THƠ ĐƯỜNG LUẬT
THẤT NGÔN BÁT CÚ CỦA NHÀ THƠ XUÂN BẢO
THẤT NGÔN BÁT CÚ CỦA NHÀ THƠ XUÂN BẢO
ảnh
Hoàn Kiếm hồ
1.
HÀ NỘI NỖI NHỚ
Nhớ lắm Hồ Gươm nhớ thiết tha
Nhớ đền Trấn Quốc sóng Hồng Hà
Nhớ làng Võng Thị, lung linh Nguyệt
Nhớ trại Ngọc Hà, rực rỡ hoa
Nhớ sáng Ba Đình cờ lộng gió
Nhớ chiều Bách Thảo nhạc hoan ca
Nhớ người yêu cũ, ngày xưa ấy
Nhớ mối tình đầu dạ xót xa.
2. VẲNG NGHE TRỐNG TRẬN NGỌC HỒI
Đến Tây Hồ nhớ những ngày qua
Thả bước thong dong dưới bóng tà
Quảng Bá quất vàng thơm trái ngọt
Nghi Tàm đào thắm ngát hương hoa
Chuông chùa Trấn Võ luôn vang vọng
Trống trận Ngọc Hồi mãi vẳng xa
Rồng hiện trời Nam từ độ ấy
Thăng Long thành rộn khải hoàn ca.
3. VĂN HIẾN THĂNG LONG
Nghìn năm văn hiến chính là đây
Hoàn trả linh quy kiếm báu này
Lê Lợi bình Ngô bay vía giặc
Quang Trung báo tiệp cánh đào bay
Đài Nghiên Lục thủy soi tầng nước
Tháp Bút Thanh thiên lộng gió mây
Còn mãi Ba Đình lời Bác vọng
Thăng Long cất cánh vẻ vang thay!
4. THẾ ĐẤT
RỒNG BAY
Đại La thế đất dáng rồng bay
Hạo khí non sông tụ xứ này
Hổ phục uy nghi sau Núi Tản
Rồng chầu lẫm liệt trước Hồ Tây
Xuất quân Kỷ Dậu, Tàu tan tác*
Chiến thắng Năm Tư, Pháp chạy dài **
Giấc mộng Thăng Long rồng gặp nước
Diệu kỳ Hà Nội chính là đây.
__________
*Chiến thắng Đống Đa Ngọc Hồi
**Chiến
thắng Điện Biên Phủ
5. HÀ NỘI
NGÀY VỀ
Rầm rập quân reo năm cửa ô
Từ đây Hà Nội sạch quân thù
Trường chinh nếm trải mờ hoa áo *
Chiến tích bồi tô thắm sắc cờ
Nhớ mãi Tuyên ngôn vang giọng Bác
Cảm hoài Hoàn Kiếm sáng danh hồ
Niềm vui nước ngấn đoanh tròng mắt
Rạng rỡ ngàn năm đất Thủ đô.
______
*Lấy ý từ câu “Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”
trong bài thơ Ngày về của Chính Hữu. Lương Ngọc Trác phổ nhạc.
6. THU VỀ ĐƯỜNG CŨ
Thu về lành lạnh gió heo may
Mưa bụi giăng giăng kín lối này
Nhè nhẹ sương che cành lá úa
Âm thầm mây phủ mảnh trăng gầy
Em đi nẻo khác quên đường cũ
Anh nhớ thu xưa tới chốn này
Bà Huyện Thanh Quan còn khắc khoải
“Lối
xưa xe ngựa” ngóng ai đây?
7. CHIỀU XUÂN
HÀ NỘI
Chiều xuân Hà Nội gió riêu riêu
Tháp Bút mờ xa rựng ráng chiều
Nắng sót bừng soi đường phố cũ
Trăng ngời rắc hạt bức tường rêu
Long Biên sừng sững con rồng thép
Sông Nhị lung linh dải lụa điều
Xuân đến xanh tươi mầm nẩy nụ
Bờ xa ríu rít tiếng chim kêu.
8. SÂM CẦM HỒ TÂY
Hồ Tây thăm thẳm nước xanh mơ
Thấp thoáng hồn ai bóng tỏ mờ
Thị Lộ hàm oan tình chẳng rõ
Ức Trai hứng chịu nạn không ngờ
Chuông chùa Trấn Quốc vang từ đấy
Mõ điện Ngọc Hoa vọng đến giờ
Đêm xuống sâm cầm kêu thống thiết
Chạnh lòng liễu rủ đứng chơ vơ.
9.
