có nắp, có cầu vai và quần soóc toàn màu trắng, trông rất đẹp. Vì không có đủ súng nên phải đẽo cây theo hình dạng khẩu súng để tập động tác bồng súng lên và bỏ súng xuống. Có những buổi tối, tôi thấy Ba tôi ngồi giữa sân của Ông Ngoại, trước mặt là một cái nống. Ba tôi tháo rời khẩu súng trường ra và giảng giải cho dân quân nghe: đây là cái cơ bẫm, đây là nòng, đây là đầu ruồi…Ba tôi có một giọng nói rất âm vang, hùng hồn và hấp dẫn. Trong những cuộc mitting, ngoài việc điều khiển hành lễ, ông còn được phân công đọc các bài văn tế làm sục sôi ý chí chiến đấu cho mọi người. Tôi còn nhớ được mấy câu:
“Hỡi ôi!
Hoàng Thiên chốn thấu thương lũ xâm lăng
Tạo hóa vô tình ghét người chí sĩ
Đoàn dân tộc ra tay gầy dựng,
Đem lòng thân ái nâng niu
Lũ dã man lên mặt hung tàn,
Một phút anh em ly dị
Bâng khuâng kẻ mất người còn
Tưởng tượng lòng ghi nghĩa để…”
***
Vai trò phái viên quân sự của Ba tôi chấm dứt khi tiếng súng quân Pháp bắt đầu tấn công nống chiếm Quảng Trị. Tôi còn nhớ rõ, khi Hà Nội bước vào Ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, thì trước đó, quân Pháp được quân Anh Ấn giúp sức đã gây hấn ở Sải Gòn vào ngày 23 tháng 9 năm 1945 và sau đó chúng đổ bộ lên cửa biển Tư Hiền và cửa biển Thuận An, chiếm lại kinh thành Huế. Ngày 10 tháng 2 năm 1947, chúng chia thành 2 cánh quân, nống ra Quảng Trị. Hướng nam, quân Pháp đã sử dụng 1.500 binh lính, có xe tăng đi cùng và dưới sự yểm trợ của pháo binh và không quân tiến chiếm Mỹ Chánh, Diên Sanh… Cùng ngày, từ hướng tây, chúng xua 500 quân, từ Sa-vằn-na-khẹt (Trung Lào), đánh chiếm Lao Bảo rồi tiến về Đông Hà, hợp quân hướng nam vào thị xã Quảng Trị. Hồi 3 giờ 30 phút sáng ngày 16 tháng 2 năm 1947, quân Pháp chiếm hoàn toàn thị xã Quảng Trị.
Ba tôi trở lại Trung đoàn và ông được phân công làm tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn chủ lực của tỉnh. Chú ruột tôi, thầy giáo Nguyễn Xuân Tịch được bố trí làm quản trị trưởng tiểu đoàn 13 và o ruột tôi tên là Nguyễn Thị Nghiễn, bí danh là Thanh Tâm được điều về Ban Chính trị Trung đoàn 95. Chú Tịch của tôi hy sinh năm 1949 và được công nhận là liệt sĩ. O Nghiễn thì bị bệnh cảm nặng khi bơi qua sông tránh giặc và sau đó hy sinh.
Sau một thời gian Ba tôi được điều về làm trưởng phòng quân nhu Trung đoàn.
Tin đau đớn đối với mấy mẹ con tôi là khoảng tháng 11 năm 1948, có tin báo Ba tôi đã chết. Còn chết như thế nào thì không được nói rõ. Trong khi đó Mạ tôi chuẩn bị sinh đôi. Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Vô Danh (chết trong bụng mẹ). Như vậy Kim Cúc khi sinh ra không được nhìn thấy mặt cha! Có đau buồn nào hơn đau buồn này chăng?
Như thế, Mạ tôi trở thành góa phụ khi tuổi đời mới trên ba mươi. Còn chúng tôi trở thành những đứa trẻ bồ côi cha!  Một mình Mạ tôi lam lũ làm thuê làm mướn nuôi 5 anh em chúng tôi. Cuộc sống vô cùng chật vật khó khăn. Còn đâu những ngày tháng sống trong nhung lụa ở đất Thần kinh Huế!
Sinh thời, trong những năm kháng chiến chống Pháp, không bao giờ Mạ tôi khóc vì thương nhớ Ba tôi trước mặt các con. Chỉ khi đêm về, Mạ tôi ngồi lặng lẽ khóc thầm bên bếp lửa. Lúc này tôi đã 13 tuổi, đã biết suy nghĩ về vai trò người con lớn trong gia đình. Tôi muốn giúp Mạ tôi một công việc gì đó để đỡ vất vả vật lộn với cuộc sống hàng ngày. Tôi xin Mạ tôi đi ở đợ! Câu ca:

 Còn cha gót đỏ như son
Mất cha gót mẹ gót con đen sì”.
 Là như vậy đó!
                                                            ***
Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết. Tôi gia nhập bộ đội địa phương Quảng Trị tập kết ra Bắc. Đằng đẵng 21 năm trời xa quê hương yêu dấu, xa người mẹ hiền vô vàn thương quý và đàn em côi cút, xa họ hàng tông tộc, tôi trở về tìm Mạ tôi. May thay! Mạ tôi và các em vẫn còn sống đầy đủ. Gia đình Mạ tôi bị chính quyền Sài Gòn xúc tát vào Xuân Lộc trong những ngày hè đỏ lưả năm 1972.
Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam. 30/4/1975 tôi gặp lại Mạ và các em tôi ở xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai. Vui mừng khôn xiết!
Mạ tôi thường bảo với tôi: Làm cách nào con cũng phải đi tìm cho được hài cốt Ba con về, không để Ba con nằm hiu quạnh một nơi nào đó! Vâng lời dạy của Mạ tôi, tôi đã tìm cách liên hệ với Ty Lao động Thương binh Xã hội tỉnh Quảng Tri, viết thư hỏi Ban Chỉ huy Trung đoàn 95, thậm chí khi còn công tác ở Hà Nội tôi đã trực tiếp đến Cục Quân lực, Bộ Quốc phòng để hỏi về Ba tôi.
Nhưng tất cả đều là sự vô vọng!

2.      CÓ HAY KHÔNG MỘT THẾ GIỚI TÂM LINH?

Trong những năm đầu của Thiên niên kỷ thứ III, đất nước ta rộ lên phong trao “Khả năng tìm mộ” của nhiều nhà ngoại cảm. Nổi tiếng nhất có Phan Thị Bích Hằng, người tìm ra mộ nhà văn liệt sĩ Nam Cao và là người tìm ra mộ em gái nguyên phó thủ tướng, giáo sư Trần Phương. Cô tên là Vũ Thị Kính, sinh năm 1929, tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 16 tuổi với bí danh Trần Thị Khang. Năm 1950 cô là huyện ủy viên của Đảng bộ Phù Cừ, bí thư phụ nữ Cứu quốc huyện. Tháng 6 năm đó, địch bắt được cô từ hầm bí mật, đưa về bốt La Tiến - một bốt khét tiếng tàn ác, một đồn binh lớn án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Thái Bình và phía tây tỉnh Hải Dương.
Giáo sư Trần Phương nói: 
Mười năm lại đây, nghe tin nhiều người tìm được hài cốt bằng gọi hồn, bằng ngoại cảm, bằng thấu thị... Tôi vốn được đào tạo theo tinh thần của khoa học thực nghiệm, cái gì chứng minh được mới tin là có, cái gì chưa chứng minh được thì dứt khoát không tin. Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ tin có linh hồn, thần thánh, ma quỷ. Ngay cả những ngày giỗ bố mẹ, tôi cũng không làm cơm cúng, không thắp hương, chỉ sửa một lọ hoa tươi để tưởng nhớ. Vậy mà khi nghe những tin trên, trong tôi vẫn lóe lên niềm hy vọng mong manh: Biết đâu đấy. Nếu bằng phương pháp thần bí mà tìm được hài cốt em tôi thì có gì đâu phải câu nệ?”.
Nhà Xuất bản Hải Phòng có hẳn một cuốn sách Còn mãi một tình thương” (Forever Remains a Love) của tác giả Nguyễn Đình Phúc. Sách dày gần 500 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm, có 4 phần và 1 Kết luận. Phần Kết luận, tác giả viết:
Tìm mộ thất lạc bằng nhiều khả năng tiếp nhận thông tin ngoài 5 giác quan bình thường là một hiện tượng mang nhiều ý nghĩa nhân văn và khoa học.
Còn mãi một tình thương là cuốn sách tập hợp những bài viết của nhiều tác giả nhằm phát hiện những gương Người tốt, Việc tốt, những nét đẹp văn hóa ứng xử không chỉ một vài người mà là của cả một dân tộc với thế hệ trước đó. Chúng ta đã và đang phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, nhớ các Anh hùng Liệt sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc!...
                                                            ***
Những năm đó, ở xã Xuân Tâm có 2 sự kiện đặc biệt. Một là, nhà ông Phùng H. cứ đêm đến là quần áo mắc trong nhà tắm và WC tự dưng bay cả ra ngoài sân?! Hai là, phía sau bức vườn của chú em tôi Nguyễn Xuân Bổng, cứ đêm đến là nghe văng vẳng như có tiếng khóc nỉ non. Thắp đèn lên đi tìm tiếng khóc đó thì cứ đến gần hàng rào giáp ranh thì đèn lại phụt tắt?
Từ 2 hiện tượng đó, Mạ tôi cho gọi tôi lên để tìm người đã tìm ra 2 sự việc đó. Vâng lời Mạ, tôi tổ chức một chuyến đi La Gi, tìm nhà ngoại cảm. Ông tên là Nguyễn Bá Kh. ở đường Thống Nhất, phường Tân An 2, Hàm Tân, Bình Thuận (nhà Uốn tóc Phượng). Điện thọai bàn số 062.870.9.. Xe riêng của tôi do Phạm Hoàng Thanh lái, trên xe có Mạ tôi, chú Xuân Bổng, chú Xuân Đức và tôi.
Đến nơi, không khó để tìm ra nhà thầy Kh. Lên lầu 1, tôi thấy có một ban thờ chúa Jésu, trên đó có một bình hoa tươi. Mạ tôi bỏ vào chiếc khay một cái phong bì.
Thầy Kh. Quê ở Nghệ An, tuổi chừng gần 60, là một giáo hữu tín đồ Kitô giáo.
Thầy Kh.  Hỏi: Ai là người đại diện chủ chốt việc đi tìm mộ ông Nguyễn Xuân Tập?
 Tôi trả lời đầy đủ các câu hỏi của thầy: Con trai cả, sinh năm Ất Hợi, 1935, hiện ở tại phường Quyết Thắng, Biên Hòa, Đồng Nai, có vợ vả 3 con.
Thầy mời tôi ra chỗ gần cửa sổ có nhiều ánh sáng. Thầy lấy một cái kim bằng inox giống như chiếc trâm cài đầu và thầy vạch đúng đường rẽ ngôi giữa trán. Thầy tìm một hồi lâu rồi nói: Đi Quảng Bình về mệt quá! Rồi thầy bảo có ai đó lấy giấy bút ra ghi. Đây là nguyên văn lời thấy phán và Xuân Đức ghi:
“Tờ 1.
Người thân của chúng ta sau khi rời khỏi quê nhà và cư ngụ ở tỉnh Q.Bình một thời gian khá lâu mới mất. Huyện Tuyên Hóa là vùng giải phóng thời chống Pháp. Năm 1948, người thân của chúng ta đã cư ngụ tại huyện Tuyên Hóa. Chúng ta có thể liên lạc với phòng Lao động-Thương binh và Xã hội huyện Tuyên Hóa để biết thêm tin tức của người thân tại đây.
Từ Ba Đồn, huyện Bố Trạch (thực ra đây là huyện Quảng Trạch mới đúng. XB) QB có đường QL đi Tuyên Hóa. Con đường này đi song song với bờ sông Rào Nậy đổ về sông Gianh. Ta qua khỏi những địa danh khoảng cách từ Ba Đồn lên Tuyên Hóa trên 35 km. Gần tới huyện Tuyên Hóa ta gặp một đập nước khá lớn nằm ở bên tay phải đường. Đập thủy lợi này nằm ở giữa 2 ngọn núi. Con đường lên Tuyên Hóa gần sát bờ sông Rào Nậy, phía nam đập nước. Nếu chúng ta vượt…
“Tờ 2.
…cầu, ở bên tay trái là trại tù thời chống Pháp. Ở bên này cầu là khu vực đóng quân của Vệ quốc đoàn. Đây là cứ điểm tiền tiêu bảo vệ Tuyên Hóa thời đó.
Người thân của chúng ta đã mất và chôn tại khu vực này. Nay phần mộ vẫn được người dân chăm sóc.
Cách cầu khoảng 150 mét ta gặp một ngã tư đường đất này là ranh giới tiền tiêu, nằm bên tay trái. Ta xác định được nhờ bờ lũy của đồn vẫn còn. Nay khu vực này trồng toàn cây bạch đàn, của lô đất nhà dân, nằm sát ngã tư. Khu vực phía sau lô đất nhà dân có 3 phần mộ còn lại. Nằm áp sát…
“Tờ 3.
…bờ hồ Rào Nam. Trong 3 phần mộ, ngôi mộ lớn nhất là ngôi mộ của ba. 3 phần mộ không nằm thẳng hàng. Số 1 nằm hướng đông. Đây là ngôi mộ của ba. Đầu của ba cách bờ lũy 1 mét về hướng tây. Đây là điểm bờ lũy cuối cùng. Ở điểm bờ lũy cuối cùng người ta trồng một cây khá lớn lên thẳng mới có nhánh. Dưới chân của ba có 3 viên đá nhỏ làm dấu chân. Đường chân cách bờ Rào Nam 2 mét, cách góc bờ Rào Nam 6 mét. Bờ Rào Nam là một con đường mòn về phía trong. Đây là một ngôi mộ cực kỳ linh thiêng, sẽ có nhiều huyền thoại về ngôi mộ này. Khi di dời ở độ sâu 1 mét 20,…
“Tờ 4
…không có hòm nhưng được bao bọc khi chôn. Hái cốt còn nhận ra rõ ràng, giống như một ngôi mộ kết. Đây là 1 ngôi mộ không được vun đắp nhiều, nhưng càng ngày càng to. Phía tây ngôi mộ là 1 mộ nằm sát bên.
Bản ghi lại đến đây là kết thúc.
Thầy Kh. đứng lên, lại gần tấm bảng. Thầy lấy phấn kéo một đường thẳng từ trên xuống và nói: Đây là đường Quốc lộ 1 từ bắc vào nam. Giữa lưng chừng tấm bảng, thấy kẻ một đường ngang kéo từ bờ bắc sông Gianh lên phía tây. Rồi thầy nói: từ Quốc lộ 1 đi lên chừng vài cây số sẽ gặp thị trấn Ba Đồn và đi thêm hơn 30 cây số nữa thì gặp huyện Tuyên Hóa. Đây là công đường của huyện Tuyên Hóa. Mộ của ông Nguyễn Xuân Tập được chôn tại một góc thành của huyện đường này.
Tôi nghĩ: Thầy Kh. sinh sau năm 1948 tại Nghệ An, sao thầy lại biết rành rẽ địa dư cũng như tình hình quân sự địa phương Quảng Bình như vậy?
Cũng như cố giáo sư Trần Phương, tôi là người vô thần, ít tin những gì hoang đường, dị đoan. Tuy nhiên, tôi chỉ để bụng không nói ra và tổ chức một chuyến ra Tuyên Hóa để kiểm chứng lại những điều thầy Kh. nói.
  
3.TÔI ĐI TUYÊN HÓA

Lần đi này có tôi, chú Xuân Đức và một đứa con của chú Xuân Bổng. Theo sơ đồ thầy Kh, chỉ dẫn, chúng tôi đến đúng con đường từ quốc lộ 1 dẫn lên Tuyên Hóa. Đây là quốc lộ 12 đi Cha Lo, miền Tây Quảng Bình. Chỉ đi một đoạn thì gặp ngay thị trấn Ba Đồn. Ở đây có làng Thổ Ngọa nổi tiếng có nghề chằm nón lá đẹp và bền. Có câu đồng dao: Nón Ba Đồn, lờ…Thổ Ngọa. Gái Thổ Ngọa đẹp, béo mập và trắng nõn nà vì suốt ngày ngồi nhà chằm nón. Trước đây, trong thời đánh Mỹ, ai đi công tác Khu Bốn về thường ghé Ba Đồn mua nón lá về làm quà. Tôi còn nhớ anh Lê Anh Kim, lúc này là Cục trưởng Cục Vận tải đi “vùng cán soong” (địa danh bọn giặc trời Mỹ mệnh danh cho các tỉnh bắc Trung Bộ từ Thanh Hóa vào đến Đặc khu Vĩnh Linh để tự do đánh phá trong chiến tranh phá hoại) về có mua biếu nhà tôi và chị Ngọc Bích, mỗi người 1 chiếc nón Ba Đồn.
Chúng tôi dùng xong bữa, ra chợ mua mấy thứ: nhang đèn…tiếp tục hành trình. Gần trưa thì đến xã Minh Hóa. Chúng tôi vào làng và xin ở nhờ ông bà Trần Bá Ban, một gia đình nghèo. Gia đình này từ bọ (bố) mạ (mẹ) đến các con, dâu, rể đều là những người nông dân chất phác, thuần hậu. Nhà ông Ban cách sông Rào Nậy khoảng 3, 4 trăm mét. Nương vườn có nhiều loại cây ăn trái, nhất là mít và chuối. Chung quanh có lũy tre bao bọc.
Tôi hỏi dò ông Ban, xã Minh Hóa ngày kháng chiến 9 năm có bị Tây chiếm không? Có nhiều người đi bộ đội không và có bao nhiêu liệt sĩ, tử sĩ? Ông nói rằng đây là vùng giáp ranh, Tây đi lùng ruồng bố mới đến đánh phá đốt nhà cướp của rồi rút. Chính quyền vẫn là của ta.
Sau này tôi có dịp tìm hiểu những người cao tuổi và Cựu chiến binh mới biết thêm. Bên kia rào (tiếng địa phương như sông) là làng Cao Mại, nơi có con đường rừng từ chiến khu kháng chiến Dương Hòa của Thừa Thiên, chiến khu Ba Lòng của Quảng Trị ra . Có những địa danh đã trở thành lịch sử như Ba Rền, U Bò…Đây là con đường mà ngày trước những người lãnh đạo cao cấp như ông Lê Duẩn, tướng Nguyễn Chí Thanh…đã từng đặt chân lên.
Chiều đến, tôi và Xuân Đức đi ra nghĩa trang liệt sĩ xã Minh Hóa. Tôi tìm trong những hàng bia mộ không thấy tên Ba tôi; lại đến khu trồng bạch đàn cũng không thấy như hình vẽ của thầy Kh. chỉ dẫn.
Sáng hôm sau, chúng tôi chuẩn bị trở về thì có một người khoảng hơn bốn chục tuổi, đi xe đạp tới và hỏi chúng tôi có phải là người thân đi tìm mộ của ông Nguyễn Xuân Tập không? Người đó cho biết bên Minh Cầm ngoại có nhiều người biết và nơi chôn cất ông Tập, trong đó có những cố (tiếng địa phương chỉ người cao tuổi) biết rất rõ. Tôi và Xuân Đức vội sang Minh Cầm ngoại.
Ở đây, chúng tôi đã gặp ông Hà Văn Đoài, 73 tuổi, là Cựu chiến binh. Ông Đoài là con của cụ Hà Lộc, đầu bếp của tri huyện Tuyên Hóa Tôn Thất Quỳ. Gặp ông Hà Minh Tấn, 67 tuổi, Cựu chiến binh; gặp ông Hà Xuân Tứ, 62 tuổi, nguyên là cán bộ kiểm lâm. Em ruột ông Tấn; ông Trần Trọng Bình, 52 tuổi ở gần nhà ông Đoài.
Trong cuộc gặp mặt này, các vị cho biết Ba tôi bị sốt rét ác tính và mất tại Minh Cầm. Và có ông Hà Biển, năm nay đã 83 tuổi là người cùng với một số anh em trong đơn vị tự tay trực tiếp chôn cất ông Tập.
Đây là bức thư ông Trần Bá Ban viết cho tôi. Tôi coi đây là chúng cứ tin tưởng tuyệt đối, Thư viết:
“…Ông Hà Biển ở cùng đơn vị với ông Nguyễn Xuân Tập, Trung đoàn 95. Sau khi ở Nghệ An vào, đóng quân tại Tuyên Hóa, ở vùng Minh Cầm nội. Sau ông Nguyễn Xuân Tập bị 5 ngày liền bị sốt rét ác tính nên đã bị chết.
Chính tay ông Biển đã cùng một số anh em trong đơn vị chôn cất…”
***
Như thế là đã rõ. Thầy Kh. nói không sai. Chúng tôi chưa tìm ra vị trí ngôi mộ là vì nhận định sai. Tôi bàn với Xuân Đức ta về lại La Gi gặp thầy Kh. và định ngày lên đường trở lại Tuyên Hóa để khai quật mộ.
Trước khi đi Tuyên Hóa, tôi được Mạ tôi gọi ra nhà ở khu Gia Viên, Biên Hòa để Mạ gặp. Mạ nói rằng đây là duyên may Trời định. Mạ tin tưởng con sẽ đưa được Ba con về quê nhà. Mạ đưa cho tôi một gói giấy báo, trong đó có những tờ bạc mệnh giá từ 2000 đồng đến 100.000 đồng, được bao bọc kỹ càng. Mạ nói: Mạ chỉ có từng này tiền, con mang theo mà chi dùng trong những ngày đi tìm mộ Ba. Tôi cũng cần nói rõ thêm. Vì sao Mạ đang ở nhà cô Oanh, tôi lại nói nhà của Mạ. Nguyên do là như thế này, khi qua Mỹ Nguyễn Thị Kim Cúc được chính phủ Mỹ cho một số tiền. Kim Cúc dành dụm gửi về cho cô Oanh. Khi đủ tiền Kim Cúc nhờ cô Oanh mua đất cất nhà cho Mạ ở để dưỡng già. Ngôi nhà ở Gia Viên là tiền của Kim Cúc. Đất thì của mẹ chồng cô Oanh chia cho con trai. Như vậy, Mạ tôi sẽ có nhà ở, không như bao bà mẹ khác: “Sống vô gia cư, thác vô địa táng”! Vợ chồng tôi rất biết ơn Kim Cúc đã lo chu toàn cho Mạ tôi, khỏi mang tiếng đi ở nhờ!
***
Tôi ra Hàm Tân gặp thầy Kh. và cảm ơn thầy đã chỉ đúng nơi chôn cất Ba tôi ở Tuyên Hóa. Thầy Kh. nói: Sắp tới có những gia đình cùng về Thừa Thiên và Quảng Trị tìm mộ. Tôi (tức thầy Kh,) sẽ cử 2 người cùng đi để phụ giúp việc khai quật. Đó là thầy Vịnh và một thanh niên lực lưỡng. Thầy hẹn đúng 5 giờ sáng một ngày đầu tháng 8 năm 2002 sẽ có chiếc xe 12 chỗ ngồi đến đón tôi trước cổng khách sạn Vĩnh An. Lần này, tôi đi một mình vì đã hẹn với anh Nguyễn Hậu, con cậu ruột tôi ở Quảng Trị, khi ra đến nơi tôi sẽ cùng anh Hậu đi Tuyên Hóa.
Xe được thầy Kh. sắp xếp. Đó là xe của cậu Phúc, một giáo hữu ở giáo xứ Bắc Sơn, (Hố Nai 3). Khi lên xe, tôi đã thấy có người ngồi. Đó là, ông Quang, ở tại thị trấn Vĩnh An và người chị tên Hoa, ở tận Bưng Riềng, Xuyên Mộc. Xe chạy tới chợ Xuân Đà, xã Xuân Tâm thì có thêm ông Phùng H., chủ ngôi nhà mà cứ đêm đến là áo quần trong nhà tắm bay cả ra ngoài sân. Người mà tôi đã nói tới phần đầu tác phẩm Đi tìm mộ cha này.
Tôi không hiểu vì sao bà Hoa cởi hết đồ tư trang trên người, gói vào chiếc mùi xoa nhỏ rồi đưa cho tôi bảo: anh giữ giùm em kẻo đi đường đêm hôm sợ gặp cướp! Tôi nhận và cho vào túi áo khoác. Ra đến Huế thì ông Quang và bà Hoa xuống xe để về quê ở huyện Phú Vang. Tôi đưa lại gói đồ tư trang cho bà Hoa. Theo ông Quang kể: đi lần này là để tìm mộ người cha bị Mỹ Diệm bắn chết. Theo thầy Kh. thì xác người thân hiện ở một doi cát ven làng, có những lùm dứa dại mọc trùm lên,  thân nằm úp, lưng nằm choãi ra ở phía đông, đầu hướng về phương bắc và chân ở đạp vào dãy núi hơi chếch về phía tây nam. Sau này, khi xong việc chôn cất hài cốt Ba tôi, tôi có đến thăm ông Quang và hỏi: có tìm được hài cốt người thân không? Thì ông trả lời là có.
Đến thị xã Quảng Trị, chúng tôi lại vào Nhà khách của Thị ủy. Chị Hồng, chủ nhiệm bận đưa cháu vào Đà Nẵng thi đại học. Chị giao chìa khóa phòng cho tôi và dặn khi nào đi thì trả chìa khóa cho tiếp tân. Tiền lưu trú thì được miễn. Ông Phùng H. chia tay tôi để về quê Do Linh.
Chiều hôm đó, tại Thánh đường La Vang có rất đông tín đồ, giáo hữu, linh mục khắp các nơi trong nước và nước ngoài về dự nhân Ngày lễ Đức Mẹ hiện về. Thầy Vịnh, cậu Phúc và chàng thanh niên xin phép được đi dự lễ.
Đêm hôm đó anh Nguyễn Hậu từ làng xuống ở lại Nhà khách và bàn chuyện ngày mai đi Tuyên Hóa. 5 giờ sáng xuất phát, trên xe lúc này chỉ có tôi, anh Hậu, thầy Vịnh và cậu thanh niên và Phúc lái xe. Đoạn đường sẽ đi là Quảng Trị - Đồng Hới 112 km. Đồng Hới tới ngã ba rẽ lên quốc lộ 12 là 40 km. Ba Đồn lên Tuyên Hóa (Minh Cầm) là hơn 30 km. Gần trưa thì đến thị trấn Ba Đồn. Chúng tôi ghé quán cơm ăn vội rồi ra chợ mua hoa, nhang đèn, giấy điều, cuốc, rựa, bay. Quá ngọ thì chúng tôi đến Minh Hóa, vào nhà ông Trần Bá Ban. Ông Ban rất vui là chúng tôi đã ra tìm mộ. Ông và con dâu cùng sang nơi khai quật. May mắn, lúc này chúng tôi gặp được ông Thuần là thôn trưởng. Ông Thuần dẫn chúng tôi đến Minh Cầm và chỉ cho chúng tôi nơi này là khu đất trước đây là công đường của huyện Tuyên Hóa. Trước Cách mạng Tháng 8, có một ông trong hoàng phái tên là Tôn Thất Quỳ trị nhậm.
Đúng như chỉ dẫn của thầy Kh. Ở một cạnh thành, có cây bạch đàn mọc lên cao mới ra cành. Đúng là cách bờ Rào Nam chừng trăm mét có một đám đất nhô cao. Người dân trồng chuối. Tôi xin phép trưởng thôn chặt bụi chuối. Thầy Vịnh bày hoa, nhang và thắp nến lên.  Thầy khấn những gì thì tôi không được biết vì tiếng nói nhỏ quá. Tôi bổ nhát cuốc đầu tiên. Chàng thanh niên lực lưỡng tiếp tục công việc. Đến khoảng hơn 1 mét thì đã thấy hiện ra một tấm gỗ bìa (chắc là để ghi tên người nằm dưới mộ). Tấm gỗ chỉ mục phần giác, còn phần lõi thì vẫn y nguyên, nhưng chữ thì không còn. Tôi đoán chắc có lẽ gỗ ngâm lâu ngày nó sẽ bền chắc lại. Cẩn thận, thầy Vịnh lấy bay khều nhẹ các lớp đất và xúc đổ lên bờ huyệt. Một hình thù giống như hình người hiện ra. Thầy Vịnh nói: hài cốt của Ba tôi đã hoàn thổ, trở về cát bụi! Tôi đưa chiếc va-li (của Nguyễn Triệu Quang, con trai cả của tôi mang từ Tiệp Khắc về)  đã được lót giấy điều, để thầy Vịnh xúc toàn bộ chỗ đất màu nâu thẫm, có hình người vào va-li. Con dâu của ông Trần Bá Ban đã vào chợ Minh Cầm mua bánh ướt. Tôi bảo mọi người ngừng tay và ăn lót dạ bánh ướt. Xong việc khai quật, cậu thanh niên lực lưỡng cuốc đất lấp lại hố huyệt mộ. Để tranh thủ về làng kịp trước giờ Tý, chúng tôi cảm ơn ông bà và các con cháu ông Trần Bá Ban và lên đường.
Xe qua cầu Gianh, đến thị trấn Hoàn Lão thì dừng lại. Chúng tôi vào quán ăn tối và sau đó vào một cửa hàng đồ gốm mua một cái tiểu sành. 10 giờ đêm thì xe chúng tôi về tới làng. Thầy Vịnh, cậu thanh niên lực lưỡng cùng chủ xe Phúc xin phép được tạm biệt chúng tôi và về Nam trước.
Tôi và anh Hậu khiêng chiếc va-li và cái tiểu sanh đi ra lăng gia đình. Trăng thuợng tuần đã lặn từ lâu. Nghĩa địa chỉ còn ánh sáng lờ mờ của dải Ngân hà rọi xuống và gió thì miên man không ngừng thổi. Tôi thắp nhang khấn với tổ tiên ông bà là tôi đã đưa Ba tôi về với quê hương bản quán. Tôi đưa va-li hài cốt vào để trước tấm bia lớn trong lăng. Trời còn lâu mới sáng, cho nên tôi nằm tạm xuống chiếc ghế băng dài do cậu em, con bà cô ruột tôi đưa ra lăng từ chiều. Anh Hậu nằm tạm lên thành lăng. Tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nằm chung với những người đã khuất. Dưới những ngôi mộ kia là các cụ sơ, cụ cố, ông bà nội, các chú, cô và các em tôi. Đến gần 4 giờ sáng, tôi chợt thức giấc thì những ngọn đèn và hương đều đã tắt. Tôi sợ quá, gọi anh Hậu dậy và hai anh em thức cho tới sáng luôn.
  
3.     BA TÔI ĐÃ VỀ ĐẾN QUÊ NHÀ

            Tôi điện thoại cho Mạ và các em tôi, báo rằng đã tìm được mộ Ba. Mạ và các em ra ngay Quảng Trị để viếng Ba và dự lễ truy điệu.
Trước đó, em con chú Tịch tôi là Nguyễn Thị Túy đã làm đơn gửi Trưởng thôn trình xin mai táng hài cốt (bác ruột). Đơn viết:
Tên tôi là Nguyễn Thị Túy hiện ở Đội 4, thôn Đại Hào là cháu của bác Nguyễn Xuân Tập,
Kính trình xin quý cấp một việc như sau: Bác tôi đã từ trần thời kỳ chống Pháp tại Quảng Bình. Nay chúng tôi đưa về mai táng tại Lăng mộ (gia đình) xứ Bề Miếu. Gia đình chúng tôi kính trình xin Ban thôn lễ hạ huyệt hài cốt. Xin 1 ông chấp lễ (lạy), 3 ông chấp lệnh (tiểu cổ, chiêng, trống), 2 ông Văn lễ.
Chương trình lễ
Vào …giờ…ngày…tháng…năm 2002
Lễ hạ huyệt, Tạ Thổ thầ, lễ Thành phần.
Trong thời gian Lễ mai táng, gia quyến kính mời Ban dự sự lễ, văn tế. Sau lễ kính mời Ban thôn dùng chén rượu lạt với gia quyến.
Gia đình chúng tôi rất mong được sự quan tâm của quý cấp.
Còn tôi, ngay sáng hôm sau ở Tuyên Hóa về, tôi bàn với anh Hậu và các em ở làng là nên hạ huyệt ngay, không để hài cốt Ba tôi lưu lại dương gian. Tôi chạy đi mời bác Trưởng tộc Nguyễn Ngọc Duệ, chú Trưởng chi Nguyễn Ngọc Hoát và dượng Ngô Xuân Duy, chồng o ruột tôi Nguyễn Thị Bút ra lăng để tiến hành lễ hạ huyệt.
 Mâm lễ chỉ có hương hoa và rượu. Ông Trưởng tộc Nguyễn Ngọc Duệ đọc bài Văn cúng tạ Thổ thần. Các cụ khấn vái xong cho người hạ huyệt cái tiểu sành đựng hài cốt xuống. Huyệt đã được chuẩn bị sẵn từ mấy ngày trước.
Bài Văn cúng tạ Thổ Thần mộ địa như sau:
Cung duy thổ thần!
Việt Nam tuế thứ Quý Mùi niên, chính nguyệt kiến Giáp Dần, sóc Ất Tỵ việt thập tứ nhật Mậu Ngọ. Quảng Trị tỉnh, Triệu Phong huyện, Triệu Đại xã, Đại Hào thôn, hiện cư ngụ tại miền Nam về quê quán.
Tự tôn hiếu chủ Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Ngọc Bổng, Nguyễn Thị Túy đồng hiếu quyến nữ hôn, tôn, tế, điệt nam nữ nội ngoại tâm thành cẩn dĩ phẩm vật phỉ nghi cẩn diệu cáo vu.
Bổn thôn Bài Miếu xứ Thổ địa chính thần vị tiền.
Long mạch thần quan
Tiền châu tước, hậu huyền võ, tả thanh long, hữu bạch hổ, tứ đại thần tướng, ngũ phương liệt vị thổ thần. Thị tòng bộ hạ, hộ vệ thân tín liệt vị.
Viết:
Cung duy thổ thần
Kim vì hiếu quyến Tằng tổ khảo Nguyễn Văn Doãn tịnh bà
                               Hiển tổ khảo Nguyễn Xuân Lạn tịnh bà
                                Hiển khảo Nguyễn Xuân Tập
                                Hiển thúc Nguyễn Xuân Tịch
                                Bào cô Nguyễn Thị Nghiện
                                Nội thân huynh đệ tỷ muội tảo vong sa sảo.
            Yêm khí trần thế, kép sinh an táng vu bổn xứ lăng nội chi nguyên thiết địa táng cát hung, sự quan họa phúc, nguyên khắc tướng, ký tư ư thần lực, nguyên tòng tâm hoạch toại ư nhâm mưu, ngu lâu thường tình, bất thăng cảm hạ. Tư nhàn mộ phần ký định, lăng bia tân tạo hoàn hảo huy hoàng, mộ phần tu trúc cao nấm ấm mồ như ý cẩn trạch, nhật bái tạ tôn thần giáng phúc phò hộ!
Phục vọng: Đức đại tải trì, mặc thùy giám cách, tỷ liệt hương linh, vĩnh vô hậu gian, đồng tộc khương an, trường diên phúc khánh.
 Cẩn cáo văn
Hiếu quyến đồng phụng bái!
Cung hiệp mẫu
Tự tôn: Hiếu chủ Nguyễn Xuân Bảo
                            Nguyễn Xuân Bổng
                            Cung kính bách bái!
Bài văn, bác Nguyễn Ngọc Duệ viết dùng nhiều chữ Nho. Bác Duệ là một nhà giáo dạy chữ Hán. Dân làng thường gọi là ông Giáo Duệ. Bác rất được dân làng quý trọng.
Ở nhà, cô Túy cùng các em con các mụ o tôi lo bày biện lễ cúng. Tiệc được thuê nhà hàng nấu và đưa tới, kể cả phần rạp. Mạ và các em tôi từ Biên Hòa ra kịp giờ dự lễ truy điệu. Khách khứa, bà con trong làng và các làng lân cận như Quảng Lượng, Mỹ Lộc đã tề tựu đông đủ.
 Được phép của Mạ tôi, tôi thay mặt gia đình đọc bài Văn điếu như sau:

VĂN ĐIẾU
Lễ Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập
Ngày 10 tháng 7 năm Nhâm Ngọ - 18/8/2002.
Sau 54 năm thất lạc, nay đã tìm thấy hài cốt của chồng, cha, ông chúng tôi là ông Nguyễn Xuân Tập, sinh năm 1908 (Mậu Thân). Quê quán: làng Đại Hào, tổng An Cư, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nay là thôn Đại Hào, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Đó là một hạnh phúc lớn của gia đình chúng tôi!
Tháng 8 năm 1945 ông Nguyễn Xuân Tập tham gia cướp chính quyền tại phủ Triệu Phong. Ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công, ông gia nhập Vệ Quốc đoàn, vào Chi đội Nguyễn Thiện Thuật, tiền thân của Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 của Bình Trị Thiên. Ông đã kinh qua các chức cụ: Phái viên quân sự phụ trách huấn luyện dân quân du kích; tiểu đoàn trưởng; tổng đội ban trưởng và trưởng phòng quân nhu Trung đoàn.
Trong suốt những năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, nhất là từ năm 1948 đến ngày ký Hiệp định Genève (1954), gia đình chúng tôi không nhận được tin tức gì về ông. Chỉ biết rằng ông từ giã gia đình vào ngày 10/10/1948 (nhằm ngày 12 tháng 9 âm lịch). Sau này gia đình chúng tôi lấy ngày ra đi đó của ông làm ngày Kỵ (Giỗ). Cái chết của ông được coi là mất tích trong chiến tranh.
Nhiều năm qua, gia đình chúng tôi đã ra sức dò hỏi, tìm kiếm nhưng đều vô vọng!
Năm 2002 này gia đình chúng tôi may mắn được người mách bảo chỉ dẫn và tìm được mộ phần của ông và biết được một số thông tin về ông. Ông Nguyễn Xuân Tập đã từng đóng quân ở huyện Tuyên Hóa. Ông bị bệnh mà chết và được đồng đội chôn cất tại thôn Minh Cầm Ngoại, xã Phong Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Ngày 14 /8/2002, gia đình chúng tôi đã tổ chức di dời hài cốt ông về làng Đại Hào, cát táng trong lăng cùng những người thân quá cố.
Ngày 18/8/2002, gia đình chúng tôi mời chính quyền địa phương và bà con thân tộc nội ngoại và bạn bè gần xa đến dự lễ Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập tại nhà thờ tổ tiên, vốn là nơi đã sinh ra ông.
Bài Văn ai do ông Nguyễn Ngọc Duệ, trưởng tộc họ Nguyễn tám phái, làng Đại Hào đọc trong buổi lễ tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập.
                                                                        Trưởng nam Nguyễn Xuân Bảo
Kính cáo
                                                                        ***
            Tiếp theo chương trình, bác Giáo Duệ đã phụng độc bài Chín chữ cù lao – Công cao đức đại, (Thập thủ liên hoàn). Toàn văn như sau:
                        Ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Ngọ
            Tiết phụ, hiếu tử, từ tôn, đồng hiếu quyến
Cẩn cáo vu
Nghiêm phụ tánh Nguyễn Ngọc, húy Xuân Tập, thụy Trung Dũng
 chi hương linh tọa tiền
Kính thưa:
Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã. Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiếu thiên vọng cực, tận tâm ý thức
Cửu tự cù lao – Công cao đức đại. Tam xuân nhụ bổ, nghĩa trọng ân thâm.

Thiết niệm:
                                     I
Ân cha như biển cả tày non
Sực nhớ chin chìu ruột héo hon
Gia đạo nghiêm minh lo dạy vợ
Sinh nhai lam lũ liệu nuôi con
Ẳm bồng tay mẹ khi thơ ấu
Dạy dỗ công cha lúc lớn khôn
Vời vợi ơn sâu tròn chin chữ
Tác thành nữ giá với nam hôn
                        II
Nam hôn nữ giá gái cùng trai
Định liệu cho con vẹn cả hai
Xây dựng cửa nhà yên hiện tại
Kinh doanh sự nghiệp vững tương lai
Mong con mạnh khỏe không tai bệnh
Muốn cháu làm ăn có lợi tài
Hiếu trọng tình thâm đâu dễ trả
Tấm lòng chi xiết nỗi bi ai!
                        III
Bi ai gan ruột tựa như dầu
Châu lệ đôi hàng giọt ướt bâu
Cúc dục chưa đền ơn chin chữ
Sinh thành khốn trả hiếu nghìn câu
Trước bàn hương ngát dâng đôi nén
Trên án rượu ngon tiến một bầu
Trời biển công cha cao rộng lớn
Nghìn vàng chưa dễ trả ơn sâu

                        IV
Ơn trả chưa xong ruột rối bời
Cha về vui thú cảnh bồng lai
Màn loan nệm gấm còn đây mãi
Phách quế hồn hoa vẫn nhớ hoài
Gậy trúc đứng bên bàn sảnh tọa
Mũ rơm lạy trước án quan tài
Thương cha con biết lòng đau đớn
Khốn nỗi tang thương cuộc đổi dời

                        V
Đổi dời bể thẳm hóa cồn dâu
Riêng để cho con một mối sầu
Thảm bấy vùi hoa ngoài địa phủ
Giận thay chấm sổ đấng thiên tào
Chơi mây rong ruổi xe hoàng hạc
Qua cửa lẹ làng bóng bạch câu
Thấm thoắt đời người như ánh chớp
Nhớ thương con cháu ruột gan bào
                        VI
Gan bào ruột thắt nhớ cha xưa
Gian khổ lòng đau quặn gió mưa
Giữ mực sớm cần cùng tối kiệm
Mặc ai khuya rượu với mai trà
Xóm làng tông tộc lòng hâm mộ
Con cháu xa gần tiếng ngợi ca
Những tưởng cha già còn mạnh khỏe
Dâu ngờ vội tắt bóng ngày qua


                        VII
Ngày qua giấc mộng tịt mù trông
Chỉ thấy gò hoang giữa cánh đồng
Nhạn đậu hồng bay bao tuế nguyệt
Thỏ tà ác lặn mấy thu đông
Thành sầu dế đắp đầy phần mộ
Lưới thẳm nhện giăng khắp cánh thung
Tối viếng sáng thăm nào có thấy
Con ngồi nhớ bố cháu trông ông
                        VIII
Con ngồi nhớ bố cháu trông ông
Sực nhớ nhà thung lệ ứa hồng
Lầu hạc tiêu diêu bao nắng hạ
Canh gà xao xác mấy mưa đông
Loan xa phượng cách mơ hình bóng
Yến rẽ oanh chia tưởng dáng dong
Núi Hỗ trông cha nào có thấy
Kêu trời khôn thấu giữa thinh không
                        IX
Thinh không vắn thở với dài than
Cha đã xa chơi mấy dặm ngàn
Cõi Phật cửa hoa nơi cực lạc
Non Bồng nước Nhược chốn thanh nhàn
Buồn tình muôn hộc đong nào hết
Thảm lệ đôi hàng chảy khó ngăn
Cảnh có vui đâu phiền não chuốc
Hoa tàn cỏ úa nỗi sầu chan



                        X
Sầu chan cảnh vật ngắm buồn tênh
Đau xót bồi hồi cuộc tử sanh
Lễ bạc kính dâng ly rượu ngọt
Lòng thành xin rót chén trà thanh
Nhớ ghi cúc dục bao công đức
Báo đáp quyên ai bấy hiếu tình
Phủ phục kính thành quỳ trước án
Nguyện cầu siêu thoát chốn u minh!

            Phục vọng thân sinh
Lục nga thi vịnh lệ triêm khâm
Báo bổ vô cùng hiếu tử tâm
Mộc bổn thủy nguyên, ân mạc trắc
Càn sinh, khôn dục, đức vưu thâm
Huân hao trở đậu thành lai cách
Phưỡng phất âm dung tựa hữu lâm
Đạo đại đức hoằng nhân cảm mộ
Hiếu tư duy tắc cổ như kim
                        Tử
                        Nữ
                        Hôn
                        Tế
                        Tôn
                                    Điệt nội ngoại
                                    Cung hiệp mẫu
đồng ai bái!



Kính thưa hương hồn Mạ!
            Như vậy là con đã hoàn thành sứ mệnh Mạ giao cho: Đưa được Ba con về với quê hương bản quán; được sum vầy cùng những người thân quá cố trong Lăng gia đình; thỏa mãn được lòng mong đợi tiếc thương người chồng vô cùng kính yêu của Mạ; thỏa lòng chúng con khỏi băn khoăn áy náy bấy lâu nay!
            Nhân đây, thay mặt gia đình tôi tỏ lòng biết ơn thầy Nguyễn Bá Khai, người đã giúp chúng tôi tìm ra mộ Ba tôi; cảm ơn chính quyền thôn Minh Cầm; cảm ơn gia đình ông Trần Bá Ban; cảm ơn họ hàng thân bằng  quyến thuộc và bè bạn đã đến dự Lễ Tưởng niệm Ba tôi!
            Tôi cũng xin thành thật hoan nghênh Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người (UIA) được thành lập và đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Trung ương Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, đã giúp nhiều nhà ngoại cảm tìm ra mộ liệt sĩ đã ngả xuống vì nước Việt thân yêu!
Bên bờ Phước Long Giang, sáng ngày 19/9 Mậu Tuất, nhằm ngày 27/10/2008
Nhà thơ Mai Lĩnh Sơn Xuân Bảo.