Câu chuyện thứ
2.-(Kỳ 3)- Thời 9 năm ông ngoại tôi lâm vào cảnh phá sản do thực dân Pháp
Trịnh Công
Sơn có bài hát:
“Một ngàn năm
nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây.”
Cuộc xâm lăng lần thứ nhất là
ngày 1 tháng 9 năm 1858.
Sự thực thì
“nô lệ giặc Tây” không tới một trăm năm, kể từ tiếng súng xâm lăng nổ ra
trên bờ biển bán đảo Sơn Trà Đà Nẵng
ngày 01 tháng 9 năm 1858 do liên quân Pháp và Tây –ban- nha gây ra.
Người chỉ huy
hạm đội Pháp là Phó Đô đốc Giơnuiy (R. de Genouily), đã từng chinh chiến nhiều
năm trên chiến trường Nga và Trung Quốc. R. de Genouily có trong tay 14 tàu chiến
và 3000 quân. Ngoài ra trên mặt trận Đà Nẵng còn có 500 quân Tây Ban Nha do đại
tá Landarôt (lanzarotte) chỉ huy, mà một số sách lịch sử đã gọi là “liên quân
Pháp – Tây Ban Nha”. Quân Tây Ban Nha có mặt trong cuộc chiến tranh xâm lược vì
họ cũng bị kích động “trả thù” cho các giáo sĩ dòng Đa Minh của họ bị Tự Đức
sát hại.
Rạng sáng
1-9-1858, không chờ quân triều đình trả lời tối hậu thư, quân Pháp đã nổ súng
vào bán đảo Sơn Trà. Quân triều đình bắn trả, nhưng do vũ khí lạc hậu và không
được luyện tập thường xuyên nên kém hiệu quả, không thể ngăn chặn được Pháp đổ
bộ lên bán đảo Sơn Trà. Vũ khí hiện đại đã tạo cho liên quân Pháp-Tây Ban Nha lợi
thế ngay từ đầu, các đồn An Hải và Điện Hải (Trà Sơn) bị vỡ, quân triều đình phải
lui về Hòa Vang.
Cuộc xâm lăng
thứ 2 là vào ngày 23 tháng 9 năm 1945.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tuyên bố độc lập. Chỉ 21 ngày sau, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ
súng xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Vậy là, người dân Sài Gòn, người dân Nam bộ
chỉ được hưởng không khí độc lập đúng 21 ngày.
Ngày
2-9-1945, Nam bộ tổ chức mít tinh chào mừng Ngày Độc lập. Hơn 1 triệu đồng bào
từ các tỉnh, thành phố đã nô nức tề tựu về Sài Gòn để được chào mừng Ngày Độc lập
“Quốc dân hãy sẵn sàng chiến
đấu!... Đứng lên! Ngày độc lập bắt đầu từ nay! Tiến tới, vì độc lập, vì tự do,
tiến tới mãi! Không một thành lũy nào ngăn nổi chí của muôn dân trên đường giải
phóng!”.
Kết thúc hơn 87 năm nô lệ giặc Tây
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, là
ngày Pháp bị Nhật hất cẳng khỏi Đông Dương. Tính ra, từ ngày 1 tháng 9 năm 1858
đến ngày 9 thảng năm 1945, thực dân Pháp đã đô hộ nước ta 87 năm, 5 tháng 9
ngày. Thực
dân Pháp mất Đông Dương vào tay Nhật Bản. Như thế Pháp chỉ đô hộ Việt Nam chỉ
có hơn 87 năm và mấy tháng, mấy ngày.