KHÓC NGƯỜI Ở “GÓC THÀNH NAM”
Khương Thượng giờ đây tỏa ngát hương
Nỗi oan chừng đã thoát tai ương
Sáu trăm năm cũ càng căm hận
Ba họ hồn oan quá thảm thương
Vườn Vải sinh chi điều tệ hại
Sân Rồng nảy sự cảnh thê lương
Khóc người tài mệnh thường tương đố
Bạc phận hồng nhan nỗi đoạn trường!
ảnh
Bông lộc vừng Hồ Gươm
10. LỘC VỪNG HỒ
GƯƠM
Kính Cụ Nguyễn Tuân
Soi mặt Hồ Gươm bóng lộc vừng
Chuỗi hoa đèn thả sáng rưng rưng
Cây xanh bấy tuổi thêm bền chắc
Lá thắm bao năm vẫn ngập ngừng
Đón gió Tháp Rùa thì hạ chí
Vờn trăng Thê Húc tiết xuân hưng
Còn đây ghế đá người đâu vắng?
Làn nước vô tình nỡ dửng dưng.
11. ĐỈNH BẠCH
MÃ.
Bạch Mã chon von Vọng Hải đài
Ngũ Hồ sóng sánh ánh dương mai
Đầu ghềnh vượn nhảy thân mờ tỏ
Cuối thác ve ngân tiếng vắn dài
Lãng đãng mây vờn mây ấp núi
Rì rào gió thoảng gió mời ai
Đỗ quyên thơm nức mùa hoa nở
Ta với tay lên tưởng chạm trời.
12. MỘT
CHIỀU MƯA HUẾ
Gửi Thanh Cầm
Cố đô vương vấn tự bao giờ
Kỷ niệm tràn đầy tuổi ấu thơ
Cần Chánh phôi pha cung điện cũ
Thái Hòa meo mốc bệ rồng xưa
Sông Hương trầm mặc bao thương nhớ
Núi Ngự uy nghiêm bấy đợi chờ
Dù có cách xa bao dặm ngái
Lòng ta đau đáu Huế chiều mưa.
Huế, Tháng 7 năm 2009.
Ảnh
Đền thờ Huyền Trân công chúa trên núi Ngũ
Phong-Huế
13. GIỌT
LỆ HUYỀN TRÂN
“Nước non ngàn dặm ra đi. Mối tình chi”
Cung vàng Chiêm quốc tím chiều hoang
Vẳng khúc Nam ai quá bẽ bàng
Tình nghĩa trăm năm người cách trở
Nước non ngàn dặm lệ tuôn tràn
Phụ hoàng… còn xót con lưu lạc
Trần Khắc… thấu chăng thiếp lỡ làng?
Chín vạn bông trời sao sáng nở
Thôi đành bội ước với tình lang.
Huế, kỷ niệm 700 năm
ngày Huyền Trân về Chiêm quốc
1307-2007.
14. HẢI VÂN ĐỆ NHẤT HÙNG QUAN
Vượt ngàn dặm ngái tới nơi đây
Đệ nhất hùng quan thắng địa này
Bạch Mã suối rền hoài cố quận
Đỗ Quyên thác réo suốt đêm ngày
Sầu giăng Ô, Lý bào tâm khảm
Hận nuốt Đồ Bàn xót cỏ cây
Còn đó Hang Dơi cuồn cuộn sóng
Đèo Mây sừng sững khá thương thay!
15. QUÝT HƯƠNG CẦN
Họa bài Bưởi Biên Hòa của nhà thơ Tú Thịt
Hộp Võ Nguyện.
Rằng da thì mỏng múi thì dày
Một thuở Hương Cần quýt tiến đây*
Thấm nước sông Bồ nghe ngọt ngọt
Đẫm sương độộng Mệ thấy cay cay**
Của thơm Xứ Huế xin nương mũi
Vật lạ Thần kinh nhớ nhẹ tay
Em dặn: anh ơi đừng nắn bóp
Lỡ ra nó nẫu mạ la rầy***
____
* Một loại quýt nổi tiếng của Huế dùng để tiến vua
** Độộng : rú động
***
Mạ :Mẹ
16. XỨ HÒN CHỒNG
(Họa bài Đá Chồng của Võ Nguyện)
Ta về thăm thú xứ Hòn Chồng
Bên biển Nha Trang lắm kẻ trông
Cổ tháp Lin-ga* bày cạnh núi
Khánh Sơn Yo-ní* trải bên đồng
Đồi trên mạnh bạo măng trồi mụt
Vườn dưới sum sê cải trổ ngồng
Nữ sĩ Xuân Hương mà sống lại
Khối tình cọ mãi có mòn không?
17. NƠI ẤY
Họa bài 1. Của nữ sĩ Xuân Hồng
(
nguyên vận)
Quy hoạch treo
Cổng
làng nhà cậu có còn không ?
