Tác phẩm dự Trại
viết Đà lạt 2013 của Xuân Bảo
DÒNG SÔNG
KÝ ỨC
Bút ký của Xuân Bảo
Khúc
dạo đầu
- Chuyện
tình bên thác Đá Hàn
Chuyện
kể rằng: Ngày xửa ngày xưa, Nguyễn Việt Kinh – chàng trai miệt dưới
–vùng gần biển vào rừng để diệt thú dữ, bảo vệ dân làng. Trong lúc
mải miết theo dấu chân con cọp ba móng, chàng trai đi lạc vào lãnh
thổ của bộ tộc người miền thượng ở khúc sông có những phiến đá
khổng lồ nằm ngang chặn dòng. Nước cuộn lên ào ào thành thác dữ. Chàng
trai bị bắt làm tù binh. Những ngày tháng bị giữ chân, chàng trai đã
tỏ rõ thiện chí của mình.Anh giúp dân bản nhiều việc: dựng lán,
trồng lúa nước,săn bắt thú rừng…Chính lòng dũng cảm và tài năng
của mình nên được già làng và dân bản cho chàng trú ngụ và coi như
người của núi rừng. Chàng được đóng khố và tham gia mọi sinh hoạt
của dân bản.Chàng học hát những bài dân ca do Ka Rỉn hướng dẫn. Đặc
biệt là những bài hát Kinh Tơ Lơ Thoang (Trống chiêng cầu thần),Vơn
Ngoăn Trôp Mi (Hát múa cầu mưa)…Việt Kinh thuộc rất nhanh và lúc vào
mùa lễ hội cúng mừng lúa mới Sa Yang Va.Việt Kinh cũng là một chàng
trai sáng ý,anh học và sử dụng được các
nhạc cụ như đàn tre, kèn môi, kèn lá, kèn bầu và tham gia nhóm
cồng chiêng khá thành thạo. Việt Kinh là một chàng trai khỏe
mạnh,vóc người tráng kiện, khuôn mặt dễ mến và nụ cười cởi mở,
thân thiện. Ka Rỉn, con gái già làng vừa đến tuổi trăng tròn lẻ,
nàng đẹp như bông hoa rừng, đem lòng yêu thương Kinh.
Có
nhiều đêm hai người đưa nhau ra bờ sông, cùng ngồi trên những bậc đá
hàn,lắng nghe thác réo như một bản nhạc trầm hùng của núi rừng.Bầu
trời trên cao dường như rộng hơn,xanh trong hơn.Gió mơn man ve vuốt khuôn
mặt non tơ của nàng.Chàng kể cho nàng nghe về quê hương xứ sở của
chàng.Nơi đó có biển cả mênh mông, ngày đêm rì rào sóng vỗ.Nơi đó
có đồng ruộng trồng lúa nước và kênh rạch chằng chịt lắm tôm, nhiều
cá.Chàng nói rằng xa cha mẹ đã ba mùa rẫy. Chàng nhớ lắm! Ka Rỉn
nghe chàng nói càng thương người con trai vốn xa lạ trước đây nay đã
thành người của bản làng, thành người của Ka Rỉn và chỉ còn chờ
già làng cho làm lễ đâm trâu để Kinh mãi mãi là của Ka Rỉn.
Bất
giác Ka Rỉn ngả đầu vào lòng chàng.Hai bầu vú tròn căng của nàng
rung lên dưới ánh trăng bàng bạc theo tiếng nấc.Đêm đến sức mạnh của
tâm hồn trỗi dậy.Bản năng gốc của con người cũng không thể kìm
chế.Rừng đại ngàn vẫn rì rào hát những lời ca sinh sôi muôn
thuở.Thác vẫn gầm réo, sôi trào. Việt Kinh và Ka Rỉn cuộn vào nhau
như hai con trăn.Trong hỗn mang vũ trụ đó có cái gì như là sự sống
trỗi dậy chân thực và cao cả.Hai giọt sáng của vầng trăng trên cao
phản chiếu đọng lại trong đôi mắt Ka Rỉn long lanh, khi nàng ngước nhìn
lên trời.Con chim rừng quên hót.Những chú nai ngơ ngác.Đêm thanh cao
tĩnh mịch làm sao!Họ đã cho nhau tất cả trong tận cùng yêu thương.
Ka Rỉn biết rằng nếu Kinh quá nhớ quê,
nhớ cha mẹ mà ra đi thì không thể nào thoát chết.Luật tục quy định
người nơi khác đến sinh sống tại vùng đất thiêng của Giàng thì không
ai được đi khỏi bản.Và cái việc Việt Kinh và Ka Rỉn trở thành vợ
chồng rất khó thành.Mãi mãi không bao có chuyện “chọc gậy” từ phía
dưới sàn nhà nơi buồng ngủ của Ka Rỉn để Ka Rỉn lén cha mẹ cho Việt
Kinh vào ngủ chung. Theo luật tục hôn nhân ngàn đời nay, Ka Rỉn biết
rằng chẳng bao giờ nàng bắt chồng Việt Kinh được. Tuy nhiên nàng vẫn
yêu chàng tha thiết, mãnh liệt. Rồi có một đêm ông trăng mải chơi quên
tỏa sáng cho núi rừng, chàng ôm chặt Ka Rỉn vào lòng và nói lời
giã biệt. Những chòm sao trên cao thôi nhấp nháy.Gió núi ngưng thổi.Trời
buồn. Đất cũng buồn lây theo những giọt nước mắt của Ka Rỉn trong
lúc họ sắp chia tay.
Người dân tộc canh giữ bản làng rất
kỹ.Khi Kinh vừa bước lên cây cầu độc đạo do một cây cổ thụ nằm đổ
ngang sông thì hai bên bờ sông hàng loạt tên từ những chiếc nỏ bắn ra
tua tủa. Chàng trai ngã xuống dòng sông định mệnh. Ka Rỉn nhảy từng
bước một trên dãy đá hàn và nàng chọn chỗ nước sâu nhất trầm mình
theo người yêu. Đôi trai tài gái sắc biến thành hai tượng đá ngày đêm
khóc than cho mối tình tuyệt vọng của mình. Dãy đá đó được mang tên
là Đá Hàn Kinh Rỉn.Và đó chính là nơi mà sau này thường gọi là
thác Trị An.
Thác
Trị An là bậc thang thứ chín của dòng Đồng Nai, nơi có chiếc cầu thiêng
mà chàng trai Nguyễn Việt Kinh cố công vượt qua để tìm về cố hương.
Nơi đó cũng từng chứng kiến một mối tình đẹp giữa đôi lứa không phân
biệt nòi giống dân tộc. Người thiếu nữ chết theo người mình yêu.
Nước mắt của nàng chảy thành dòng nước gầm réo suốt ngày đêm giữa
đại ngàn hoang sơ. Sức mạnh của tình yêu lứa đôi là bất tử!
Ngày
nay, khi thác Trị An đã chìm vào bể nước mênh mang của hồ thủy điện,
khi đêm về, giữa một vùng trời êm ả, người ta lại nghe giai điệu buồn
của một bài dân ca:
“Nhớ lắm, ngày ấy
chúng mình lúc mới gặp nhau
Kỷ niệm còn đó,
những ngày ta là một đôi
Đẹp như đôi cánh
diều/Trâm cài trên làn tóc dài
Tình mình đẹp, đẹp
lắm như cây rừng mãi mãi tươi xanh
Này người yêu ơi! Lâu
chẳng thấy nhau/Em nhớ nhớ anh nhiều
…Này người yêu ơi! Sao
mãi không về?
Có ai đó đã từng ví von hình ảnh sống
động của dòng Đồng Nai phía trên thác Trị An như một sơn nữ kiều
diễm, hồn nhiên, đầy sức sống. Chảy đến thác này dòng sông bỗng hóa
thân làm người thiếu nữ hiền hòa, êm dịu đổ vào vùng bình nguyên
với dòng nước bao dung ôm lấy những cù lao Thạnh Hội, cù lao Nông Nại
Đại Phố,êm xuôi trôi về biển cả.
Nơi
đó, chính là nơi dòng Đồng Nai bị chặn đứng để đắp đập ngăn sông và
đập tràn.Đập ngăn sông được đắp bằng đất đá hỗn hợp, dài 420 mét,
cao 40 mét, đỉnh đập rộng 10 mét. Đập tràn xả lũ dài 150 mét, có 8
khoang tràn, mỗi khoang rộng 15 mét với 8 cửa van, được đóng mở bằng
cẩu chân dê nặng 125 tấn nhân đôi. Công trình thủy điện này được coi
là “công trình thế kỷ” của thế kỷ 20, khi Việt Nam ta đã đánh thắng
đế quốc Mỹ.Chúng ta sắp xếp lại giang sơn, “đàng hoàng hơn,to đẹp
hơn”.
Dòng
Đồng Nai bị đánh thức.Dòng sông biến thành một biển hồ rộng tới 323
kilômet vuông với dung tích tổng
cộng là 2 tỷ 760 triệu mét khối, dung tích hữu ích là 2 tỷ 540
triệu mét khối. Có 4 tổ máy với tổng công suất thiết kế 400 MW cho
sản lượng điện trung bình hàng năm là 1,7 tỷ KWh. Công trình Thủy
điện Trị An có ý nghĩa kinh tế tổng hợp.
Tôi
có một ý tưởng ngộ nghĩnh là vào thời điểm những năm cuối Thế kỷ
20 và sắp bước sang Thiên niên kỷ thứ III bỗng nhiên sông Đồng Nai mang
thai và sản sinh ra những đứa con thủy điện, đem lại biết bao điều
mới mẻ cho một vùng đất màu mỡ này.Tôi có bài thơ Trị An đây, trong
đó có mấy câu:
“Dòng sông ngăn bước
nước dâng tràn
Thủy điện sôi trào
thác Trị An
Động Ó tưng bừng
vùng sinh thái
Đồng Trường rộn rã
chốn tham quan…”
Phía dưới đập tràn chừng non
nửa cây số, một chiếc cầu bê-tông nằm vắt ngang.Năm 1991, khi khánh
thành công trình thủy điện Trị An, cầu mang tên là cầu Cứng sau đó
đổi lại tên là cầu Đồng Nai.Đứng
trên chiếc cầu này nhìn xuống lòng sông nay chỉ còn trơ lại những
bãi đá hàn với nhiều hình thù quái dị.Có hai tảng đá trồi lên từ
một dòng nước trong mát. Tảng lớn như một chàng trai lực lưỡng ôm
lấy tảng nhỏ như vuốt ve, che chở.Lòng ta bỗng thấy xốn xang, có phải
đây chính là nơi Việt Kinh đã bước qua chiếc cầu tự nhiên bằng một
cây cổ thụ đổ ngả ngang sông thuở nào? Bóng dáng Ka Rỉn và Việt Kinh
ngày nào đã hiện hình trên hai tảng đá trong bãi đá hàn này chăng?
***
Hai chữ Đất và Nước bao giờ cũng đi
liền nhau.Với nghĩa rộng Đất Nước chính là Tổ Quốc. Và ở bất kỳ
nơi nào trên dải đất hình chữ S thân yêu này đều có những con sông đem
lại sự sống cho con người. Mỗi con sông đều có sự tích của nó, có
những huyền thoại sống mãi trong lòng mọi người, từ đời này sang
đời khác.
Sông
Đồng Nai là một trong hai con sông dài nhất của Việt Nam. Sông bắt
nguồn từ vùng núi phía bắc thuộc cao nguyên Lang Biang, nam dãy Trường
Sơn ở độ cao 1770 mét. Cao nguyên Lang Biang có nhiều ngọn núi đỉnh
tròn. Nhất là đỉnh Lâm Viên cao tới 2167 mét, đỉnh Bi Đúp cao 2287
mét.Thung lũng phần nhiều là rừng cây thưa,mặt dốc.Độ dốc sườn núi
thường là 20-25%.Hướng chảy chính của sông là đông bắc – tây nam và
bắc-nam.Sau khi hợp lưu với hai nhánh Đa Nhim và Đa Dung,sông Đồng Nai
chảy vòng bao lưu vực sông La Ngà là 4100 kilômet vuông, hợp lưu với con
sông này để rồi chảy qua nhiều thác ghềnh mà thác cuối cùng là
thác Trị An. Tại hạ lưu thác không xa, sông lại nhận thêm dòng chảy
của Sông Bé tai ngã ba Hiếu Liêm,có diện tích lưu vực lên tới 8200
kilômet vuông.Đại bộ phận các lưu vực này là đất phong hóa từ đá
bazan, có độ phì cao và có khả năng giữ ẩm cho cây trồng trong mùa
khô.Sau khi qua thác Trị An, sông Đồng Nai đi vào đỉnh tam giác châu và
trở nên rất thuận lợi cho giao thông thủy. Từ thượng nguồn đến hợp
lưu với sông Sài Gòn,dòng Đồng Nai chính dài khoảng 530 km.Đoạn sông
Đồng Nai tiếp theo từ đó tới chỗ gặp sông Vàm Cỏ có tên là sông Nhà
Bè dài 34 km.Toàn bộ chiều dài sông Đồng Nai đến cửa Soài Rạp ước
khoảng 586 km.
Sông Đồng Nai là chứng tích của những
người đi mở đất cách nay hơn 300 năm trước.Sĩ phu yêu nước Nguyễn Thông
(1826-1891)- quan Dinh điền sứ Bình Thuận - là người đầu tiên tổ chức thám hiểm
vùng đất giữa ba con sông La Ngà, Đạ Huoai và Đồng Nai với ý định
khai khẩn vùng thượng du. Ông phái Nguyễn Văn Trị, Sĩ Văn Long, Hoàng
Phú và Dương Văn Long đến sông Đạ Đờng (tên sông Đồng Nai phía thượng
lưu) xem xét thực trạng.Ngày 11 tháng 8 năm Tự Đức thứ 30, tức ngày
17 tháng 9 năm 1877, Nguyễn Thông dâng sớ lên Triều đình. Sớ tâu:
“Ngày mùng 8 tháng 6
thì đến sông lớn Đạ Đưng, rộng khoảng năm sáu mươi trượng, nước đục
ngầu, giữa có đảo dài. Người Man gọi nước là Đạ, lớn là Đưng, cũng
như người Việt nói là “Sông Lớn”.Đạ Đưng, người Việt gọi là Dã
Dương, hạ lưu thì gọi là sông lớn Thần Quy. Từ Man Mê Pu đi đến sông Tô
Sạ, dọc đường phần nhiều là núi cao, từ Cồn Hiên đến sông Đạ Đưng
đều là đất bằng, địa thế rộng rãi khoáng khoát, có thể khám xét
để lập đồn điền khẩn hoang”.
Đó
là hành trình thứ nhất và Đoàn của ông dừng lại ở Cồn Hiên, tức
Bảo Lộc hay còn gọi là B’ Lao bây giờ.Bốn năm sau hành trình thám
hiểm lần thứ nhất của ngài Nguyễn Thông, khi cuộc thôn tính Nam Kỳ
của thực dân Pháp đã vào thế ổn định, bác sĩ hải quân Pháp tên là
Paul Neis dẫn đoàn của mình khởi hành ngày 11 tháng 2 năm 1881 theo lộ
trình được ghi lại trong báo cáo gửi Toàn quyền Đông Dương và Thống
đốc Nam Kỳ như sau:
“…Ngày 20 tháng 2 năm
1881 Đoàn đến Damré (Đạ M’ri, nay thuộc huyện Đạ Huoai, Lâm Đồng).Ngày
3 tháng 3 Đoàn đến Conhein (tên cũ của Bảo Lộc).Ngày 5 tháng 3 Đoàn
đến Cayon (K’Don nay thuộc huyện Đức Trọng). Ngày 11 tháng 3 Đoàn đến
Crang (K’răng).Cùng ngày Đoàn đến Diom. (K’răng và Đi ôm nay thuộc huyện
Đơn Dương). Ngày 15 tháng 3 Đoàn đến Melone (M’ Lon nay là thị trấn
Thạnh Mỹ-Đơn Dương).Ngày 16 tháng 3 Đoàn đến Late (Đà Lạt hiện nay),
rồi Đoàn đến thẳng Pateing (Păng-tê-iêng nay thuộc huyện Lạc Dương) và
ngày 7 tháng 4 năm 1881, Đoàn trở về Late…”
Như thế Paul Neis đã đi theo dòng sông
Đồng Nai từ hạ nguồn cho tới Đồng Nai Thượng mất gần ba tháng, nhưng
chỉ ghi được các số đo về khí tượng và nhân trắc học (Mesures
anthropométriques) của bản địa mà thôi. Báo cáo không hề đề cập đến
con sông mà đoàn của Neis dã đi qua (?)
Chiến
công lớn nhất để khai phá ra miền đất có những ngọn núi đỉnh tròn
hình vú chuông này- nơi những con suối tụ về để hình thành con sông
Đồng Nai- trước hết thuộc về bác sĩ Alexandre John Emile Yersin.Trong
hồi ký “Khảo sát đầu tiên cao
nguyên Lang Biang”của mình, Yersin đã ghi những lời có cánh:
“…Vừa
ra khỏi rừng thông, ấn tượng của tôi thật sâu sắc khi đứng trước một
vùng cao nguyên mênh mông, hoang vắng và trơ trọi, gợi nhớ lại cảnh
biển đông vì một đợt sóng khổng lồ màu xanh dâng lên, núi Lang Biang
sừng sững ở chân trời phía tây bắc cao nguyên, làm tăng thêm vẻ đẹp
của cảnh quan và tạo nên một hậu cảnh tuyệt mỹ…”
Và
cũng phải công bằng mà nói thì những người tiếp tục khám phá,
nghiên cứu về dòng Đồng Nai kỳ vĩ là những cán bộ địa chất Việt
Nam.Họ đã vất vả lội suối, băng ngàn tìm về ngọn nguồn của dòng
sông để đưa vào bản đồ sông ngòi Việt Nam.Từ đó chúng ta càng hiểu
hơn về non sông gấm vóc của mình, để càng yêu đất nước mình hơn.
Trên
con sông Đồng Nai, từ xa xưa cho tới bây giờ, hai bên bờ ghi đậm những
chiến tích của tiền nhân và cả thời cận đại trong hai cuộc chiến
tranh vệ quốc đánh Pháp và đuổi Mỹ.Lũy cản dòng của Nguyễn Tri
Phương còn đó mà dấu tích chỉ còn
lại là ngôi đền ở làng Mỹ Khánh,bên hữu ngạn sông Đồng Nai.Còn đó,
gần bến đò An Hảo có Nhà bia Tưởng niệm Đại đội Lam Sơn.Và đây,
Tượng đài Chiến thắng La Ngà,ghi lại chiến tích của trận đánh giao
thông chiến trên quốc lộ 20.Lừng lẫy nhất là chiến công của Đoàn 10
Đặc công Rừng Sác – nơi đoạn cuối của dòng Đồng Nai – đổ về Cần Giờ
để vào biển Đông.Và còn nhiều địa danh lịch sử khác mà số phận
gắn liền với dòng sông yêu thương của cái xứ “miền đông gian lao mà
anh dũng” này.
Khúc
thứ hai bi tráng -.
Xô
đá xuống sông cản tàu giặc
An
Hảo là một trong những ngôi làng cổ xưa. Theo Gia Định thành thông chí
của Trịnh Hoài Đức thì cuối thế kỷ XIX, Xã Bình An là của hai làng
An Hảo và Bình Đa hợp thành, thuộc tổng Phước Vinh, huyện Phước
Chánh, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa. Nay An Hảo thuộc phường An
Bình.Nơi đây có bến đò An Hảo nối phía tả ngạn sông Đồng Nai sang Cù
lao Phố, nay là xã Hiệp Hòa.
Trong
kháng chiến 9 năm,bến đò An Hảo là đầu mối liên lạc của những người
lãnh đạo kháng chiến. Vùng này đã ra đời một đơn vị vũ trang nổi
tiếng đánh giặc giỏi.Đó là Đại đội vinh dự mang tên cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn: Đại đội Lam Sơn, có phiên hiệu là Đại đội 926, thuộc Chi đội
10 Biên Hòa.Để tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh, nhân dân
Biên Hòa đã xây lên ở đây một ngôi nhà Bia Tưởng niệm Đại đội Lam Sơn
ngay trên mảnh đất của làng An Hảo. Đại đội Lam Sơn đã ngoan cường
bám trụ, mở rộng chiến khu Bình Đa, đã tham gia 50 trận chống càn,
tấn công 10 đồn bốt, phá hủy 15 đầu máy xe lửa và 7 toa xe, đốt cháy
3 xe thiết giáp, 15 xe quân sư, tiêu diệt 500 tên địch. Hàng trăm chiến
sĩ ta đã anh dũng hy sinh.Trong nhà Bia Tưởng niệm ghi chỉ mới tìm
được 80 liệt sĩ.Nhưng dù có nằm lại bất kỳ nơi đâu trên mảnh đất
này thì các anh hùng liệt sĩ vẫn là những người con yêu của đất Mẹ
Việt Nam.
Các
anh,các chị có nghe tiếng sóng rì rào vỗ nhẹ vào bờ Đồng Nai. Sông
ca bài ca bất tử về những người con thân yêu đã oanh liệt ngả xuống
cho một nước Việt Nam độc lập.
Chiến
khu Bình Đa nằm bên bờ sông Đồng Nai.Vào thời điểm này hai bên bờ lau
lách mọc đầy.Nơi đây,có dòng sông bảo bọc, có tấm lòng của đồng
bào che chở để các lực lượng vũ trang của ta chiến đấu với quân
thù.Cũng tại nơi đây, trong kháng chiến chống Pháp Ủy ban Cách mạng
tỉnh Biên Hòa đã xây dựng Trại Huấn luyện du kích.Năm 1947, Bình Đa là
căn cứ kháng chiến của Biên Hòa.Trại Huấn luyện du kích này khai
giảng ngày 26 tháng 9 năm 1945.Học viên đa số là công nhân của nhà máy
BIF, còn gọi là nhà máy Cưa, (sau này là khu vực nhà máy Gỗ Tân Mai
và nhà máy Giấy Tân Mai), một số thanh niên các xã, một số công
chức…Các vị giáo viên giảng dạy ban đầu có giáo sư Phạm Thiều,
Nguyễn Xuân Diệu, Thanh Sơn…Chỉ trong vòng hai tháng, Trại đã đào tạo
được hơn trăm cán bộ bổ sung cho các đơn vị vũ trang địa phương và
miền Đông Nam Bộ. Những người này đã trở thành những cán bộ chủ
chốt của Chi đội 10,Trung đòan 310 Biên Hòa, Trung đoàn 812 Bình Thuận,
Chi đội 16, Trung đoàn 307 Bà Rịa…
Ở
tỉnh Biên Hòa, lực lượng quân đội Pháp chính thức có hai Trung đoàn
11 và Trung đoàn 22 thuộc địa.Chúng đóng quân ở Thành Kèn (Ngã Ba
Thành), ở Trại Kỵ binh (nay là Trường Tiểu học Nguyễn Du) và một số
yếu địa khác. Tuy nhiên, vùng ven thị xã Biên Hòa lại hình thành
được một cái chiến khu của cách mạng khá vững chãi.Đó là Chiến khu
Bình Đa, nằm ngay trong vùng ven tỉnh lỵ Biên Hòa.Bọn Pháp coi đây như
một cái gai chọc vào mắt nên cố công tìm mọi cách để nhổ đi. Thế
nhưng lực lượng vũ trang cách mạng lại nhanh chóng trưởng thành để
giáng cho chúng những đòn trí mạng.Cùng với những trận đánh giao
thông đường sắt khác tại Bảo Chánh, Trảng Táo, Gia Huynh, trận đánh
thắng ở Bàu Cá chứng tỏ sự lớn mạnh nhanh chóng của Chi đội 10.
Đúng 12 giờ ngày 14 tháng 7 năm 1947 – ngày này cũng chính là ngày
Quốc khánh Pháp – khi đoàn tàu thứ nhất của địch lọt vào ổ phục
kích, quân ta cho nổ địa lôi phá hủy đầu tàu. Nhất loạt, bộ đội ta
xung phong tiêu diệt 200 tên giặc, thu nhiều vũ khí.Đoàn tàu thứ hai
bỏ chạy về hướng Trảng Bom. Đây là trận thắng giòn giã nhất, mở ra
một giai đoạn mới cho cuộc chiến đấu không cân sức giữa ta và địch.
Có
ai đó đặt câu hỏi: Vì sao An Hảo và Bình Đa cách trung tâm tỉnh lỵ
Biên Hòa không tới mười cây số mà quân cách mạng trụ lại được? Ngay
như người viết bút ký này cũng lấy làm ngạc nhiên về điều đó.Quân đội
Pháp hùng mạnh là thế.Chúng có cả một đội quân lê dương thiện
chiến, có đủ máy bay, xà lúc, tàu bò và vũ khí tối tân.Chúng lại
có một đội quân tay sai bản xứ, trang bị vũ khí tận chân răng.Trong
khi lực lượng vũ trang của ta chỉ có súng kíp và gậy tầm vông lại
dám đương đầu? Vũ khí tối tân nhất của chúng ta là lòng yêu nước.
Bọn
thực dân Pháp đã cố tình chia để trị.Nam Bộ trở thành Nam Kỳ
quốc-một colonial cochinchine thuộc địa- thuộc bộ Hải ngoại Pháp.Bắc
Bộ thành xứ Tonkin Bắc Kỳ tự trị, nhưng cũng có một tên Thống sứ người
Pháp cai quản. Còn cái tên An Nam, nơi có triều đình Huế với 9 đời chúa
và 13 đời vua trị vì thì được đặt cái tên đáng xấu hổ là xứ bảo
hộ Trung Kỳ An Nam. Phía bắc sông Hương là Nam triều, còn phía nam sông
Hương là Tòa Khâm sứ của bọn Pha-lang-sa ngày đêm giương cặp mắt cú
vọ rình mò động tĩnh xem có còn những Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn
Tường…và cả ông vua Hàm Nghi đứng lên chống lại chúng hay không?
Năm 1832, vua Minh Mạng cho đổi trấn thành
tỉnh.Tỉnh Biên Hòa có phủ Phước Long và 4 huyện gổm huyện Phước
Chánh, Bình An, Long Thành và Phước An. Ngày 18 tháng 12 năm 1861 liên
quân Pháp-Tây Ban Nha tiến chiếm thành Biên Hòa.Bọn thực dân Pháp vẫn
giữ nguyên địa giới hành chính như của triều Nguyễn trước đây.Hòa
ước Nhâm Tuất (ký ngày 9 tháng 5 năm 1862) các tỉnh Biên Hòa, Gia Định
và Định Tường là thuộc địa của Pháp, thường gọi là ba tỉnh Miền
đông trong Nam kỳ Lục tỉnh.Năm 1901,tỉnh lỵ Biên Hòa đặt tại xã Bình
Trước quận Châu Thành (nay là thành phố Biên Hòa).
***
Ngày
26 tháng 8 năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa thành công.Ngày hôm sau nhân
dân Biên Hòa đã tổ chức một cuộc mit-ting trọng thể tại Quảng trường
Sông Phố để biểu dương lực lượng và chào mừng Chính quyền cách mạng
lâm thời.Chính quyền lâm thời gồm có các ông Hoàng Minh Châu làm chủ
tịch, ông Huỳnh Văn Hớn làm phó chủ tịch, ông Nguyễn Văn Long phụ
trách cảnh sát, ông Ngô Hà Thành phụ trách Quốc gia Tự vệ cuộc.
Ngày
23 tháng 9 năm 1945, được sự tiếp tay của liên quân Anh-Ấn, bọn Pháp
nổ súng gây hấn ờ Sài Gòn.Ngày này được coi là Ngày Nam Bộ kháng
chiến và cũng là ngày mở đầu cuộc kháng chiến trường kỳ, để có:
Chín
năm làm một Điện Biên
Nên
vành hoa đỏ nên thiên sử vàng
Ngày
25 tháng 10 năm 1945, thị xã Biên Hòa và sau đó là cả tỉnh rơi vào
tay bọn thực dân Pháp.Nhân dân Biên Hòa hưởng độc lập vừa tròn 2
tháng, lại tiếp tục cầm vũ khí chống lại bọn xâm lăng.
Tỉnh
lỵ Biên Hòa nằm cặp theo hai bên bờ sông Đồng Nai.Theo nhà văn Lý Văn
Sâm, trong tác phẩm “Chuyện người
thổi sáo ở Bến Xuân” thì “khúc
sông Đồng Nai dài bốn cây số chảy ngang qua thành phố Biên Hòa được
người địa phương đặt tên là Sông Phố.Khúc sông khởi đầu từ cái đuôi
Cồn Gáo thoai thoải và chấm dứt ở cái mỏm Cù lao Phố”.Đoạn sông
này còn có tên gọi khác là Phước Long Giang.
Tiếng súng chống Pháp đã nổ. Lực lượng
kháng chiến phải rút vào các căn cứ.
Chúng
ta trở lại với những ký ức của dòng sông này: Năm 1858, Pháp nổ
phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng, mở đầu xâm lược nước ta, Tổng
quân vụ đại thần Lê Đình Lý tử trận. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, bọn
Pháp đánh chiếm Cần Giờ và tiến đánh Gia Định.Năm 1860, Nguyễn Tri
Phương được cử vào Gia Định. Ông đã nhận lãnh trách nhiệm chống giặc
và viết hịch kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp, đẩy lùi bước tiến
của quân thù.
Ngày
7 tháng 2 năm 1861,Charner dẫn 3000 quân thủy và lính lê dương Âu Phi với
70 tàu chiến, 470 đại bác tấn công Sài Gòn.Ngày 25 tháng 2 năm đó,
đại đồn Chí Hòa thất thủ.Nguyễn Tri Phương bị thương rút quân về Biên
Hòa.Với Hòa ước Nhâm Tuất,triều đình Nhà Nguyễn đã cam nhượng ba
tỉnh miền Đông cho Pháp nhưng Trương Công Định không tuân lệnh vua là
phải bãi binh.Ông giương cao ngọn cờ Bình Tây đại nguyên soái, tập hợp
dân chúng tiếp tục chiến đấu, đánh đồn Rạch Tra, đồn Long Thành…Cuộc
chiến không cân sức vẫn tiếp tục cho đến khi các phong trào kháng
chiến vũ trang bị dìm trong biển máu.
Nguyễn Tri Phương là danh tướng của Nhà
Nguyễn,sinh năm 1800 trong một gia đình làm ruộng và làm thợ mộc,quê
làng Đường Long (Chí Long) tổng Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên.Ông tên thật là Nguyễn Văn Chương.Là bậc tài trí, mưu lược nên ông được triều đình trọng dụng.Năm
1850 khi ông tròn 50 tuổi vua Tự Đức cải tên ông là Nguyễn Tri Phương,
lấy ý câu “Dõng thả tri phương” nghĩa là dũng mãnh và lắm mưu trí
để khen tặng, sung chức Khâm sai đại thần Tổng thống quân vụ kiêm Tổng
đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà
Tiên…Năm 1853, ông được thăng Điện hàm Đông các đại học sĩ và lãnh
chức Kinh lược sứ Nam Kỳ.Trong thời gian này,ông có công lập nhiều
đồn điền,khai hoang lập ấp ở các tỉnh Nam Bộ.
Thành
Gia Định bị Pháp tiến đánh, vua Tự Đức phái Nguyễn Duy cùng với Tôn
Thất Cáp và Phan Tịnh vào ứng cứu cho Nguyễn Tri Phương. Ông đã cùng
quân dân tổ chức đắp lũy đóng đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa) để phòng thủ
thành Gia Định. Năm 1861 ông bị thương nặng, phải rút về lập đồn cản
phá ở sông Đồng Nai.Nguyễn Tri Phương cho đắp “cản” bằng đá ong để
ngăn tàu thủy của địch, hễ dưới sông có đá cản thì trên bờ có đồn
lũy, đại bác của quân ta trấn giữ, đánh Pháp. Xứ Biên Hòa vinh dự
đón Nguyễn Tri Phương vào tháng 2 năm 1862.Quân Nhà Nguyễn rút về lập
tuyến phòng thủ tại Biên Hòa.Trong khi lập “cản” trên sông đang vào
giai đoạn khẩn trương thì có lệnh của triều đình triệu hồi ông. Tương
truyền, người dân Biên Hòa thương kính, tin yêu đã cản đầu ngựa, khẩn
cầu ông ở lại đánh giặc cho tới cùng.
Nguyễn
Tri Phương ra Bắc làm Tổng thống Hải An quân vụ. Năm 1873, Pháp đánh
úp thành Hà Nội, ông bị thương nặng và bị giặc bắt. Nguyễn Lâm con
trai ông tử trận. Dù bị giặc mua chuộc, nhưng ông đã tỏ rõ khí phách
của người sĩ phu anh hùng, chối bỏ mọi sự cứu chữa và tuyệt thực
suốt gần một tháng và mất ngày 20 tháng 12 năm 1873 (tức ngày 1
tháng 11 âm lịch) thọ 73 tuổi.
Khi được tin ông hy sinh, nhân dân Biên Hòa
đã tạc tượng và thờ ông tại đình Mỹ Khánh (nay thuộc phường Bửu
Hòa). Đình Mỹ Khánh còn có tên là đền thờ Nguyễn Tri Phương. Đền
nằm trên bờ sông Đồng Nai, ghi dấu những chiến công đầu giết giặc của
một vị tướng tài ba. Truyền thống đó được tô đậm trong những năm
tháng tiếp theo của quân và dân Biên Hòa. Nguyễn Tri Phương đã làm
trọn sứ mệnh của một trung thần và xứng danh với câu ca: “Làm
trai cho đáng nên trai/Phú Xuân đã trải Đồng Nai cũng từng”. Và
câu
truyền ngôn hình thành cũng bởi sự tích “Rồng chầu Xứ Huế, ngựa tế
Đồng Nai”.
Ý
chí bất khuất chống Pháp của người Biên Hòa âm ỉ kéo dài cho đến
một ngày khi ngọn cờ búa liềm được giương cao tại đồn điền cao su
Phú Riềng vào năm 1929 và đến năm 1935 thì Chi bộ cộng sản đầu tiên
của tỉnh Biên Hòa tiếp bước.
Khúc
thứ ba bi tráng
- Đốm lửa nhỏ đốt
cháy cánh rừng lớn
Trong
Bút ký “Về Làng bưởi Tân Triều”
của một nhà văn có đoạn viết:
“Tân Triều thuộc loại
làng cổ xưa của đất Nam Kỳ. Đây là một cù lao mà dòng chảy một nửa
do sông Đồng Nai khoét ôm vào đất liền, còn nửa kia là một con rạch
do bàn tay con người kiến tạo qua bao năm tháng miệt mài khai hoang lập
ấp làm nên quê mới.
Tân Triều nằm trong
chiếc nôi cách mạng. Ngay từ những năm 1933, tại Bến Cá thuộc xã Tân
Bình ngày nay, người con ưu tú của quê hương Lưu Văn Viết (Tư Chà) đã
sớm giác ngộ và vận động những thanh niên cùng chí hướng vào tổ
chức Đảng.Và cũng chính tại nơi này, năm 1935, Hoàng Minh Châu (Tư Vỹ)
cùng Lưu Văn Viết, Lưu Văn Văn, Quách Tỷ, Quách Sanh Huỳnh Văn Lũy (sau
này Huỳnh Văn Lũy là Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa) và một số đồng chí
khác đứng ra thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên, lấy tên là chi bộ
Bình Phước-Tân Triều…”
“Phải chăng phù sa
của dòng Đồng Nai thân yêu đã hóa thân vào trái bưởi Tân Triều hay
tình người mặn nồng gắn bó với đất hay là những giọt mồ hôi của
người nông dân từ đời này sang đời khác không ngừng bồi đắp cho ruộng
vườn nơi đây, để ngày nay có những vườn bưởi sum suê cây lá và trái
ngọt cho đời…”
Năm
1935, Chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập tại nhà ông Huỳnh Văn Ngọc
(còn gọi là Năm Ông). Hạt giống đỏ đầu tiên Bình Phước – Tân Triều
là hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng và là nòng cốt cho việc
thành lập Tỉnh ủy lâm thời Biên Hòa hai năm sau đó.Cái cù lao bé nhỏ
này từng là nơi nuôi dấu cán bộ hoạt động bí mật, có Trạm Giao liên
đầu tiên của huyện Vĩnh Cửu.
Theo
sách “Đại Nam nhất thống chí” thì chợ
Bình Thảo, thôn Bình Thảo, huyện Phước Chánh còn có tên là chợ Ngư
Tân, tức Bến Cá, nay thuộc ấp Bình Lục, xã Tân Bình. Chi bộ Bình
Phước-Tân Triều ra đời nơi đây, là tổ chức đảng đầu tiên của Biên Hòa,
là đốm lửa nhỏ le lói trong cánh rừng nô lệ của Biên Hòa.Và từ đốm
lửa nhỏ này theo hành trình phi mã, Biên Hòa xuất hiện hàng trăm,
hàng ngàn dũng sĩ đứng lên theo Lời Kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Mười năm sau đốm lửa đó cháy lên thành cơn bão lửa của
cách mạng Việt Nam. Năm 1945,Hoàng Minh Châu- người bí thư chi bộ đầu
tiên -và những đồng chí khác đã lãnh đạo nhân dân Biên Hòa đứng lên
đạp đổ chế độ thực dân và phong kiến, lập nên chính quyền cách mạng.xóa
bỏ gông cùm nô lệ. Một chính thể mới ra đời: chính thể Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa!
Sau
60 ngày độc lập ngắn ngủi, quân và dân Biên Hòa lại cùng cả nước
đứng lên làm cuộc kháng chiến thần thánh đánh bọn thực dân Pháp âm
mưu quay đầu lại với dã tâm xâm chiếm nước ta một lần nữa.
Và một lần nữa dòng Đồng Nai linh thiêng
lại nổi sóng.
***
Trong
dịp Lễ ra mắt Câu lạc bộ Thơ Trấn Biên và mừng phát hành thi phẩm “Trời Nam Thương Nhớ” nhân Đại lễ
Nghìn năm Thăng Long.Tác phẩm Trời
Nam Thương Nhớ là một công trình văn hóa dâng lên Đức Lý Thái Tổ. Trong
Lời ngỏ có đoạn viết:
“…Hôm nay,năm 2010, kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.Trong đoàn quân điệp trùng hướng về
thủ đô có nhiều người đi theo con đường THƠ của thi tướng Huỳnh Văn
Nghệ, mà Câu lạc bộ Thơ Trấn Biên đã kịp thời tập hợp bằng thi phẩm
“Trời Nam Thương Nhớ”.Đây là một cuộc tập hợp ngẫu nhiên – vừa đi vừa
nhập đoàn – của các thi nhân đủ mọi thành phần ở khắp mọi nơi trên
quê hương Việt Nam thân yêu…Tất cả đều có chung một tấm lòng: “Thăm lại non sông giống Lạc Hồng”…Tất
cả là một tràng hoa muôn sắc được kết bằng cỏ nội hương đồng khắp
mọi miền đất nước, dâng lên Thăng Long ngàn năm tuổi; dâng lên Thủ đô
hòa bình, lương tri phẩm giá của nhân loại. Ngày đi, tay chắc súng “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Ngày về, túi đeo thơ ngợi ca sông núi trường tồn. Thật không có hình
ảnh nào đẹp đẽ cho bắng…”
Trong
buổi Lễ long trọng đó Ban Tổ chức cho treo hai câu thơ trong bài Nhớ
Bắc của Huỳnh Văn Nghệ:
“…Từ độ mang gươm đi
mở cõi
Trời Nam thương nhớ
đất Thăng Long…”
Dù
không làm tướng bao giờ nhưng vì lòng yêu mến và ngưỡng mộ tài năng
của ông nên nhân dân đã tôn xưng ông là một thi tướng.Chỉ một bài thơ
Nhớ Bắc như là một Tuyên ngôn của lòng người dân Nam Bộ luôn hướng về
cội nguồn dân tộc. Bài thơ là tiếng kèn xung trận của quân dân Biên
Hòa và cả của Nam Bộ trong những ngày đầu Việt Nam mới giành được
độc lập, mới thoát khỏi gông cùm nô lệ trong gần suốt tám mươi
năm.Chính quyền Cách mạng trong thời kỳ trứng nước, ngàn cân treo sợi
tóc.
Trên
hai bên bờ sông Đồng Nai có nhiều làng mạc trù phú.Miền đất địa linh
nhân kiệt này đã sinh ra cho quê hương những nhà quân sự, nhà văn hóa,
nhà thơ, nhà văn nổi tiếng.
Huỳnh
Văn Nghệ sinh ngày 2 tháng 2 năm 1914 tại làng Tân Tịch, huyện Tân Uyên,
tỉnh Biên Hòa, nay là xã Thường Tân, huyện Tân Uyên,tỉnh Bình Dương.Năm
1945 ông trực tiếp tham gia cướp chính quyền ở Biên Hòa.Ông được giao các chức vụ:
Cố vấn cho Ủy ban Kháng chiến-Hành chính miền Đông (Nam Bộ), Chỉ huy
trưởng Giải phóng quân Biên Hòa,Khu trưởng Khu 7,Phó Tư lệnh rồi Tư
lệnh Bộ Tư lệnh Khu 7,Tỉnh đội trưởng tỉnh Thủ Biên.Ông là một trong
những người thành lập và lãnh đạo lực lượng vũ trang cách mạng đầu
tiên ở Biên Hòa. Tên tuổi của ông gắn liền với Chiến khu Đ-căn cứ
cách mạng nổi tiếng trên vùng đất miền Đông Nam Bộ- lực lượng vũ
trang Chi đội 10 mà người dân thường gọi với cái tên thân thương là
“Bộ đội Tám Nghệ”.Ngoài tài năng là một nhà quân sự tài ba, ông còn
biết đến với tư cách là một nhà thơ đích thực.Năm 21 tuổi,ông đã có
những bài thơ viết về thân phận của người dân trong cảnh sống lầm
than, nỗi nhục của con người trong cuộc đời nước mất nhà tan.Trong
thời ký chống Pháp,tác phẩm của Huỳnh Văn Nghệ phản ánh, miêu tả
sinh động về đời sống,về đồng đội, về người mẹ,về quá trình
trưởng thành của lực lượng cách mạng,về Tổ quốc Việt Nam thân yêu.Hình
ảnh hùng tráng nhất của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ là tay gươm, tay bút
hiên ngang trên lưng ngựa, xông xáo trên chiến trường mà nay còn đọng
lại trên bìa một tập sách viết về ông.Bộ phim Vó ngựa Trời Nam khắc họa chân dung nhà thơ-chiến sĩ Huỳnh
Văn Nghệ là bài ca bi tráng của một con người đã đem mọi tâm huyết dâng
trọn cho quê hương.
Nhà
văn “đường rừng” Lý Văn Sâm cất tiếng khóc chào đời ngày 17 tháng 2
năm 1921, nhằm ngày 10 tháng Giêng năm Tân Dậu, tại một ngôi làng ở quê
ngoại trên bờ sông Đồng Nai.Đó là xóm Ông Linh, làng Tân Nhuận, quận
Tân Uyên, trước thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc Bình Dương.Còn quê nội
của nhà văn cũng ở bên này bờ sông Đồng Nai. Đó là ấp Bình Ninh, làng
Bình Long, tổng Phước Vĩnh Hạ, tỉnh Biên Hòa, nay là xã Bình Long
huyện Vĩnh Cửu,tỉnh Đồng Nai.Nhà văn Lý Văn Sâm xuất hiện trên văn
đàn từ rất sớm, khi ông mới tròn 20 tuổi.Năm 1941, ông đã có truyện ngắn
đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Các tác phẩm Kòn Trô, Chi Mô Phây và
Sương gió biên thùy đã đưa tên tuổi của ông thành “nhà văn truyện
đường rừng” độc đáo.
Cũng
như nhiều trí thức yêu nước của Nam Bộ, tháng 8 năm 1945 Lý Văn Sâm gia
nhập Thanh niên Tiền phong và tham gia cướp chính quyền ở địa
phương.Năm 1946, ông bị Pháp bắt (lần thứ nhất).Giặc thả ông ra, ông
lại tiếp tục chiến đấu trên cả hai mặt trận văn và võ. Vừa viết
báo, làm văn ông vừa làm việc cho Công an Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn.
Năm 1949, ông bị giặc bắt lần thứ hai.Ra tù, ông vào chiến khu, công
tác tại Ban Sưu tập Phân liên khu miền Đông. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết
ông về thành hoạt động hợp pháp trên lĩnh vực báo chí văn nghệ.
Tháng 11 năm 1955, khi Ngô Đình Diệm lê máy chém khắp miền Nam,ông lại
bị kẻ thù bắt giam tại nhà tù Tân Hiệp (Biên Hòa) cùng với nhà báo
Dương Tử Giang và nhiều đồng chí khác.Ngày 2 tháng 12 năm 1956, cuộc
phá khám thành công.Lý Văn Sâm về làm Chánh văn phòng Bộ Chỉ huy các
lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một, Trường đoàn Văn công Miền Nam,
Chủ bút báo Chiến Thắng của Quân Giải phóng.Rồi tiếp là Thư ký tòa soạn báo Văn Nghệ Giải
phóng và nhiều chức vụ khác.Năm 1979, nhà văn Lý Văn Sâm được Ủy ban
Toàn quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và Hội Nhà Văn Việt
Nam cử về Đồng Nai -quê hương ông- giữ chức Chủ tịch Hội Văn Nghệ Đồng
Nai cho đến lúc mất (năm 2000).Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước
năm 2007.
Cũng
trên đoạn sông Đồng Nai này, có một nhà văn vừa được Nhà nước phong
tặng Giải thưởng Nhà nước.Đó là nhà văn quân đội Hoàng Văn Bổn.Ông
sinh ngày 7 tháng 5 năm 1930 tại xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu,tham gia
cách mạng từ ngày đầu, giữ chức Trưởng ban Giáo dục huyện Tân Uyên.Sau
Hòa bình 1954,ông tập kết ra Bắc,công tác ở Xưởng Phim Tài liệu và
đã có 25 kịch bản phim được dàn dựng và công chiếu.Trong sự nghiệp
văn học ông để lại cho đời một khối lượng đồ sộ gồm tiểu thuyết,
truyện ngắn, ký, hồi ký.Khi ra quân,ông về nối tiếp sự nghiệp văn
học tại quê nhà.Ông được bầu làm chủ tịch Hội Văn học – Nghệ thuật
tỉnh Đồng Nai.Hoàng Văn Bổn sống những ngày cuối đời tại một ngôi
nhà nhỏ bên bờ sông Đồng Nai và tạ thế năm 2006.
Bình
Nguyên Lộc được diễn dịch ra: Bình Nguyên là Đồng,cánh đồng.Lộc từ nguyên
là Lộc Dã, tức con Nai. Bình Nguyên Lộc là bút danh của nhà nghiên
cứu, nhà văn Tô Văn Tuấn.Ông sinh ngày 7 tháng 3 năm 1914 tại làng Tân
Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa, cùng tuổi và
cùng huyện với thi tướng Huỳnh Văn Nghệ. Tác phẩm văn học đầu tay
của ông là Hương gió Đồng Nai.Truyện
ngắn đầu tiên của ông có tên Phù Sa
được đăng trên tạp chí Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát.Sau này kiến
trúc sư Huỳnh Tấn Phát là phó Chủ tịch Mặt trận Giải phóng miền
Nam,người cùng thời với luật sư Nguyễn Hữu Thọ.Ngoài ra, Bình Nguyên
Lộc còn có các công trình nghiên cứu như: Lột trần Việt ngữ, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt và
chú giải nhiều tác phẩm văn chương cổ điển (Chiêu hồn,Tự tình khúc,Thu dạ lữ hoài ngâm,Tỳ bà hành,
Trường hận ca…). Về thơ, ông có hai tập Thơ tay trái và Việt sử trường ca, một tiểu thuyết thơ, Thơ Ba Mén
Trên
mảnh đất này có một nhà biên khảo lịch sử nổi tiếng.Đó là Lương
Văn Lựu, sinh ngày 22 tháng 12 năm 1916 tại làng Tân Thành, xã Bình
Trước (nay là phường Bửu Long, Biên Hòa). Năm 1935, ông tốt nghiệp Trung
học Pháp-Việt với vốn ngoại ngữ loại giỏi. Trước 1945 ông là bạn
thân của Lý Văn Sâm, Bùi Nhựng…cùng viết báo, dịch thơ đăng trên các
báo đương thời.Lương Văn Lựu là Chủ bút báo Biên Hùng. Người đời biết đến Lương Văn Lựu là biết tới
một nhà khảo cứu lịch sử.Ông đã giành trọn tâm huyết để viết bộ
sách “Biên Hòa sử lược toàn biên”,
gồm 5 tập: Trấn Biên cổ kính, Biên
Hòa oai dũng, Đồng Nai thơ mộng, Biên Hòa tân tiến và Ba trăm năm người
Việt gốc Hoa.Đây là một trong những nguồn tư liệu quý giá viết
khá đầy đủ về một miền đất mới.
***.
Ngay
tại thành phố Biên Hòa, bên bờ Phước Long Giang có danh thắng Văn Miếu
Trấn Biên- thờ Vạn thế sư biểu Khổng Tử
và Chủ tịch Hồ Chí Minh – Và theo truyền thống “Tôn sư trọng
đạo”,nơi đây thờ Chu Văn An, người thầy giáo đầu tiên của nước Đại
Việt, và thờ các danh nhân văn hóa
của dân tộc: Ức Trai Nguyễn Trãi, Bạch Vân Cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Quế Đường Lê Quý Đôn,Thanh Hiên Nguyễn
Du (tự Tố Như), Trọng Phủ Nguyễn Đình Chiểu (sau khi mù đổi hiệu là
Hối Trai), Sùng Đức Võ Trường Toản, Cửu Tư Đặng Đức Thuật,
Bùi Hữu Nghĩa và ba vị trong Gia Định Tam gia của Bình Dương thi
xã gồm Cấn Trai Trịnh Hoài Đức, Nhữ Sơn Ngô Nhơn Tĩnh và Tấn Trai Lê
Quang Định.
Văn
Miếu Trấn Biên được xây dựng năm 1715, nằm ở địa phận thôn Bình Thành
và thôn Tân Lại.Di tích được khảo tả: “Phía nam hướng đến sông Phước
(Phước Long Giang), phía bắc dựa theo núi rừng (Núi Long Ẩn), núi sông
thanh tú, cỏ cây tươi tốt”. Văn miếu Trấn Biên, biểu tượng văn
hóa đầu tiên của Nam Bộ bị giặc Pháp tàn phá khi chúng đánh chiếm
Biên Hòa. Kỷ niệm 300 năm Biên Hòa-Đồng Nai hình thành và phát triển,
thành phố Biên Hòa đã khởi công xây dựng lại và khánh thành vào
ngày mùng ba Tết Nhâm Ngọ nhằm ngày 14 tháng 2 năm 2002.
Tôi
xin trích bốn câu Bia ký do Giáo sư, Anh hùng lao động Vũ Khiêu chấp
bút, khắc ở Văn miếu Trấn Biên:
“…Đạo
làm người: tích trí, tu nhân
Phép
giữ nước: sùng văn, trọng võ
Tinh
thần Đại Việt tỏa sáng nơi đây
Hào
khí Đồng Nai dâng cao từ đó…”
Hào khí Đồng Nai!
Vâng, chính là được hun đúc nên từ một
miền đất “Địa linh nhân kiệt” mà dòng sông Đồng Nai vừa là chứng
tích vừa là động lực.Tôi tâm đắc với Cụ Vũ Khiêu ở hai câu: “Đạo làm người: tích trí, tu nhân/Phép
giữ nước: sùng văn, trọng võ”.
-----------
Viết tại
Biên Hòa đêm 19 Tháng Tám 2013 và hoàn thành 9 giờ sáng ngày 2-9 Tết Độc lập lần
thứ 68.Sửa chữa hoàn chỉnh tại Trại Sánh tác Đà Lạt ngày 13 tháng
10 năm 2013.
XUÂN BẢO
Tác
phẩm Dự Trại sáng tác Đà Lạt năm 2013.
Của
Xuân Bảo, Ban Văn – Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai.