287. THƠ XƯỚNG VÀ
HỌA THƠ
Thơ Đường luật có thế mạnh là phần Họa thơ. Các thi
nhân từ xưa đã
có có những bài thơ họa, có khi gây nên những tranh luận để đời như
bài
của Chủ tịch Hồ Chí Minh họa thơ Nguyễn Hải Thần
Ông biết phần ông, tôi biết tôi,
Quyết giành thắng lợi, chẳng chia đôi.
Ðã sinh đầu óc, sinh tai mắt,
Nỡ bỏ ông cha, bỏ giống nòi.
Họ trót sa chân vào miệng cọp,
Tôi đành ghé đít cưỡi đầu voi.
Cờ tàn mới biết tay cao thấp,
Há phải như ai cá đớp mồi.
5-1946
Ðể thực hiện sách lược tạm hoà hoãn với
quân Tưởng nhằm tập trung lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ, ngày 1-1-1946 Nguyễn
Hải Thần được cử giữ
chức Phó Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà và sau đó được bổ sung vào Quốc hội không qua bầu cử và
giữ chức Phó Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp.
Dịp
này, Nguyễn Hải Thần đã làm thơ tặng Hồ Chủ tịch như sau:
Gánh vác việc đời ông với tôi
Con đường gai góc xẻ làm đôi
Cùng chung đất nước, chung bờ cõi
Cũng một ông cha, một giống nòi
Ðành chịu nước cờ thua nửa ngựa
Còn hơn miệng thế chế mười voi*
Mấy lời nhắn nhủ cùng ông biết
Nước ngược buông câu phải lựa mồi.
________
* ý nói: Mười voi
không được bát nước xáo.
***
Hồ chủ tịch đã hoạ lại bằng bài thơ trên.
Bài thơ hoạ lại lời lẽ đanh
thép,thể hiện rõ tinh thần quyết vượt mọi hiểm
nguy giành thắng lợi, phê
phán thái độ hèn hạ ôm chân bọn Quốc dân Ðảng Trung
Quốc, bỏ ông cha,
bỏ giống nòi.
***
Hay là cuộc đấu thơ giữa Tôn Thọ Tường với
Phan Văn Trị. Phan Văn Trị
là người có công đầu trong cuộc bút chiến chống Tôn
Thọ Tường – người bạn thơ của Ông trong nhóm Bạch Mai thi xã – sau qua cộng tác
với giặc. Tôn Thọ Tường làm 10 bài thơ liên hoàn có tựa đề là Giang san ba tỉnh.
Nội dung tự thuật, tán dương sức mạnh vật chất của bọn Tây Dương, cho rằng nhân
dân ta không địch nổi quân thù cho nên khuyên mọi người hãy biết “tùy thời”. Ở
bài 1 – 2 câu kết:
… “Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay…”
Phan Văn Trị đã họa lại 2 câu này:
… “Đừng mượn hơi hùm
rung nhát khỉ
Lòng ta sắt đá há lung
lay…”
Ngoài 10 bài xướng và họa về Giang san ba tỉnh, Tôn Thọ
Tường còn có hai bài bài thơ Tôn phu nhơn quy Thục và Từ Thứ quy Tào để ngụy biện.
Phan Văn Trị công kích luận điệu của Tường bằng thơ Hát Bội. Cuộc bút dưới hình
thức họa thơ nổ ra từ đó.
Có thể nói Phan Văn Trị là người đã nối chí nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu “đâm mấy thằng
gian bút chẳng tà”.
Ở bài 2 câu 4, Ông đã mắng Tôn Thọ
Tường là “đứa ngu”:
Đường
xa, ngày tối, tuổi không chờ
Họa: Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ.
Ở bài 4 câu 1:
Kể chi
danh phận lúc tan hoang.
Họa: Thân
danh chẳng kể, thiệt thằng hoang.
Ở bài 6 câu 7:
Ở đời há dễ quên đời được…
Họa: Đáy giếng trông trời trơ mắt ếch,
Ở bài 8 câu 7:
…Khó lòng mình biết lòng mình khó…
Họa: Đứa dại trót đời,già cũng dại…
Bằng những lập luận sắc sảo, sáng ngời
chính nghĩa và rất đĩnh đạc,
hiên ngang, Ông đã giáng cho Tường những cái tát
điếng người. Tôi trích
ra đây 2 bài thơ xướng họa của Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị.
Bài xướng của Tôn Thọ Tường Bài
họa của Phan Văn Trị
Tôn phu nhơn quy Thục Tôn phu nhơn quy Thục
Cậ Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng Cài
trâm sửa áo vẹn câu tòng
N Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông Mặt
ngả trời chiều biệt cõi Đông
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng
Về Hán, trau tria mảnh má hồng Duyên về đất Thục đượm màu hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi Hai
vai tơ tóc bền trời đất
Đá Đá vàng chi để thẹn núi sông Một gánh cang thường nâng núi sông
Ai Ai về nhắn với Châu Công Cẩn: Anh hỡi! Tôn Quyền, anh có biết?
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng. Trai
ngay thờ chúa, gái thờ chồng.
___________________
B Bài xướng của Tôn Thọ Tường Bài họa của Phan Văn Trị
Từ
Thứ quy Tào Từ Thứ quy Tào
Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi Quá bị
trên đầu nhát búa voi
Muối xát lòng ai nấy mặn mòi Kinh luân đâu nữa để khoe mòi
Ở Ở Hán hãy còn nhiều cột cả Xăn văn ruổi Ngụy mây ùn đám
V Về Tào chi sá một cây còi Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi
B Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén Đất Hứa
nhớ thân sa giọt tủi
Bị Bịn rịn trông vua biếng giở roi Thành
Tương mến chúa nhẹ tay roi
Ch Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy Về
Tào miệng ngậm như bình kín
Thân này xin gác ngoài vòng thoi Trân trọng lời vàng được mấy thoi?
__ ________ ________
Cuộc bút chiến này có một giá trị đặc biệt. Thơ của
Ông cũng chính là
lời phát ngôn của phong trào chống Pháp rộng lớn của sĩ phu
và nhân dân
Nam Kỳ. Ông đã lôi cuốn được đông đảo sĩ phu yêu nước vào cuộc bút
chiến như Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt…, cảm hóa được những người
lầm đường lạc
lối như Lê Quang Chiểu về với chính nghĩa dân tộc.
Phan Văn Trị xứng đáng đứng trong hàng ngũ những nhà
thơ tiêu biểu
cho khuynh hướng văn học yêu nước thời cận đại bên cạnh Nguyễn
Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích. Ở Bến Tre, Ông là ngọn cờ tiêu biểu thứ hai của văn chương yêu nước sau Cụ Đồ Chiểu.
***
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã rất
am hiểu về Thơ Đường.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh- Người đã trích câu
thứ 4 của bài Khúc Nhị Giang (bài 2) này của Thi Thánh Đỗ Phủ “Nhân sinh thất thập
cổ lai hy, nghĩa là Người thọ bảy mươi xưa nay hiếm”.
KHÚC GIANG NHỊ THỦ - KỲ NHỊ
Nguyên bản Hán tự
Triều hồi nhật nhật điển xuân y,
Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy.
Tửu trai tầm thường hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Xuyên
hoa giáp điệp thâm thâm hiện,
Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi.
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Dịch nghĩa:
SÔNG KHÚC (BÀI 2)
Ngày ngày bãi triều về đem cầm áo xuân,
Mỗi ngày trên sông uống rượu say đến hết ngày.
Nợ rượu bình thường nơi nào cũng có,
Người đời thọ bảy mươi tuổi xưa nay hiếm.
Bươm bướm luồn hoa thấp thoáng hiện,
Chuồn chuồn chấm nước dập dờn bay.
Nhắn với mọi người thời gian cảnh vật đều
thay đổi,
Hãy tạm vui đi chớ có trái với đời.
Dịch Thơ của Tản Đà
BẾN SÔNG II
Khởi bệ
vua ra, cố áo hoài
Bến sông
say khướt tối lần mai
Nợ tiền mua
rượu đâu không thế?
Sống bảy mươi năm đã mấy người?
Bươm bướm
luồn hoa phơ phất lượn
Chuồn chuồn
giỡn nước lững lờ chơi
Nhắn cho
quang cảnh thường thay đổi
Tạm chút
chơi xuân kẻo nữa hoài.
***
THI HỮU HỌA THƠ CỦA XUÂN BẢO
Bài họa thì nhiều, tôi chỉ trích đăng mỗi nhà thơ một
bài:
(xem bài xướng ở các trang thơ của tác giả Xuân Bảo
trong sách này)
NGUYỄN THANH BÁ
họa bài Mưa Trấn
Biên
Điện Biên lịch sử.
Lịch sử oai hùng một Điện Biên
Núi sông khắc dấu vạn lời nguyền
Súng gươm rèn chí bao quân giỏi
Bút sách lưu danh lắm tướng hiền
Uy thế vang lừng trong bốn hướng
Chiến công rung chuyển cả đôi miền
Thực dân cuốn vội cờ xâm lược
Đất nước bừng soi ngọn đuốc thiêng
NGUYỄN THANH BÌNH
họa
bài Mưa Trấn Biên (y đề)
Mưa tới đầu mùa, mát Trấn Biên
Thoảng nghe trong gió vọng tâm nguyền
Nhà Bia vẫn đó trang hồng sử
Đại Bái còn đây tượng thánh hiền
Chí khí hào hùng vang khắp chốn
Anh hào tỏa rạng dội bao miền
Ơn Người gầy dựng cơ đồ vững
Mãi mãi nơi này rực khí thiêng.
LÊ
CÔNG CÁT
họa bài Mưa Trấn Biên (y đề)
Giữ yên Ải Bắc giữ Nam Biên
Vua chúa thần dân đạt ước nguyền
Quyết chí Nam chinh nhờ tướng giỏi
Ra tay Bắc phạt cậy tôi hiền
Đất đai mở rộng thêm bờ cõi
Sông núi an vui khắp mọi miền
Quốc sử lưu truyền công đức ấy
Đền đài tưởng niệm chốn linh thiêng
NGUYỄN HỮU CẦN
họa bài Văn miếu
Trấn Biên,
Giữ mãi quê mình.
Xin giữ quê mình mãi thắm xanh
Biên Hòa lẫm liệt mãi tôn vinh
La Ngà, Định Quán đây anh dung
Phú Lý, Long Bình đấy địa linh
Công Tổ khai thiên lưu sử tích
Ơn Người lập địa tỏa nhơn tình
Đồng Nai mảnh đất phương nam ấy
Lắm bậc hiền tài rạng rỡ danh
PHẠM SINH CHÂU
họa bài Thăm đình Tân lân
Người đi mở cõi.
Thượng Xuyên đình cổ rợp cành đa
Bóng mát nức lòng khách xứ xa
Tưởng vọng tướng công cành là thắm
Khai nguyên nguồn cội gốc tài hoa
Ngàn xưa rạng rỡ lưu thành kính
Muôn thuở trang nghiêm gót thái hòa
Nghi ngút trầm hương chung tấc dạ
Công ơn trời biển khó phai nhòa
VÕ
CHINH
họa bài Văn miếu Trấn Biên
Trấn
Biên xưa và nay.
Trời Nam một cõi nước non xanh
Biên Trấn từng phen trải nhục vinh
Vững chí nêu gương trang tuấn kiệt
Bền gan tiếp bước bậc hiển linh
Luân thướng Nho Giáo ngời Văn Miếu
Hào khí Thăng Long đượm nghĩa tình
Khoa học, công thương đều tiến bộ
Đồng Nai ngày một rạng thanh danh
HUỲNH
TẤN CƯỜNG
họa bài Thăm đình Tân Lân
Biên
địa thiêng
Nguyễn Lễ thành hầu lập Trấn Biên
Đồng Nai muôn thuở khắc tâm nguyền
Đền thiêng lưu tiếng tài danh tướng
Văn Các ghi công đức thánh hiền
Tưởng niệm anh hùng riêng một cõi
Suy tôn liệt sĩ khắp ba miền
Con Hồng cháu Lạc ngời trang sử
Gia Định, Phước Long biên địa thiêng
PHAN NỀ
họa bài Văn Miếu Trấn Biên.
Trấn Biên danh
Miền Đông thuở trước cỏ, rừng xanh
Nhờ đức tiền nhân nay hiển vinh
Đại Phố hùng thiêng phù bản xứ
Đồng Nai phong thủy trợ sanh linh
Tân Lân liễn đối gìn công đức
Văn Miếu khói hương ấm vạn tình
Một dải sơn hà linh địa cuộc
Ngàn sau còn mãi Trấn Biên danh
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 7/9/2019.
Nhà thơ Xuân Bảo