Gọi là bản
A sửa 19-10-2014
Xung đột Đông Dương
Đối phương Kết quả
Khởi nghĩa
Trương Định (1859 - 1864)
Lực lượng
Trương Định ở Nam Kỳ
Đế chế Pháp
Thất bại
• Khởi nghĩa bị đàn áp
Khởi nghĩa
Nguyễn Hữu Huân
(1859 - 1874)
Lực lượng
Nguyễn Hữu Huân ở Nam Kỳ
Khởi nghĩa
Nguyễn Trung Trực
(1861 - 1868)
Lực lượng
Nguyễn Trung Trực ở Nam Kỳ
Khởi nghĩa Bảy
Thưa (1867 - 1873)
Lực lượng Trần
Văn Thành ở Nam Kỳ
Chiến tranh
Pháp-Thanh
(1884 - 1885)
Nhà Thanh
Hỗ trợ:
• Nhà Nguyễn
•
Quân Cờ Đen
Cộng hòa Pháp
Pháp chiến thắng
• Hòa ước Thiên Tân 1885
• Nhà Thanh công nhận Đại Nam thuộc quyền
bảo hộ của Pháp
Khởi nghĩa
Yên Thế (1884 - 1913)
Lực lượng
Hoàng Hoa Thám ở Bắc Kỳ
Cộng hòa Pháp
Liên bang Đông Dương
Nhà Nguyễn
Thất bại
• Khởi nghĩa bị đàn áp
Phong trào Cần
Vương (1885 - 1896)
Triều đình
kháng chiến Hàm Nghi
Lực lượng
Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ
Lực lượng
Đinh Công Tráng ở Trung Kỳ
Lực lượng Mai
Xuân Thưởng ở Trung Kỳ
Lực lượng Tống
Duy Tân ở Trung Kỳ
Lực lượng
Nguyễn Thiện Thuật ở Bắc Kỳ
Lực lượng Đốc
Ngữ ở Bắc Kỳ
Lực lượng Đèo
Văn Trị ở Bắc Kỳ
Cộng hòa Pháp
Liên bang Đông Dương
Nhà Nguyễn
Thất bại
• Hàm Nghi bị bắt
• Phong trào tan rã
Chiến tranh Pháp-Xiêm
(1893)
Cộng hòa Pháp
Liên bang Đông Dương
Xiêm La thời Nhà Chakri
Pháp chiến thắng
• Lào sáp nhập vào Liên bang Đông Dương
Phong trào chống
sưu thuế Trung Kỳ
(1908) Nhân dân Trung Kỳ
Cộng hòa Pháp
Liên bang Đông Dương
Nhà Nguyễn
Thất bại
• Phong trào bị dập tắt
Hà Thành đầu
độc (1908)
Binh lính và
đầu bếp nổi dậy ở Bắc Kỳ
Cộng hòa Pháp
Liên bang Đông Dương
Thất bại
• Quân nổi dậy bị bắt giam và xử tử
Khởi nghĩa
N'Trang Lơng (1911 - 1935)
Các bộ lạc
Tây Nguyên
Thất bại
• Khởi nghĩa bị đàn áp
Phong trào
Quang phục Quân
(1913 - 1925)
Việt Nam Quang phục Hội
Việt Nam Quang Phục quân
Cộng hòa Pháp
Liên bang Đông Dương
Nhà Nguyễn
Thất bại
• Phong trào bị dập tắt
Phong trào hội
kín Nam Kỳ
(1913 - 1916)
Lực lượng
Phan Xích Long ở Nam Kỳ
Liên bang Đông Dương
Thất bại
• Phong trào bị dập tắt
Khởi nghĩa
Thái Nguyên (1917)
Nghĩa quân
Thái Nguyên
Thất bại
• Khởi nghĩa thất bại
Phú Riềng Đỏ
(1930)
Đảng Cộng sản Việt Nam
Thất bại
• Pháp đã tiến hành bắt giữ tất cả các
lãnh đạo của phong trào Phú Riềng
Khởi nghĩa
Yên Bái (1930)
Việt Nam Quốc dân quân
Cộng hòa Pháp
•
Liên bang Đông Dương
•
Nhà Nguyễn
Thất bại
• Lực lượng khởi nghĩa bị đánh bại
• Đảng viên bị Pháp truy nã, giam cầm, lưu
đày, hành quyết
Xô Viết Nghệ
Tĩnh (1930 - 1931)
Đảng Cộng sản Việt Nam
• Xứ ủy Trung Kỳ
• Tự vệ Đỏ
Thất bại
• Nhiều cuộc biểu tình tự vệ vũ trang kết
hợp yêu sách chính trị, kết hợp đấu tranh bạo động và đấu tranh chính trị nổ
ra.
• Cuối cùng bị quân đội Pháp trấn áp và
tan rã.
Chiến dịch
Đông Dương (1940)
Quốc gia Pháp
•
Liên bang Đông Dương
Đế quốc Nhật Bản
•
Lục quân Đế quốc Nhật Bản
Thất bại
• Nhật Bản chiến thắng
• Nhật chiếm đóng Đông Dương
QUÊ MẠ PHƯỜNG SÃI
Ngày
Toàn quốc kháng chiến là ngay 19 tháng 12 năm 1946, nhưng trên thực tế cuộc
kháng chiến 9 năm từ ngày Pháp trở lại xâm chiếm Sài Gòn vào ngày 23 tháng 9
năm 1945 đến Hiệp nghị Jenève 20 tháng 7 năm 1954, kết thúc.
Cuộc Trường kỳ
kháng chiến 9 năm- 1945 – 1954
Cuộc chiến đấu
Vệ quốc thời 9 năm của Việt Nam là một cuộc chiến không cân sức giữa một bên là
trang bị vũ khí đến tận chân răng: đại bác, xe tăng, tàu bay,súng trường, tiểu
liên,trung liên và có đội quân thiện chiến với một bên là gậy tầm vông vạt nhọn,
gậy tầy, lựu đạn, súng kíp và gươm giáo. Đội quân này có loại vũ khí vô địch là
lòng yêu nước vô bờ bến!
Kinh thành Huế,
tiếng súng xâm lược lần thứ 2.
Triều đình
Hàm Nghi rút khỏi kinh thành, tiếp tục kháng chiến
Theo báo cáo
của tướng De Courcy sáng ngày 5 tháng 7 cho Toàn quyền Đông Dương:
"Huế,
ngày 5/7 vào lúc 3 giờ sáng. Phái bộ và Mang Cá bị bất ngờ tấn công bởi toàn bộ
binh lực của Kinh thành. Toàn thể khu vực của Thủy Quân lục chiến bằng nhà
tranh xung quanh Phái bộ đều bị đạn pháo và người đốt cháy. Tòa nhà phái bộ
nguyên vẹn. Không có tổn thất gì đáng kể. Không có tin tức gì về Mang Cá là nơi
đóng quân của tiểu đoàn 3 lính Phi châu. Kinh thành bị bốc cháy nhiều nơi; súng
lớn và súng nhỏ nổ nhiều. Tôi nhìn theo hướng của hỏa lực, tôi chắc rằng địch
đã bị đẩy lui. Tôi bảo vệ được căn nhà tranh đặt điện thoại. Tôi đã ra lệnh cho
Hải Phòng đưa quân đóng ở đó vào. Tôi không thấy có gì đáng lo ngại.
De Courcy
Huế, ngày 5
tháng 7 vào lúc 11 giờ sáng".
Sáng ngày 23,
vua Hàm Nghi rút lui khỏi Huế, xa giá nghỉ ở Trường Thi một lát rồi lên đường
đi Quảng Trị. Nguyễn Văn Tường được lệnh ở lại thu xếp mọi việc. Trưa hôm ấy,
ông nhờ Giám mục Caspard đưa ra gặp thống tướng De Courcy, ông Tường được đến
trú tại Thương bạc viện và bị đại úy Schmitz coi giữ. Pháp buộc ông ta nội hai
tháng phải thu xếp cho yên mọi việc. Ông Tường gửi sớ ra Quảng Trị xin rước Tam
cung[về lại kinh thành.
Với kết quả chiến đấu, kìm chân địch đến
ngày 5-2-1947 (50 ngày đêm), quân, dân Thừa Thiên - Huế đã viết nên những trang
sử hào hùng về lòng dũng cảm, chí khí kiên cường, tình đoàn kết trong những
ngày Toàn quốc kháng chiến.
Đúng 2 giờ 30 phút ngày 20-12-1946,
sau hàng loạt phát đại bác bắn vào các vị trí tiền tiêu của địch ở Mo-rin, chiến
dịch Huế mở màn. Quân ta đồng loạt nổ súng tiến công vào các cứ điểm địch; Nhà
máy Điện Huế bị điểm hỏa, toàn bộ điện thị xã Huế bị cắt, bọn Pháp chìm trong
bóng tối cố thủ. Các mũi tiến công của ta chia cắt địch không cho chúng co cụm
đối phó. Phía Bắc cầu Trường Tiền, cầu Giả Viên bị phong tỏa, cắt đứt; phía Tây
và Tây Nam cầu Ga, cầu Bến Ngự, Phú Cam, Lò Rèn, An Cựu... bị khóa chặt. Toàn bộ
quân Pháp bị nhốt lại ở khu Tam Giác (Nam sông Hương).
Thừa Thiên -
Huế bao vây, tiến công địch 50 ngày đêm
Ngày 28-1-1947, quân Pháp từ Đà Nẵng
đánh ra, chúng dùng 8 ca nô đổ bộ vào khu vực Lăng Cô. Ngày 29-1-1947, địch tấn
công Truồi, đổ bộ cửa Tư Hiền. Quân và dân các huyện Phú Lộc, Phú Vang, Hương
Thủy phối hợp với Tiểu đoàn 18 của Chi đội Trần Cao Vân chặn đánh địch quyết liệt,
không cho chúng giải vây cho quân Pháp ở Huế. Trong 16 ngày hành quân, trên đoạn
đường chưa đầy 60km, hàng trăm tên địch bị ta tiêu diệt thì quân Pháp mới đến
được Huế để giải vây đồng bọn.
Ngày 5-2-1947, địch từ ba mặt Thuận
An, Thanh Thủy, Bãng Lãng đánh vào Huế. Quân địch từ bên trong đánh ra cung An
Định, trường Việt An, ga Huế. Ngày 6-2-1947, quân địch bên ngoài và bên trong gặp
nhau.
Tính đến ngày 5-2-1947, quân và dân
Thừa Thiên - Huế đã bao vây địch suốt 50 ngày đêm trong thành phố Huế.
Quảng Trị đi
vào cuộc trường kỳ kháng chiến 9 năm
Ngaỳ 12 tháng
2 năm 1947, Pháp chia 2 mũi tiến công nống chiếm Quảng Trị. Mũi thứ nhất từ Huế
ra với hàng ngàn bộ binh, máy bay và xe tăng, đại bác. Và mũi thứ hai cũng được
trang bị vũ khí hiện đại từ Savanakhet , Lào xuống Đông Hà. Đến 15 giờ cùng
ngày thì chúng hội quân tại thị xã Quảng
Trị.
Như vậy, dân
Quảng Trị được hưởng độc lập từ ngày 23 tháng 8 năm 1945, do ông Trần Hữu Dực,
chủ tịch Ủy ban Cách mạng lâm thời tuyên bố, sau khi chính phủ Trần Trọng Kim bị
giải tán, đến ngày 12 tháng 2 năm 1947 là 1 năm, 5 tháng 9 ngày.
Nhân dân Việt
Nam nói chung và nhân dân Quảng Trị nói riêng chịu nhiều đau thương và mất mát
về người và của cải!
Ông ngoại tôi
bị phá sản vì chiến tranh
Phần lớn
không những nhà giàu mà cả những người nghèo đều bị tán gia bại sản vì cuộc chiến
tranh bẩn thỉu này.
Theo tộc
phả Nguyễn Văn, cụ Nguyễn Văn Cơ, còn gọi là Cố Nghi, vốn người gốc
Giáp Nê, làng Đông Hán, xã Thuần Trung, tổng Thuần Trung, huyện Lương
Sơn, phủ Anh Sơn, trấn Nghệ An, nay là thôn Đông Bích, xã Trung Sơn,
huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Cụ được Chúa Sãi cho theo vào Quảng Trị
và được triều đình ban hàm Thất phẩm sơ lại, tương đương với cấp
huyện ngày nay, nhậm chức tại phủ Triệu Phong. Ở đây Cụ lấy người
vợ hai. Người vợ cả ở quê Đông Hán có hai người con gái. Người vợ
thứ sinh được một người con trai duy nhất đặt tên là Nguyễn Văn Thùy.
Làng mới
của những di dân có tên là Xuân An, nhưng Cụ Cơ đã xin triều đình đi
khai hoang lập ấp ở miền sơn cước.Đó là phường Xuân Sơn, thường gọi là Phường
Sãi.
Từ đời nọ đến đời kia, các cụ và ông ngoại tôi đã khai sơn phá thạch xây
nên một cơ đồ rất đáng khâm phục. Ngoài đất đai trồng tỉa các loại hoa màu, khoảng
ba mẫu tại Phường Sãi, các cụ đã khai hoang khoảng hơn hai chục mẫu ruộng ở Khe
Bội. Ruộng ở đây phần lớn là nằm dưới hác, hai bên là sườn đồi. Đầu nguồn, ông
đắp một cái đập ngăn, cho dòng nước cặp theo khe nước có nước quanh năm, cho
nên có thể gieo lúa cả hai vụ chiêm mùa.Bên sườn đồi có những mảnh đất bằng phẳng
thì ông tôi lập vườn trong cây lưu niên như mít, chè…Ông tôi dựng mấy nếp nhà
tranh đủ chỗ cho các người làm nơi sinh hoạt ăn uống, ngủ, nghỉ. Cạnh đập nước
có một ngôi nhà, sau này tôi được biết là ông cho người bác họ của tôi tên là
Nguyễn Ngọc …?, thường gọi là bác Chắt – người làng Đại Hào ở để trong nom ruộng
nương. Cuối nguồn ông làm một ngôi nhà khá rộng rãi. Chính ngôi nhà này, những
tháng ngày 9 năm,ông tôi đã dùng làm nơi ở tản cư những ngày Tây lên lùng.
Đến giữa năm Ất Dậu – 1945, đàn bò hơn
200 con bị ôn dịch bắt đi , chỉ còn lại đúng 1 con, dàn trâu cũng còn lại
đúng 1 con.
Ngôi nhà rường 3 gian 2 chái bị Tây đốt,
cháy 3 ngày đêm mà lửa chưa tàn. Hầm chứa chén bát kiểu hiệu Nhựt Bổn dưới nền
nhà khi bới lên thì rã như bột.
Tôi còn nhớ, 5 gian được xếp đặt như
sau: đầu hồi là một bộ ghế ngựa bằng gõ, phía trong có một cái buổng nhỏ.Gian
thứ hai có bộ tràng kỷ, phía trong có một buồng nhỏ.Gian thứ ba, phía trong là
giường thờ ( người Quảng Trị gọi là giường thờ thay cho chữ ban thờ), phía trước
để trống, để mỗi khi có việc kỵ giỗ hay ngày Tết thì trải chiếu làm nơi hương bái.Gian thứ tư, phía bên trong là kho
đựng vật tế tự.Phía ngoài có một cái sập gỗ mun đen bóng, trên mặt sập có nhiều
ngăn cửa mở, có khóa. Mặt sập là chỗ nằm của ông tôi. Tôi thấy có treo hai cái
giá sách. Giá làm bằng một miếng gỗ mỏng chuông vuông 30 phân tây, gắn vào hai
bên tấm gỗ là hai thanh gỗ, trên đầu có một thanh ngang có móc để treo.Sách xếp
vào trên tấm gỗ đó. Trên sập đặt một chiếc gối xếp 4 tầng. Trên giá sách ông tôi có trọn bộ :Tứ thư, Ngũ kinh…Và
nhiều sách thuốc của Hải Thượng Lãn Ông, của Tuệ Tĩnh, (các danh y nước Đại
Nam) và của Hoa Đà, Biển Thước…của Trung Hoa.
Ông thường thức dậy rất sớm. Chú Đáo đã bắc lên cái
siêu đồng trên bếp hỏa lò, đun nước pha trà.
Khi ấm réo sôi thì ông thong thả lấy ấm pha trà rót nước sôi vào tráng ấm.Ông lấy hộp trà Chính Thái ra, lấy một bụm cho vào cái
ấm đất độc ẩm rồi rửa trà bằng nước sôi.Nước tráng ấm và
rửa trà được đổ vào cái ống nhổ bằng đồng. Ông chờ trong giây lát cho trà ra, rồi ông rót váo cái chén tống thời
Khang Hy. Khi đó, ông mới chuyên trà vào cái chén mắt trâu cũng của thời Khang
Hy bên Tàu.Ông uống đến tuần trà thứ hai thi ngưng và bắt đầu ngâm thơ. Thường
thì những bài thơ Đường luật của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu và Truong Kế…Tôi
còn nhớ bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu mà ông thường hay ngâm. Tôi còn được
ông dạy cho nhớ cả chữ Nho lẫn chữ ta:
Hoàng Hạc
Lâu
Tích nhân
dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa
không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc
nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân
thiên tải không du du.
Tình xuyên
lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo
thê thê Anh Vũ[2] châu.
Nhật mộ
hương quan hà xứ thị,
Yên ba
giang thượng sử nhân sầu
.
Dịch nghĩa:
Lầu Hoàng
Hạc
Người xưa
đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ
còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một
khi bay đi đã không trở lại
Mây trắng
ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
Mặt sông
lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm
trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời về
chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông
khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
***
Tôi còn nhớ: Bữa ăn của ông tôi rất đạm bạc. Trên chiếc mâm đồng ba chân, bày biện một đọi canh,
thường là canh rau me đất nương nhà, nấu với cá hanh bàu Nước Xanh, sông Thạch
Hãn. Cá hanh là một loài thủy sản quý. Ông thường cho tôi theo câu cá. Mồi là một
con tôm sông nhỏ bằng đầu đũa, trong bụng tôm nhét một hột tiêu sọ, rồi mắc vào
lưỡi câu, thả vào nơi nước sâu có đến bốn, năm thước. Giật được chừng dăm con
thì ông cháu ra về. Những con còn sống khỏe thì rọọng vào cái độộc, để dành
ngày hôm sau; một dĩa cá kho, thường là cá sòng hoặc cá thu kho tiêu; một đĩa
rau khoai lang hoặc rau chêêng luộc; một chiếc om cơm gạo ngự. Ông ngồi ăn một
mình, còn mệ ngoại tôi thì ăn cơm ở nhà ngang cùng với chị Thản và chú Đáo, người
ở thường xuyên trong nhà.
Có một lần, tôi thấy ông đang ăn thì có khách đến. Ông
mời khách ngồi vào bộ trường kỷ và ông xin lỗi dùng xong bữa, rồi mới ra tiếp
khách! Sau nay, ông có lần nhắc cho tôi biết, vì sao ông không cho thu dọn chén
dĩa mà ông vẫn ngồi ăn. Bởi vì, khách có trông thấy bữa ăn đạm bạc của ông thì
ông không ngại họ chê mình nghèo!
Gian thứ năm, tôi thường thấy mệ ngoại tôi và chị Thản ở, cả gian
làm phòng nghỉ và có cửa ra vào.
Bước
xuống, là nhà ngang, nơi có bếp và ang nước.
Cho
đến ngày Pháp nống chiếm Quảng Trị thì người làm trong nhà về quê của họ. Thành
ra, ruộng ở Khe Bội bị bỏ hoang. Còn lại, một diện tích không đáng kể ở trên biền,
ông cho trồng sắn, khoai tía, khoai ngà, và khoai từ; hơn một sào, trước đây là
ràn bò thì trồng ớt và thuốc lá. Mảnh đất thấp trước lùm miệu ông vẫn sạ lúa ngự.
Thế
là ông tôi lại trở về làm một nông dân tri điền. Có một lần tôi đã được ông cho
theo vào Khe Bội từ gà gáy canh ba. Đến quá hác Sủng Moong thì gặp cọp, đàn
trâu quay đít vào trong để bảo vệ mấy con nghé, còn sừng thì tua tủa ra ngoài.
Ông bảo tôi cứ ngồi yên trên lưng trâu và hô to huơ là huơ. Cọp thấy khó xơi
nên cọp bỏ đi. Ông và tôi tiếp tục cho trâu đi.
Gia
sản của ông mệ ngoại tôi coi như mất gần hết. Còn cái sừng tây ngu, ông luôn mang theo bên người. Đến khi
ông mất thì một trong mấy người con của cậu Diêu Xoan tôi nắm giữ. Anh Nguyễn
Minh Chẩm, con của cậu nói có thấy chiếc sừng đó khi gia đình cậu tản cư.
Như
vậy, kể từ đời Cụ Cố Nghi từ Nghệ An vào, họ Nguyễn Văn của ông tôi, từ hai bàn
tay trắng xây nên một trang ấp khá đồ sộ ở Phường Sãi, nhưng bọn Phú Lang Sa đã
tàn phá hết.
Chiến
tranh, dù là chiến tranh nào đi nữa cũng chỉ đem lại chết chóc và đau thương cho người dân mà
thôi.
Tôi
căm ghét chiến tranh !
Bên bờ Phước
Long Giang, ngày 22 tháng 7 năm 2021.
Nhà thơ Xuân
Bảo.
Viết lại, có bổ sung vài chi tiết,đăng lại toàn văn. Bên bờ Phước Long
Giang ngày 1 tháng 8 năm 2021, nhằm ngày 22 tháng 6 năm Tân Sửu.
Nhà thơ Xuân Bảo.