Quy
hoạch treo hoài mỏi cổ trông
Giải
tỏa đất vàng trao bọ xít
Đền bù tiền bạc lộn loài rồng
Nói ra thì sợ dùi cui nện
Ngậm miệng thôi đành ván khỏi long
Thượng cấp thấu chăng dân cực khổ?
Xin đừng để mãi kẻo đau lòng ?
18. LẠI KÉN CHỒNG
Họa
bài 2. Của nữ sĩ Xuân Hồng
Có như không
Nữ sĩ Xuân Hương khéo chọn chồng
Ba lần phận hẩm có như không
Vĩnh Tường vài tháng dây tình đứt
Tổng Cóc một năm vướng nỗi lòng
Trắng
xóa như vôi nào có bạc
Vàng
khè tựa nghệ vẫn tương đồng
Chơi xuân cho biết xuân dài ngắn?
Mà lạch Đào Nguyên suối chửa
thông !
19. MƯA TRẤN BIÊN
Lất phất mưa xuân viếng Trấn Biên
Hoa thơm cỏ biếc nén hương nguyền
Nhà Bia thắm bút lời non nước
Văn Các hồng trang ý thánh hiền
Nhớ trống Thăng Long rung bốn hướng
Nghe chuông Thiên Mụ giục ba miền
Đường đi mở cõi bao mưa gió
Vẫn ấm nơi này một cõi thiêng
20. VĂN MIẾU TRẤN BIÊN
Văn miếu Trấn Biên rạng sử xanh
Tôn sư trọng đạo mãi tôn vinh
“Rồng chầu xứ Huế” vùng nhân kiệt
“Ngựa tế Đồng Nai”cõi địa linh
Đức Khổng cương thường ngời thế thái
Cụ Hồ tư tưởng sáng nhân tình
Hiền tài hun đúc từ nguyên khí*
Bia tạc tên vàng thật xứng danh.
__________
* “Hiền tài quốc gia chi nguyên khí
Nguyên khí thịnh tắc quốc thề cường dĩ”
của Thân Nhân Trung đề bia Tiến sĩ ở Quốc tử giám Thăng Long.
của Thân Nhân Trung đề bia Tiến sĩ ở Quốc tử giám Thăng Long.
21. THĂM ĐÌNH TÂN LÂN
Tưởng vọng Tướng công Trần Thượng Xuyên
Lưu dấu sân đình một gốc đa
Bóng trùm mát rượi khách đường xa
Xanh rêu mái ngói màu sương tuyết
Vàng thắm hoành phi sắc bút hoa
Nhớ kẻ khẩn hoang miền Đại Phố*
Thương ai xây đắp trấn Biên Hòa
Bao nhiêu công đức người đi trước
Hương khói ngày đêm chẳng nhạt nhòa
22. TRỊ AN ĐÂY
Dòng sông ngăn bước, nước dâng tràn
Thủy điện sôi trào thác Trị An
Động Ó tưng bừng vùng sinh thái
Đồng Trường rộn rã chốn tham quan
“Mã Đà sơn cước anh hùng tụ”
Phú Lý thâm lâm giặc Mỹ tan
Oanh liệt một thời lừng lẫy thế
Chiến khu đẹp mãi nước non ngàn
23. ĐÀN
ĐÁ BÌNH ĐA MÃI ÂM VANG
Chào mừng Câu lạc bộ Thơ Ca Bình Đa ra đời
Bình Đa chung sức dựng Đài Thơ
Đàn đá vọng về rộn tiếng tơ
Lừng lẫy chiến khu thời xưa ấy*
Thênh thang phố mới buổi bây giờ
Văn chương tụ hội say hồn mộng
Thi phú đua tài thỏa chí mơ
Đàn đá Bình Đa còn vọng mãi
Đồng Nai hào khí sáng đôi bờ.
____________
*Bình Đa là nơi có di chỉ đàn đá thời tiền
sử và
là chiến khu kháng Pháp thời 9 năm lừng lẫy.
là chiến khu kháng Pháp thời 9 năm lừng lẫy.
24.XUÂN Ý
Hạnh phúc thay! Con cháu Lạc Hồng
Xuân về kiều diễm tựa bên song
Thơ đan ý đẹp vần tao nhã
Bút điểm lời hoa sắc đượm nồng
Rượu rót giao thừa cầu quốc thái
Trầm xông xuân tiết ước dân hưng
Thoảng nghe trong gió hương đời gọi
Một khúc tình ca ấm ấm lòng!
25. HẸN
Gửi Hoài
Thu
Phan Rang nơi ấy mấy lần qua
Chưa ghé thăm nhau kể chuyện già
Xuân Bảo nhớ nhiều người lịch lãm
Hoài Thu ngóng mãi khách hào hoa
Vấn vương Ngoạn Mục cùng Ninh Chữ
Lưu luyến Nùng Sơn với Nhĩ Hà
Tuổi hạc chúc nhau vào thượng thọ
Đêm xuân tình dạo khúc tình ca.
26. CÔNG CAO ĐỨC CẢ
(Thập thủ
liên hoàn)
I
Ân cha như biển cả tày non
Sực nhớ chín chìu ruột héo
Gia đạo nghiêm minh lo dạy vợ
Sinh nhai lam lũ liệu nuôi con
Ẳm bồng tay mẹ khi thơ ấu
Dạy dỗ công cha lúc lớn khôn
Vời vợi ơn sâu tròn chín chữ
Tác thành nữ giá với nam hôn.
II
Nam hôn nữ giá gái cùng trai
Định liệu cho con vẹn cả hai
Xây dựng cửa nhà yên hiện tại
Kinh doanh sự nghiệp vững tương lai
Mong con mạnh khỏe không tai bệnh
Muốn cháu làm ăn có lợi tài
Hiếu trọng tình thâm đâu dễ trả
Tấm lòng chi xiết nỗi bi ai!
III
Bi ai gan ruột tựa như dầu
Châu lệ đôi hàng giọt ướt bâu
Cúc dục chưa đền ơn chin chữ
Sinh thành khốn trả hiếu nghìn câu
Trước bàn hương ngát dâng đôi nén
Trên án rượu ngon tiến một bầu
Trời biển công cha cao rộng lớn
Nghìn vàng chưa dễ trả ơn sâu.
IV
Ơn trả chưa xong ruột rối bời
Cha về vui thú cảnh bồng lai
Màn loan nệm gấm còn đây mãi
Phách quế hồn hoa vẫn nhớ hoài
Gậy trúc đứng bên bàn sảnh tọa
Mũ rơm lạy trước án quan tài
Thương cha con biết lòng đau đớn
Khốn nỗi tang thương cuộc đổi dời.
V
Đổi dời bể thẳm hóa cồn dâu
Riêng để cho con một mối sầu
Thảm bấy vùi hoa ngoài địa phủ
Giận thay chấm sổ đấng thiên tào
Chơi mây rong ruổi xe hoàng hạc
Qua cửa lẹ làng bóng bạch câu
Thấm thoắt đời người như ánh chớp
Nhớ thương con cháu ruột gan bào.
VI
Gan bào ruột thắt nhớ cha xưa
Gian khổ lòng đau quặn gió mưa
Giữ mực sớm cần cùng tối kiệm
Mặc ai khuya rượu với mai trà
Xóm làng tông tộc lòng hâm mộ
Con cháu xa gần tiếng ngợi ca
Những tưởng cha già còn mạnh khỏe
Đâu ngờ vội tắt bóng ngày qua.
VII
Ngày qua giấc mộng tịt mù trông
Chỉ thấy gò hoang giữa cánh đồng
Nhạn đậu hồng bay bao tuế nguyệt
Thỏ tà ác lặn mấy thu đông
Thành sầu dế đắp đầy phần mộ
Lưới thẳm nhện giăng khắp cánh thung
Tối viếng sáng thăm nào có thấy
Con ngồi nhớ bố cháu trông ông.
VIII
Con ngồi nhớ bố cháu trông ông
Sực nhớ nhà thung lệ ứa hồng
Lầu hạc tiêu diêu bao nắng hạ
Canh gà xao xác mấy mưa đông
Loan xa phượng cách mơ hình bóng
Yến rẽ oanh chia tưởng dáng dong
Núi Hỗ trông cha nào có thấy
Kêu trời khôn thấu giữa thinh không.
IX
Thinh không vắn thở với dài than
Cha đã xa chơi mấy dặm ngàn
Cõi Phật cửa hoa nơi cực lạc
Non Bồng nước Nhược chốn thanh nhàn
Buồn tình muôn hộc đong nào hết
Thảm lệ đôi hàng chảy khó ngăn
Cảnh có vui đâu phiền não chuốc
Hoa tàn cỏ úa nỗi sầu chan.
X
Sầu chan cảnh vật ngắm buồn tênh
Đau xót bồi hồi cuộc tử sanh
Lễ bạc kính dâng ly rượu ngọt
Lòng thành xin rót chén trà thanh
Nhớ ghi cúc dục bao công đức
Báo đáp quyên ai bấy hiếu tình
Phủ phục kính thành quỳ trước án
Nguyện cầu siêu thoát chốn u minh!
***
27. NHỚ LÀNG
QUÊ
Quê nghèo thương lắm Đại Hào ơi!
Kỷ niệm đầy vơi tuổi thiếu thời
Kẻo kẹt trưa hẻ bà lắc võng
À ơi! đêm vắng mẹ đưa nôi
À ơi! đêm vắng mẹ đưa nôi
Cồn Thang màu mỡ ngô lúa tốt
Chợ Thuận tràn trề rau quả tươi
Da diết nhớ quê lòng bịn rịn
Bâng khuâng hoài tưởng suốt đời tôi
28. DÒNG SÔNG QUÊ MẸ
Nao nao nhớ lại quảng đời qua
Bến nước sân đình với gốc đa
Thạch Hãn ngàn đời xuôi biển biếc
Nguồn Hàn muôn thuở đọng phù sa
Vấn vương kỷ niệm thời thơ dại
Đau đáu niềm riêng lúc tuổi già
Dù có mọi miền qua mọi chốn
Nhớ về quê mẹ nặng lòng ta
29. XA QUÊ NỖI NHỚ
Thời gian vun vút bóng câu qua
Thân phận con người thật xót xa
Quảng Trị xa rồi thời trẻ dại
Sài Gòn gần lại lúc về già
Thánh răn tích đức vun điều thiện
Phật dạy tu nhân tránh ác tà
Diệu pháp hồng ân vơi nỗi nhớ
Mái chùa riu rít tiếng chim ca
30. MỪNG TUỔI MẸ
Mừng
Đại thọ Mẹ Nguyễn Thị Kim Dung
Mừng Mẹ xuân này tuổi chín mươi
Nêu gương đức độ sáng tình người
Một thời chinh chiến bao gian khó
Muôn thuở huân công ánh rạng ngời
Giữ nếp gia phong luôn trọng đạo
Ươm mầm hiếu nghĩa mãi xanh tươi
Tuyết sương dầu dãi cùng năm tháng
Xin tạ ân sâu với đất trời
31. CHA ƠI !
Trần thế lâu rồi vắng bóng Cha
Mẹ, con đau đớn lệ chan hòa
Chuông buồn réo rắt khi đông tới
Mõ lạnh trầm khua lúc hạ qua.
Ân nghĩa sinh thành công vạn đại
Nhơn thiền dưỡng dục đức bao la
Cha hời, Cha hỡi nơi xa vắng
Có thấu lòng con nỗi xót xa!
32. MỞ HỘI NGÀY THƠ
Triều dâng sóng dậy tỏa đôi bờ
Đất nước hồng tươi lộng sắc cờ
Tứ gấm hân hoan tràn bến mộng
Lời hoa thắm thiết khẳm thuyền mơ
Nguyên tiêu khởi sáng lung linh ngọc
Thơ Bác tiếp vần óng mượt tơ
Nam Bắc tưng bừng vào hội lớn
Xuân về dào dạt đón Ngày Thơ
33. SÔNG
KHUYA
Trên sông nơi ấy Bác làm thơ
Gió thoảng thuyền trôi bóng tỏ mờ
Vằng vặc rằm giêng soi sóng nước
Bồng bềnh tiên cảnh dệt đường tơ
Giữa trời man mác lồng xuân tứ
Dưới ánh nguyên tiêu lộng ý thơ
Người vịnh Đường thi bàn quốc sự
Trăng vàng bát ngát đẹp như mơ
34. CHÀO NGÀY HỘI THƠ
Văng vẳng đất trời dội khúc ngâm
Nguyên tiêu tỏa rạng ánh trăng rằm
Đài Nghiên mãi đọng câu văn hiến
Tháp Bút còn nguyên dấu nét thần
Văn Miếu cờ thơ soi ngấn nước
Ba Đình lời Bác vọng muôn năm
Hồn thiêng dân tộc đúc hào khí
Dào dạt nguồn thơ đượm ý xuân
35. ĐÁNH GIẶC
VÀ LÀM THƠ
Việt Nam đánh giặc, giỏi làm thơ
Hun đúc khí thiêng tự bao giờ
Đại cáo Bình Ngô hồn Nguyễn Trãi
Tuyên ngôn Độc lập chí Già Hồ
Thanh gươm trừ bạo ngời trang sử
Ngọn bút tài hoa đẹp tiếng tơ
Non nước yên bình tình rạng rỡ
Ngàn năm văn hiến bụi không mờ.
36. MINH QUÂN – THÁNH CHÚA
Tìm về Yên Tử chốn quan san
Lập phái Trúc Lâm giữa đại ngàn
Trước diệt Nguyên Mông yên xã tắc
Sau xây Đại Việt vững âu vàng
Cửu trùng phổ độ rời ngôi báu
Vạn tuế chuyên tâm hướng Niết bàn
Điều ngự giác hoàng ngời chánh pháp
“Cư trần lạc đạo” sáng trời nam*
___________
*“Cư trần lạc đạo phú” của vua Trần Nhân Tông,
chủ thuyết của phái Thiền môn Trúc Lâm.
chủ thuyết của phái Thiền môn Trúc Lâm.
37. VỊNH
CHÙA BA VÀNG –
BẢO
QUANG TỰ
Hai sườn xanh ngắt cánh rừng thông
Lưng dựa thế núi phía trước sông
“Ánh sáng quý” ngời ngôi cổ tự *
Bình minh lên rạng mặt trời hồng
Nơi đây hạ đoạn bình phong thủy
Kìa chốn thượng môn mạch giếng nguồn
Hổ phục oai linh, thiêng đuốc tuệ
Rồng chầu hùng vĩ hướng Chùa Đồng
_ _________
*Ánh sáng quý dịch từ chữ Bảo Quang
38. TỰ MỪNG
TUỔI
(Thủ vĩ ngâm)
Ta
tự mừng ta, ngoại bát tuần
Đường
đời dù lắm bước gian truân
Công danh chẳng thiết mòn tâm trí
Phú
quý đâu cần nhọc tấm thân
Xuất
bản sách in vài chục quyển
Đường
thi xướng họa năm ba vần
Dương gian thây kệ trò ma quỷ
Ta
tự mừng ta, ngoại bát tuần.
39. BƯỞI TÂN TRIỀU
39. BƯỞI TÂN TRIỀU
Làng bưởi Tân Triều nức tiếng xa
Đất vườn níu giữ hạt phù sa
Ngày đêm chăm chút bao công mẹ
Năm tháng cần cù bấy sức cha
Khấp khởi mừng khi cành hé lộc
Bồi hồi vui lúc nụ đơm hoa
Xuân về tỏa ngát trời hương bưởi
Tết đến trái ngon ấm mọi nhà.
40. THĂM LẠI
TÂY TRANG
Muôn trùng hiểm trở nẻo Tây Trang
Vực thẳm non cao chốn đại ngàn
Ngày ấy dốc đèo leo vất vả
Giờ đây đường sá chạy thênh thang
Vẳng nghe Hồng Cúm cồng chiêng rộn
Chợt nhớ Mường Thanh sli- slượn vang
Tây Bắc chập chùng mây núi đón
Điện Biên phố mới nắng hanh vàng
41. TRƯỚC MỘ CỤ MÍNH VIÊN*
41. TRƯỚC MỘ CỤ MÍNH VIÊN*
HUỲNH
THÚC KHÁNG
Ngày đêm lắng tiếng sông Trà hát
Một khúc Di ngôn gửi lại Người
Độc lập hồn thiêng sông núi gọi
Tiếng Dân ý nguyện quốc dân đòi
Nghìn thu yên giấc lòng thơ thới
Giờ phút biệt ly luống ngậm ngùi
Mong Bác sống lâu đưa đất nước
Phồn vinh hạnh phúc đến muôn đời.
Núi Thiên Ấn – tháng 4/2007
___________
*Ngày 31/5/1946, với tư cách là thượng khách của nước Pháp,
Hồ Chủ tịch lên
đường đi Paris. Cụ Huỳnh được trao trọng trách làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác dặn: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong 4 tháng Hồ Chủ tịch đi vắng, Cụ đã
đảm đương tốt nhiệm vụ giữa lúc chính quyền cách mạng còn trong trứng nước, lâm vào tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
đường đi Paris. Cụ Huỳnh được trao trọng trách làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác dặn: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong 4 tháng Hồ Chủ tịch đi vắng, Cụ đã
đảm đương tốt nhiệm vụ giữa lúc chính quyền cách mạng còn trong trứng nước, lâm vào tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Đêm 17/4/1947, Cụ Huỳnh lâm bệnh nặng, nhưng đã cố gắng
viết được 4 Di ngôn.
Đến sáng 19/4, Cụ mới viết xong. Đây là Di ngôn 1, Cụ kính gửi Hồ Chủ tịch: Tôi bệnh nặng chắc không khỏi. 40 năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã
thực hiện, thế là tôi chết hả! Chỉ tiếc không được gặp Cụ lần cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để
dìu đắt quốc dân đến đường vinh quang hạnh phúc!
Đến sáng 19/4, Cụ mới viết xong. Đây là Di ngôn 1, Cụ kính gửi Hồ Chủ tịch: Tôi bệnh nặng chắc không khỏi. 40 năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nước đã độc lập, chế độ dân chủ đã
thực hiện, thế là tôi chết hả! Chỉ tiếc không được gặp Cụ lần cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để
dìu đắt quốc dân đến đường vinh quang hạnh phúc!
Chào
vĩnh quyết
Huỳnh Thúc Kháng
42 .TƯỞNG NIỆM
ANH HÙNG RỪNG SÁC
Trời xanh gió lộng nắng tươi hồng
Gợi nhớ một thời lắm chiến công
Tếch-nich lửa tràn, thù bạt vía
Long Bình bom xé giặc kinh hồn
Đồng Dù đồn cháy trơ sườn núi
Cát Lái tàu chìm chật đáy sông
Thắp nén hương linh lòng tưởng nhớ
Bao gương chiến sĩ bấy anh hùng
43. RỪNG SÁC – ĐỀN TƯỞNG NIỆM
Tưởng nhớ 800 anh hùng liệt sĩ đã hy sinh
nơi này
Chiến khu Rừng Sác rộng mênh mông
Lưu dấu Đoàn Mười lính đặc công
Sóng cả hề chi bầy sấu dữ
Sông sâu nào ngán lũ tàu ngông
Bom rền Tuy Hạ rung Năm Góc
Xăng cháy Nhà Bè rực Biển Đông
Rừng Sác mãi xanh xanh màu đước
Tượng đài thắng Mỹ giữa Thành Đồng
44. CHÉN
RƯỢU KIM HÔN
Mừng
50 năm Ngày cưới
Quảng Trị quê chồng, vợ Thủ đô
Năm mươi năm trước gặp bên hồ
Ngập ngừng ướm hỏi - nhà đâu nhỉ?
E lệ rằng thưa – Phố Cụ Đồ*
Hoàn Kiếm ghi sâu lời ước hẹn
Hàng Đào in đậm mối duyên tơ
Kim hôn nâng chén mừng ngày cưới
Chung thủy tình ta đến tận giờ.
____________
*Phố Hàng Bồ, Hà Nội, nơi Tết Nguyên đán hàng năm các Cụ Đồ
mang
giấy điều, mực Tàu ra ngồi viết thuê câu đối. Nhà thơ Vũ Đình Liên
có bài thơ Cụ
Đồ nổi tiếng.
45. “CẶP ĐÔI HOÀN HẢO” TỪ NAY LẺ
Tớ coi như cậu đỗ ông nghè
Nói láo trên trời dưới đất nghe
Lực kiệt còn đâu Nam trụ nữa
Sức
lùn nào dám Khánh lòe xòe
"Cặp đôi hoàn hảo" từ nay lẻ
Bóng chiếc đơn côi thật khó che
Chước quỷ bày trò đâm Thịt Hộp
Mưu
ma độc diễn hết trò đe
46. TÔI ĐI NHẶT BỤI VÀNG
(Dựa ý tác phẩm Bông hồng vàng của Pautovski)
Gom chút hương rơi, nhặt bụi vàng
Khắp quê cùng tỉnh góp nên trang
“Tòng Lâm thi tập”* chùng sương núi
“Chinh Vũ tình thơ”*lộng gió ngàn
Cẩm Mỹ khơi đề cung sáo vọng
Long Thành ứng họa tiếng đàn vang
Trấn Biên mở hội mời thi hữu
Bút ngọc thơ reo khúc khải hoàn.
___________
*Những tập thơ đã xuất bản
47. RẠNG
TỎA VIỆT NAM
Mừng Đại thọ Cụ
VŨ KHIÊU, Giáo sư –
Anh hùng lao động
nhân 97 tuổi
Đôi vầng nhật nguyệt, chí anh minh
Rạng tỏa Thăng Long chốn kết tinh
Muôn thuở quốc công ngời chiến tích
Ngàn đời văn hiến sáng tâm linh
Bồi hồi đất Bắc đằm thương nhớ
Vời vợi trời Nam đượm nghĩa tình
Lộng lẫy lừng danh trang sử Việt
Hiền tài, hào khí mãi trường sinh.
Lời bình của nhà thơ Võ Nguyện.
Tác giả chơi chữ, đã có ý lấy
“đôi vầng nhật nguyệt" để tôn vinh Hồ Chí Minh. Vì theo
Hán tự thì chữ Nhật ghép với chữ Nguyệt thành chữ Minh. Vừng "Nhật- Nguyệt" tức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏa hào quang rạng rỡ cho kinh thành Thăng Long, nay là
Thủ đô Hà Nội - thành phố Hòa Bình - của dân tộc Việt Nam.
Những chiến công hiển
hách của nhân dân ta từ ngàn xưa tới nay đều vô cùng oanh liệt: Đánh tan quân
Nguyên - Mông, đuổi bọn giặc Minh ra khỏi bờ cõi, hai mươi vạn quân Thanh hạ
giáo quy hàng. Mười hai ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” đã minh chứng cho“Muôn
thuở quốc công ngời chiến tích”.
Nước Việt Nam, dân tộc
Việt Nam rất đỗi tự hào vì truyền thống ngàn năm văn hiến của mình. Trong tâm
linh của mỗi một người con nước Việt luôn luôn ngời sáng tinh thần tự chủ và tự
cường, không thế lực đen tối nào có thể mưu đồ đồng hóa được nền văn hiến Lạc
Việt! Đó là "Ngàn đời văn hiến sáng tâm
linh"
Nhà thơ Xuân Bảo lại bồi hồi thương nhớ đất Bắc - nơi các Vua Hùng đã có
công dựng nước- khi ở trời Nam này, dù mới được mở đất hơn ba trăm năm nay.
Nhưng những người dân ở đây vẫn luôn luôn hướng về cội nguồn. Trong đó, Thi tướng
Huỳnh Văn Nghệ có một câu thơ nổi tiếng và đã đi vào lòng dân tộc: “Trời
Nam thương nhớ đất Thăng Long” (Bài Nhớ Bắc).
Công lao của Người là trời
cao là biển rộng. Bóng dáng Người lồng lộng với trang sử Việt. Nhà thơ Xuân Bảo
đã khẳng định: Hiền tài và hào khí là di sản quý báu của dân tộc Việt Nam. Do
đó, là mãi mãi trường tồn.
48. KÍNH DÂNG CỤ MỘT CHỮ ‘VẪN”
Dẫu tuổi non trăm, vẫn chửa già
Vẫn sung bút lực, nét tài hoa
Vẫn dòng bia đá lưu thần tích
Vẫn áng chúc văn sáng triết gia
Vẫn luyện văn chương giàu ấn tượng
Vẫn trau thi pháp đẹp thơ ca
Vẫn nêu đạo học tôn truyền thống
Vẫn nếp lương dân, sống thuân hòa
49. THƠ DÂNG
49. THƠ DÂNG
Thành kính – Thơ dâng dệt mấy vần
Mừng Xuân mừng Đảng buổi thanh tân
Đạp nhào đế quốc, quân phong kiến
Giữ vững biên cương giống Lạc Hồng
Kháng chiến trường kỳ giành thắng lợi
Tư duy đổi mới quyết thành công
Núi sông tươi thắm muôn lần đẹp
Tổ quốc yên bình thỏa lòng dân
50. CHÚC NHAU
TÚ SỪNG.
Lẳng lặng mà xem chúng giành… nhau
Cái
danh chủ tịch để vênh râu
Phen này ông quyết đi buôn búa
Trong
Hội bao anh giập bã trầu
Lẳng lặng mà nghe chúng khoe… đần
Cho thuê hết Hội chẳng phân vân
Phen
này ông quyết làm cò đất
Tiền tỉ chia nhau khối đứa cần
Lẳng
lặng mà nghe chúng học sang
Đứa
thì bằng dzỗm đứa bằng gian
Phen
này ắt hẳn thằng buôn bút
Vừa ị vừa phê cũng đắt hàng
Lẳng lặng mà xem văn… đẻ non
Một năm sáu lứa chẳng vuông tròn
Phen này ông quyết làm biên tập
Khối đứa văn nô phải cúi lòn
Bắt chước Tú Xương chúc mấy lời
Đại hội sắp tới liệu mà chơi
Văn
nhân đừng để cho thiên hạ
Đào
mả cha lên có mấy hồi.
51. Vịnh Trịnh Trung Thoòng
Trịnh Trung Thòong đếch phải thằng điên
Hắn chính là tên quá hám quyền
Tính kế Lao du quan hưởng lộc
Bày mưu mọ-rát lính chia tiền
Đã ngoa trù dập kinh trong Hội
Lại giỏi lu loa khắp mọi miền
Tội
nghiệp hế chèo làm chủ tịch
Cháy nhà lòi chuột án chờ tuyên
52. Vịnh Nguyễn Nam Ngu
Nguyễn Nam Ngu đếch phải người điên
Tại “sức khỏẻ”?! nên phải bỏ quyền
Cho mướn văn phòng chia chác lộc
Bày trò thẩm định phát ban tiền
Nam Ngu thợ vẽ vang bao chốn
Thịt Hộp thầy vè dậy mấy miền
Tiếc quá! Đành rời xa chiếc bánh
Hận này cũng tại cái ban Tuyên
53. Vịnh Huỳnh Đình Ngọng
Thằng Ngọng chơi trò giở giói ra
Cướp thơ Thịt Hộp…tấu cha già
“Nai Đồng ngâm khúc” bao ông ngửi
“Thơ háng Hồng Dương” khối cụ thoa
Nương gió bẻ măng hăng nịnh chủ
Rung cây nhát khỉ ỷ làm cha
Tưởng rằng cả bọn vô tù ráo
Sao thế, Nam Ngu ngả ngựa a?
Bên bờ Phước Long Giang, Lập thu K ỷ Hợi – 2019
Nhà thơ
Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét