Trang

Thứ Hai, 28 tháng 6, 2021

344. Ông nội tôi làm lý trưởng thời Bảo Đại

 

 344 OOng6  

         Ông nội tôi nhiều lần lều chõng vào kinh đô ứng thí nhưng không đỗ, đành về quê

Văn chương phú lục chẳng hay/Trở về làng cũ học cày cho xong

Thế nhưng, Triều đình dường như tiếc cái công lao dùi mài kinh sử nên cũng cho ông tôi làm lý trưởng đến gần chục năm. Lý trưởng còn được gọi là xã trưởng,( chức tương đương như Chủ tịch phường, xã bây giờ) Dân Quảng Trị quê tôi phát âm không chuẩn nên thường  gọi xã ra thành  ông xạ.

Lúc còn nhỏ, những khi cha mạ cho về thăm làng,  tôi  thường được Ông nội dạy bảo bằng những câu chữ nho như ; nhân chi sơ vốn bản thiện, nhân bất học bất tri lý- ấu bất học lão hàn vi…Ông dạy tôi học chữ thánh hiền bằng những bài học vỡ lòng trong cuốn Tam thien tu như Thiên trời địa đất. Cử cất tồn còn. Tử con tôn cháu. Lục sáu tam ba. Gia nhà quốc nước. Tiền trước hậu sau. Ngưu trâu mã ngựa…Ông còn dạy tôi viết chữ Hán. Ông đem ra cái mâm gỗ, lấy cát Tiểu Trường Sa ( tức là loại cát lấy ở đoạn giũa cắt khúc đồng bằng và miền duyên sơn.). Ở Quảng Trị ngày nay còn nhiều từ đoạn Thành Cổ đến các xã thuộc huyện Hải Lăng – bây giờ đoạn này còn được gọi là Đại lộ kinh hoàng trong Mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cát được đổ vào xâm xấp lòng mâm, sau đó dùng ngón trỏ viết tập. Thí dụ : Chữ Thiên  gồm hai nét ngang và một nét phẩy, một nét mác. Viết xong, lắc cái mâm cho cát trở về bằng phẳng như ban đầu. Ở cái thời đó, cách  tập viết như thế quả là một sáng kiến vĩ đại, vừa tiết kiệm giấy lại vừa luyện cho nhuần nhuyễn quen tay. Đến khi nào thuần thục thì mới dùng bút nho viết lên giấy bổi.

         Tôi cũng thường được Ông cho theo ra đồng, Tuy là lý trưởng nhưng ông cũng phải lam lũ ruộng nương như những lực điền. Tôi còn nhớ như hằn sâu vào ký ức thơ ngây của tôi về cái cung cách làm việc của những công bộc của dân thời đó.

Chuyện là như thế này : Ông tôi đang cày ruộng. Có một người dân cần lên quan có việc gì đó nên phải lặn lội ra đồng để tìm xã trưởng ký chứng vào đơn. Ông tôi họ ( dừng ) trâu lại và lên bờ gặp đương sự. Sau khi rút cây bút nho, thường dắt tai, Ông tôi mút vào miệng cho ướt đầu thấm mực, ký chứng vào đơn, Ông tôi lấy cái triện vận trong lưng quần ra, hà hơi cho ẩm hơi nước rồi kê lá đơn vào đầu gối ấn cái triện vaò, ( triện , miền bắc gọi là con dấu, miền nam gọi là cái mộc)  nơi có chữ ký của ông. Hồi đó dân ta không mặc quần dải rút hay lồng bằng dây thun như ngày nay mà mặc quần lưng vận.

          Ông tôi là người hay chữ. Chữ nho Ông viết rất đẹp.Ông được dân làng rất mến mộ. Trong làng nhà nào có việc quan hôn tang tế đều đến xin Ông tôi cho đôi câu đối, hoành phi hoặc văn ai, văn điếu. Mặc dù làm việc “nước”, nhưng Ông tôi cũng phải lao động cật lực để nuôi sống gia đình. Khi việc làng, Ông được trọng vọng ngồi chiếu trên. Khi hết việc, Ông tôi chỉ làm người dân như mọi người. Những ngày giáp Tết Nguyên đán, Ông tôi thường mang chiếu, tráp, giấy điều, mực nho ra ngồi dưới tán cây đa cạnh đình làng để viết thuê câu đối. Viết  đến đây tôi lại nhớ đến nhà thơ Vũ Đình Liên với bài thơ Ông đồ nổi tiếng. Vì thế tôi càng nhớ  và thương Ông tôi da diết.

          Mệ nội tôi, quê làng An Cư, tổng An Cư cùng phủ Triệu Phong là cháu quan đại thần Nguyễn Văn Tường. Ông sinh năm 1824, theo phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết nên bị  thực dân Pháp bắt ông giam xuống tàu chở vào Gia Định, rồi chở ra đày ở đảo Tahiti và chết tại đó năm 1886.

Có một điều rất đặc biệt là hai làng Đại Hào và An Cư đồng thờ chung Ngài Khai khẩn tên là Nguyễn Thông. Chị ruột Mệ nội tôi được gả về làng Tường Vân, lấy chồng là vị quận công được Triều đình tấn phong tước Hồng lô tự khanh. Ông mệ tôi sinh hạ được  sáu người con, hai trai bốn gái.

 

Gia đình chúng tôi về quê nội. Đúng lúc có trát sức về làng tôi đã đậu Yếu lược. Ông nội tôi đã cho mổ bò khao làng, mừng đứa cháu đích tôn được phong là Ấm sinh.

         Ba Mạ tôi lại đưa tôi vô Huế, chuẩn bị cho ngày tựu trường niên khóa 1944-1945. Tôi vào học lớp Nhì nhất niên (cours moyen 1) tại trường Queingec. Học nửa niên khóa thì Nhật đảo chính Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Nam thôi là nước thuộc địa của “mẫu quốc Đại Pháp” đô hộ.

 

           Tính theo thời gian mà Phả ký Tộc Nguyễn Ngọc có hiện tại thì dòng họ này đến hiện nay là 16 đời, tương ứng với thời điểm Chúa Tiên vào đây. Làng Đại Hào có họ Nguyễn tám phái mà phái Nguyễn Ngọc của tôi là lớn nhất. Chi của cha tôi có nhiều người đỗ đạt.

Theo Phả ký Nguyễn Tộc làng Đại Hào ghi chép từ đầu thế kỷ 20 thì Ông nội tôi nhiều lần lều chõng vào kinh đô ứng thí. Ông đỗ vào Trường Nhì Bạch Giáo sư trúng sĩ bổ. (theo ghi chép ở cuốn Chi phổ họ Nguyễn Tám phái làng Đại Hào). Ra trường, ông được bổ về dạy học (thầy dạy chữ Nho) ở làng Lâm Xuân, huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Lâm Xuân là làng nghề dệt chiếu rất đẹp. Ở đây có một hủ tục là không cho con gái lấy chồng ngoài làng, bởi sợ mất nghề. Cũng như ở Bắc Ninh, làng Vân có nghề nấu rượu nổi tiếng cho nên làng không gả con gái cho nơi khác. Các bậc bô lão trong làng đề nghị ông tôi làm thơ nói lên tác hại của hủ tục này. Ông tôi đã làm một bài vè để cho dễ nhớ. trong đó có những câu:

 

…Ba mươi tuổi tác đó chừ

E lẫn thẩn mà trẻ qua già tới

Ngọc phải giá không buông còn đợi?!

 

Bài vè này dài, tôi chỉ trích mấy câu. Cháu ngoại của ông tên Trần Kỳ Đại, con O Chuyển đã chép toàn văn cho tôi.

Thời gian sau, Ông thôi dạy học và trở về làng để làm lý trưởng.

         Bên bờ Phước Long Giang,ngày 25/12/2018. Noel 2018

                                             Bài đăng lại ngày 27/6/2021

Nhà thơ Xuân Bảo

Chủ Nhật, 20 tháng 6, 2021

342. Tôi đi ở đợ chăn trâu cho anh chị Lê Yên

 

Câu chuyện thứ 29. Tôi đi ở chăn trâu cho anh chị Lê Yên.

 

       Mạ tôi đã đồng ý cho tôi đi ở đợ (tức là đi làm thuê dài ngày). Trước đó, Mạ tôi đã đến gặp anh chị Lê Yên. Vợ anh Lê Yên là chị Trần Thị Cúc, con gái Ôông Mụ Giáo Trở - người mà bị mấy ông cốt cán của làng đem ra đấu tố trong thời kỳ đầu cải cách ruộng đất (1953). Thời kỳ này mới chỉ có “giảm tô, giảm tức”. Bạn tôi, Trần Đức Long đã có bài viết rõ việc đấu tố địa chủ này. Tôi đưa bài này vào Câu chuyện làng quê, câu chuyện thứ 19 trong sách này.

       Đá Đứng là một bán đảo rất đẹp của dòng Thạch Hãn. Con sông này đang chảy một dòng thẳng từ Trấm về xuôi thì bị các dãy đá hàn chắn lối, buộc chảy vòng sang hữu ngạn rồi uốn trở lại ở đầu dốc Cơn Thang một khúc chừng vài trăm mét. Hình thành một vòng cung tròn như cái đit thúng khổng lồ, đất ven bờ rất tốt.

      Đá Đứng sau này là nơi chặn dòng, làm đập tràn, xây dựng công trình Thủy lợi Nam Thạch Hãn. Có nhiều người gọi Đập Trấm là không đúng!

       Đá Đứng, cũng thuộc địa bộ làng Thượng Phước -  nơi nhiều nhà giàu trong làng lên khai phá đất đai làm vườn tược, trồng nhiều cây ăn trái lưu niên, thành những bức nương rất to và đẹp. Và có nhiều nhà ngói như nhà cụ Cửu Trần Đức Hạp. Cụ Hạp có mấy người con tham gia Việt Minh như nhà báo Trần Đức Lương, đại tá Trần Đức Duệ, viện trưởng Viện Nước , Bộ Thủy lợi Trần Khâm...

        Gia đình anh Lê Yên có một ngôi nhà ngói to ở tại phường này. Anh cũng đã từng đi thoát ly, tham gia kháng chiến và không hiểu tại sao anh bị giản chính biên chế, trở lại làm dân? Vì thành phần chăng, tôi không rõ lắm.

        Anh chị Lê Yên đồng ý cho tôi “ở đợ” với công việc thường nhật là chăn trâu. Anh chị có một con trâu đực, tên là Chảng dùng để cày bừa trong những ngày mùa. Ngoài ra, có thể giúp làm những việc lặt vặt trong nhà như bế em,gánh nước, làm cỏ, có lúc gánh cá giúp chị Cúc đi bán ở chợ Phong An.

        Anh chị nói với Mạ tôi rằng: Tiền công trả cho tôi một năm là một lương (đơn vị đo lường ở quê lúc bấy giờ) lúa bằng sáu thúng; hai bộ áo quần cộc bằng vải to*; ăn ở tại nhà anh chị.

        Cuộc đời tôi bước sang trang mới: xa Mạ và các em lúc tôi 15 tuổi.

        Sáng ra, tôi trèo lên lưng con Chảng, đưa nó vào ăn cỏ ở cánh đồng La Nghìn. Bất giác, tôi nhớ đến bài tập đọc Chăn trâu trong sách Quốc văn giáo khoa thư, lớp Đồng ấu, hồi ở Huế.

 

 

        Ai bảo chăn trâu là khổ?

        Chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội nón mê như lọng che. Tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ.

        Trong khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!

        Tôi vẫn mặc bộ áo quần cộc bằng vải to mà Mạ tôi đã mua ở chợ tỉnh Quảng Trị. Cái nón lá đã rách đến vành thứ ba. Chân vẫn mang đôi dép mo cau đã sờn rách. Tôi được chị Cúc bới cho một mo cơm độn sắn và một gói muối mè để ăn bữa trưa.  Chị dặn: mi nhớ mót ít củi sim về nấu nướng nghe!

Tôi chỉ dám đưa con Chảng ăn loanh quanh ở La Nghìn, Độộng Ôi, không dám đưa vào Phúc Trèn, nơi có rất nhiều cỏ, vì sợ cọp bắt!

        Trời chạng vạng tối, tôi cưỡi trâu về. Vắt ngang lưng con Chảng là hai bó củi, buộc lại với nhau bằng những sợi dây chìu.

        Cho trâu vào ràn xong, tôi xuống sông tắm táp. Và bữa cơm tối, tôi ngồi cùng ăn với o Bứa (người ở giữ con) cho anh chị. Ngày lại qua ngày, cuộc đời đi ở của tôi trôi đi đều đều như vậy.

       Cho tới một ngày, anh chị Lê Yên bán con Chảng đi. Và tôi, “thất nghiệp”! Giờ thì tôi được làm anh đầy tớ thực thụ. Chị Cúc làm thêm nghề bán cá. Cá sông Thạch Hãn rất nhiều, được hai vạn nốốc ôông Yên, ôông Dĩ đánh bắt bán cho chị Cúc. Chị bảo: Mi sẽ cùng tau sương cá đi chợ Phong An. (Chợ Phong An, cách Đá Đứng khoảng 4, 5 cây số.) Hồi mới, cách mệnh mùa thu, các xã mới được đặt tên mới. Thượng Phước, An Đôn, Nhan Biều có tên xã là Phong Sơn. Các làng phía trên Ái Tử có tên xã Phong An…

        Thời điểm cuối năm 1951, cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển từ “ phòng ngự” sang ‘ chuẩn bị tổng tiến công”.Mạ tôi lên Đá Đứng xin cho tôi được về nhà để đi học.

        Anh chị Lê Yên – Trần Thị Cúc đồng ý.

       

         Thế là, tôi được về với Mạ và các em, sau hai năm đi ở. Tình hình Thượng Phước chưa bao giờ vui như hôm nay.Các cơ quan Tỉnh Đội bộ, Ty Thông tin – Tuyên truyền, Ty Bình dân học vụ, Đoàn Thanh niên Cứu quốc… lần lượt về đóng ở Thượng Phước.

        Tôi lại được cắp sách tới trường với suất học bổng 27 ký lúa.Tôi và Trần Đúc Long thay nhau chiếm ngội vị nhất nhì lớp. Tổ học sinh Thượng Phước chúng tôi đã có nhiểu thành tích tham gia kháng chiến.

        Tôi còn nhiều kỷ niệm với thời gian này. Xin khất bạn đọc sẽ viết tiếp vào thời gian sau.

 

Bên bờ Phước Long Giang, ngày 20/6/2021.

Nhà thơ Xuân Bảo

       

Thứ Tư, 16 tháng 6, 2021

341. Mạ tôi trở thành góa bụa lúc 32 tuổi đầu

       

                     Câu chuyện thứ 28. - Mạ tôi trở thành góa phụ lúc 32 tuổi đầu!

 

                               Tin đau đớn đối với mấy mẹ con tôi là khoảng tháng 11 năm 1948, có tin báo Ba tôi đã chết. Còn chết như thế nào thì không được nói rõ. Trong khi đó Mạ tôi chuẩn bị sinh đôi. Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Vô Danh (chết trong bụng mẹ). Như vậy Kim Cúc khi sinh ra không được nhìn thấy mặt cha! Có đau buồn nào hơn đau buồn này chăng?

                                Như thế, Mạ tôi trở thành góa phụ khi tuổi đời mới trên ba mươi. Còn chúng tôi trở thành những đứa trẻ bồ côi cha!  Một mình Mạ tôi lam lũ làm thuê làm mướn nuôi 5 anh em chúng tôi. Cuộc sống vô cùng chật vật khó khăn. Còn đâu những ngày tháng sống trong nhung lụa ở đất Thần kinh Huế!

                              Sinh thời, trong những năm kháng chiến chống Pháp, không bao giờ Mạ tôi khóc vì thương nhớ Ba tôi trước mặt các con. Chỉ khi đêm về, Mạ tôi ngồi lặng lẽ khóc thầm bên bếp lửa. Lúc này tôi đã 13 tuổi, đã biết suy nghĩ về vai trò người con lớn trong gia đình. Tôi muốn giúp Mạ tôi một công việc gì đó để đỡ vất vả vật lộn với cuộc sống hàng ngày. Tôi xin Mạ tôi đi ở đợ! Câu ca:

 

                              “Còn cha gót đỏ như son

                                Mất cha gót mẹ gót con đen sì”.

                              Là như vậy đó!

 

                               Những kỷ niệm không phai mờ của tôi đối với Mạ tôi .

 

                          Kỷ niệm 1.Mạ tôi tham gia kháng chiến chống Pháp

 

                           Nói “Thời 9 năm” là để nói về cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, bắt đầu từ cái mốc Nam Bộ kháng chiến - ngày 23 tháng 9 năm 1945 - cho đến khi ký kết Hiệp nghị Genève, ngày 20 tháng 7 năm 1954.

                             Trong những năm chiến tranh chống Pháp, Mạ tôi đã tham gia kháng chiến tích cực: đi dân công tải lương, tải đạn, phá đường, rào làng chiến đấu, tham gia Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Mẹ  và Chị Chiến sĩ. Mạ tôi đã được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba. Đây là một vinh dự lớn cho gia đình chúng tôi.

 

                                                  ***

         

                               Quê Mạ Phường Sãi của Mạ tôi được mệnh danh là vùng tiền chiến khu Ba Lòng, cũng có tên gọi là miền duyên sơn, chỉ nằm cách Quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt không đầy 5 cây số. Chỉ cần đi bộ khoảng một giờ đồng hồ thì đến thị xã Quảng Trị. Mặc dù là một miền quê nhưng người dân ở đây tiếp thụ được ánh sáng văn hóa đô thị khá đậm nét. Những đứa học trò sau khi học hết lớp Sơ đẳng (cours élémentaire) trường làng thì học tiếp lên lớp trên phải về học tại thị xã. Thị xã Quảng Trị ngoài trường công còn có một ngôi trường tư thục của ông đốc tờ Phan Văn Hy. Trường mang tên là Kỉnh Chỉ, bút danh của thầy thuốc kiêm nhà thơ Phan Văn Hy.

                              Những người nông dân muốn bán nông sản mình làm ra cũng phải gánh gồng về chợ tỉnh để bán. Những vật dụng hàng ngày, những nhu yếu phẩm cho cuộc sống đều phải mua ở chợ thị xã Quảng Trị. Từng đoàn người gồng gánh vật phẩm ra đi từ tờ mờ sáng cho tới gần trưa mới về nhà. Cứ tưởng cuộc sống êm ả trôi qua tháng ngày của vùng quê thanh bình. Nhưng than ôi! Bọn giặc Pháp đang quay trở lại. Không thể làm kiếp người nô lệ lần thứ hai!

                              Gia đình ba mạ tôi gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống khi rời Huế về Quảng Trị. Lương hưu của Ba tôi bị cắt từ hôm Nhật đảo chính Pháp. Mạ tôi đã xa rời cuộc sống nông thôn trên 10 năm, một nách bốn đứa con dại. Đồng bằng Triệu Phong là một vùng thuần nông. Làng Đại Hào quê nội cũng đói nghèo như nhiều nơi khác trong tỉnh. Ba mạ tôi xin ông mệ nội được đem đàn con về quê ngoại Phường Sãi. Dù sao ở đây vẫn có nhiều đất đai chưa khai thác hết. Rừng rú, khe suối thì sẵn sản vật có thể nuôi sống con người.

                           Về quê ngoại vốn liếng của ba mạ tôi chỉ đủ mua bưc nương của cậu Diêu Khuê mà thôi. Để làm được cái nhà tranh tre, ba mạ tôi phải tự đi vào Dốc Son cắt tranh về làm mái lợp. Tre thì đã có sẵn xung quanh nương mới mua. Bà con xúm lại giúp đỡ chỉ trong vòng tháng trời nhà đã dựng xong.      Tôi lại được cắp sách tới trường. Trường công chưa có thì học trường tư tại thôn Thượng Phước. Tôi vào học lớp nhì nhất niên (cours moyen un) do thầy Trần Đình Khác dạy. Tôi còn nhớ có một lần điểm danh, khi thầy gọi đến tên Nguyễn Xuân Bảo thì tôi đã quen lối xưng hô thời trước, buột miệng trả lời “présent” làm cho cả lớp cười ồ lên. Tôi lại quen miệng nói “Pardon! Pardon!” Cả lớp lại ồn lên. Thầy Khác lấy thước kẻ đập xuống mặt bàn và nói “Silence!” tức là im lặng. 

                               Để kiếm sống ba tôi phải vào rú (độộng) đốn củi gánh về chợ tỉnh Quảng Trị bán. Hình ảnh người cha còng lưng gánh gánh củi sim (củi chặt ra từ những cây sim có độ dài không tới một mét, được bó lại bằng những sợi dây chìu và dùng đòn xóc nhọn hai đầu xỏ xuyên qua lưng chừng bó củi), gánh bộ từ Phường Sãi đến chợ tỉnh dài hơn 5 cây số còn đọng mãi trong tâm trí tôi. Đâu rồi những ngày tháng sống trong sự sung túc ở Huế? Đâu rồi một bước đi chỉ có lên xe xuống ngựa?! Mạ tôi bắt đầu trở lại với công việc ruộng nương. Bức nương của ba mạ tôi có các loại cây lưu niên như mít, bồ quân, dâu gia, chè, chanh, cam, quýt, bưởi, thơm. Những thứ trái cây này khi vào mùa thu hoạch mạ tôi hái đem về chợ tỉnh bán.

                                 Phía góc nương gần Khúc Mưng có một cây dầu lai cổ thụ, năm nào cũng ra rất nhiều trái. Trái cây dầu lai này khi chín thì bóc tách bỏ lớp vỏ ngoài, lấy hạt (nhân) dùng để làm món muối trộn thay muối mè (vừng) hay muối đậu phụng (lạc) ăn với cơm hàng ngày. Chung quanh ba phía là lũy tre. Giữa nương có chừng hơn hai sào đất trống, Mạ tôi đã xuống giống trống khoai lang, môn và sắn. Gần nhà thì dựng mấy cây tre làm giàn trồng bầu, bí, mướp theo mùa nào thức ấy.

                                Tối đến Mạ tôi đi soi cá. Đuốc đốt lên không cháy thành lửa ngọn mà chỉ đỏ lửa than. Những bầy tép đi thành đàn cặp mép sông, bơi ngược dòng. Nước chảy xuôi nhưng tôm tép thì bơi ngược. Ngồi sáng đêm mạ tôi xúc được bộn tép, có khi được cả thúng. Ngoài số tép dùng cho các bữa ăn, số còn lại mạ tôi muối làm mắm để ăn dần. Dì Mão đã bắc sẵn lên bếp một nồi cháo gạo ít khoai nhiều. Dì xuống bến đến chỗ mạ đang xúc tép và lấy một mớ tép. Dì vợt những con tép đang nhảy tưng tưng trên mặt thúng cho vào thúng nhỏ đem lên, chỉ dội lại một lần nước và cho vào nồi cháo, chỉ cần nêm thêm vài muỗng muối là có món cháo rất ngọt ngon. Tôi múc một đọi to mang xuống bến cho mạ. Nhìn mạ sùm sụp trong chiếc áo tơi rách với cái nón mê trên đầu mải mê vợt tép để nuôi đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn, trong khi ba tôi còn đi chiến đấu bảo vệ quê hương. Tôi thấy thương mạ vô ngần!

                                Trừ những khi có lụt, còn lại là những đêm trời trong, mạ thường đi soi cá. Soi cá cũng dùng đuốc bằng cây sậy hoặc cây hóp chẻ nhỏ, phơi khô bó thành từng bó bằng cái cột nhà tre, dài chừng 2 mét. Tối đến đuốc được đốt ở bến nước, rồi lội xuống mép sông, một tay giữ cây đuốc trên vai, một tay cầm cái nơm, khi thấy cá đóng đèn, tức là đóng ánh sáng đuốc. Chúng đứng im một chỗ thì dùng nơm úp lên con cá, bó đuốc tạm thời bỏ lên bờ, thò tay vào nơm bắt cá, thường là loại cá chép, cá trôi, cá mè…có con nặng cả ký lô. Khi không dùng nơm thì dùng dao thái chuối, thấy cá đóng đèn thì lấy dao chém. Có con bị chém dứt làm đôi. Đi soi cá thường đi vào đầu hôm, cháy hết hai cây đuốc thì về nhà. Số cá thu được cũng kha khá, chừng vài ba ký, đủ dùng cho vài ngày.

 

 

 

 

                       Kỷ niệm 2. Tình trạng bi đát của gia đình tôi

.

                                   Tôi chép ra đây một đoạn trong Chúc thư của Mạ tôi viết ngày 2 tháng 2 năm 2004, khi Mạ tôi đã 89 tuổi để nói lên tình trạng bi đát của gia đình tôi lúc bấy giờ. Mạ tôi đã viết như sau:

 

                     “…Mạ nói cho các con biết: Lúc ông bà ngoại còn sống, ông bà đã cho ba mạ 2 mẫu ruộng, 5 sào đất vườn. Ông nói: Cha mẹ cho hai con chừng đó, đừng có tửu điếm trà đình, lo làm lo ăn. Cho các cháu học hành tới nơi tới chốn. Nay mai ba nó hưu trí về phụ thêm làm ăn, không đại gia chứ cũng tiểu phú, con không lo cực đâu, bổn mạng con tốt lắm!

 

                               “Các con ơi, thân má khổ lắm, ông bà ngoại mất rồi, ba đi công tác không thấy về, một mình má ôm đàn con dại biết cậy nhờ ai đây, nghĩ mình như chàng Thúc bó tay… tứ cố vô thân, biết nhờ ai đây? Má như cờ túng nước. Thôi, mai đi tìm việc làm đã. Mới nói thì cậu Diêu (tức ông Nguyễn Văn Xuân) ra nói: O còn nhớ cấy lúa không? – Còn nhớ chứ, cơm ăn bữa mà không nhớ sao được. – Mai vô sớm nghe! Má hỏi: Cấy ở đâu anh? Anh nói: Phúc Trèn. Các con ơi! Má gánh một gánh mạ, chân không có dép, bước lên sỏi đá chông gai. Lên tới đồng ruộng, má bước chân xuống bùn lầy, giá lạnh. Phúc Trèn hiu hắt đưa vào lòng má quá chua cay. Nước mắt, nước mưa trộn một, má tính bỏ ra về. Mà một mặt thì sợ cọp, một mặt sợ tối về không có chi cho các con ăn nên má cố làm cho tối ngày. Lúc về tới nhà thì đàn con đứa ngủ, đứa đang khóc, đứa thì trông mẹ về…”

 

                           Ngày 27/3/1973, Hiệp định Paris,đình chiến,  tôi về Quảng Trị tìm về quê nội Đại Hào và quê ngoại Phường Sãi. Được biết, Mạ tôi và các em đã bị ông Thiệu xúc tát vào miền Nam hồi “mùa hè đỏ lửa – trên đại lộ kinh hoàng năm 1972”.

       Mãi tới giữa tháng 5/1975 tôi mới được gặp laị Mạ tôi ở ấp 3 xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh ĐồngNai.

       Tôi bàn với nhà tôi là cả hai cùng về công tác tại Đồng Nai để được gần gũi Mạ tôi và các em.

        Trong những năm tháng này, tôi đã làm được một số việc. Đó là việc xây lăng gia đình ở quê nội; làm bộ phim Bài thơ về Mẹ và đi tìm mộ cha tôi.

       Lăng đã xây xong năm 1993, quy tập hài cốt của tứ đại gia đình từ ông bà cố, ông mệ nội tôi, cha tôi, chú ruột Nguyễn Xuân Tịch, o ruột tôi Nguyễn Thị Nghiễn và em ruột Nguyễn Xuân Lộc, em ruột Nguyễn Vô Danh.

       Và cũng đã viết một cuốn sách kể lại quá trình “Đi tìm mộ Cha”

       Tôi viết cái Bút ký này là theo ước nguyện của Mạ tôi lúc sinh thời. Mạ tôi luôn đau đáu với niềm tin là trước sau cũng tìm thấy mộ phần của Ba tôi. Khi đưa được Ba tôi về quê nhà thì Mạ tôi không ra Quảng Trị kịp vì trắc trở tàu xe để nhìn thấy Ba tôi, dù chỉ là một nắm tro bụi thời gian. Mạ tôi có trách tôi thì tôi xin chịu tội. Theo tục lệ xưa nay vì không được phép để hài cốt Ba tôi ở lại trên trần gian.

                     Trong đoạn kết của bút ký Đi tìm mộ Cha, tôi đã viết:

                                                         Kính thưa hương hồn Mạ!

                      Như vậy là con đã hoàn thành sứ mệnh Mạ giao cho: Đưa được Ba con về với quê hương bản quán; được sum vầy cùng những người thân quá cố trong Lăng gia đình; thỏa mãn được lòng mong đợi tiếc thương người chồng vô cùng kính yêu của Mạ; thỏa lòng chúng con khỏi băn khoăn áy náy bấy lâu nay!

                     Nhân đây, thay mặt gia đình tôi tỏ lòng biết ơn thầy Nguyễn Bá Khai, người đã giúp chúng tôi tìm ra mộ Ba tôi; cảm ơn chính quyền thôn Minh Cầm; cảm ơn gia đình ông Trần Bá Ban; cảm ơn họ hàng thân bằng quyến thuộc và bè bạn đã đến dự Lễ Tưởng niệm Ba tôi!

                     Tôi cũng xin thành thật hoan nghênh Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người (UIA) được thành lập và đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Trung ương Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, đã giúp nhiều nhà ngoại cảm tìm ra mộ liệt sĩ đã ngả xuống vì nước Việt thân yêu!

 

 

                     Bên bờ Phước Long Giang, ngày 16/6/2021, nhằm ngày mùng 7 tháng 5 năm Tân Sửu

                                        Nhà thơ Xuân Bảo,

Thứ Bảy, 5 tháng 6, 2021

340. Có một con tàu

 

CÓ MỘT CON TÀU.

 

Nhân kỷ niệm  110 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường tìm đường cứu nước 5-6-1911 – 5-6-2021.Tôi có một kỷ niệm khi về Bến Tre để viết về người anh hùng Tống Viết Dương khi anh có mặt trưa ngày 30/4/1975,tại  Sài Gòn.Tỉnh ủy Bến Tre đã tặng tôi cuốn Địa chí Bến Tre. Trong đó có một chi tiết  liên quan đến việc Nguyễn Ái Quốc xuống tàù thủy La ToucheTréville..như sau:

***Đó là Ông Nghè Trương Gia Mô (1866-1929), hiệu là Cúc Nông, sinh tại làng Tân Hào, huyện Bảo An (Vĩnh Long), nay là xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm, Bến Tre. Năm 1892 khi làm thừa phái Bộ Công, triều Nguyễn, Ông đã có một bản điều trần lên vua gồm 5 điểm. 1- Mở rộng trường học chữ Pháp ở các tỉnh; dịch sách Pháp và Tàu ra quốc ngữ để tiện phổ biến nhằm mở mang dân trí. 2 - Chấn hưng công nghệ thực nghiệp, mở rộng việc khai hoang, chăm sóc chữa bệnh cho dân nghèo. 3 - Cách chức bọn quan lại tham nhũng, sàng lọc bọn vô dụng trong bộ máy công quyền. 4 - Lập Nghị viện, mở báo quán để rộng đường dư luận. 5 - Chỉnh đốn hương tục, đẩy mạnh việc giáo hóa trong xã hội, ngăn ngừa sự đồi bại.

Nội dung bản điều trần phản ánh tấm lòng ưu tư, trăn trở của một trí thức có tâm huyết. Nhưng bản điều trần này không đến tay nhà vua mà bị thượng thư Nguyễn Trọng Hợp gạt đi.  Trương Gia Mô cởi áo từ quan, về Lục tỉnh một thời gian rồi lại trở ra Bình Thuận. Ở Bình Thuận, Phan Châu Trinh đã kết giao với Trương Gia Mô và cùng các thân sĩ (trong đó có Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp) hô hào cải cách duy tân, lập ra công ty Liên Thành và trường Dục Thanh.

Năm Mậu Thân (1908), Ông bị bắt giam tại nhà lao Khánh Hòa vì tội tham gia tổ chức bí mật “đảng hội”, sau ít lâu Ông được tha. Ông trở về quê nhà lúc đã trên 40 tuổi, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho dân trong vùng.

Có một cuộc gặp gỡ đầy lý thú giữa Truong Gia Mô và Nguyễn Tất Thành tại làng Hà Thủy, tổng Đa Phước, Bình Thuận. Nguyễn Tất Thành qua thư giới thiệu của cụ Phó bảng, đã tìm gặp người bạn tín cẩn năm xưa của cha và đã được Ông Nghè Mô đón tiếp chu đáo. Ông Nghè Mô đã gửi Nguyễn Tất Thành cho nhà sư yêu nước tại chùa Phước An trong thời gian ở tại Duồng. Dầu tháng 2, Ông đưa Nguyễn Tất Thành đến Phan Thiết vào dạy học ở trường Dục Thanh. 10 tháng sau, Trương Gia Mô trở lại, đưa Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn với cái tên mới Văn Ba, để rồi một thời gian ngắn sau, Văn Ba có mặt trên chiếc tàu thủy La Touche Tréville.

Nguyễn Tất Thành tung đôi cánh rộng đại bàng đến các vòm trời Âu, Mỹ, Phi châu. 35 năm sau Nguyễn Tất Thành trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong lĩnh vực văn chương Trương Gia Mô đã để lại cho hậu thế gồm Gia Định tam linh liệt truyện, chép tiểu sử của 3 anh hùng kháng Pháp ở Nam Kỳ: Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân và Hồ Huấn Nghiệp, 2 tập thơ Thu hoài phú và Cúc Nông thi thảo, cả 2 tập này đều bị thất lạc, chỉ còn lại 35 bài thơ chữ Hán và 10 bài thơ Nôm.

           Từ năm 1910, Ông Nghè Mô vào lại Nam Kỳ và sống cho đến một đêm năm 1929, tại Núi Sam – người nho sĩ xông xáo của phong trào duy tân năm xưa -đã gieo mình từ trên tháp cao của pháo đài xuống vực sâu để kết liễu đời mình.

 Trương Gia Mô muốn lấy cái chết để khẳng định sĩ khí của một nhà nho bất lực trước thời cuộc!

 

Tôi đã có bài thơ Có một con tàu:

 

 

CÓ MỘT CON TÀU

 

     Nhà Rồng một sáng nắng xanh trời

     Vỗ sóng con tàu lướt dặm khơi

     Ấp ủ trong tim hình đất nước

     Trăm năm in đậm dấu chân Người

 

 

Bên bờ Phước Long Giang 11h, ngày 5 tháng 6 năm 2021

Nhà thơ Xuân Bảo.

Thứ Sáu, 4 tháng 6, 2021

330. NHỮNG CÂU CHUYỆN LÀNG QUÊ

 

Mở trang mục mới.Ngày 11 tháng 8 năm 2020.







Bìa 1.

                              XUÂN BẢO

 

 

 

  NHỮNG CÂU CHUYỆN LÀNG QUÊ

(Những ghi chép về những năm tuổi thơ ở quê Mạ Phường Sãi)

 

 

 

 

      NXB HỘI NHÀ VĂN 2021

 

Ghi chú: Hôm nay,ngày 4/6/2021, tôi gom tất cả những bài viết NHŨNG CÂU CHUYÊN LÀNG QUÊ để chuẩn bị in sách.

 

 

 

 

 

 

 

 

                                      Bìa 2 . để trắng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bìa lót như bìa 1.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lời dẫn: Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, kết thúc gần 100 năm đô hộ của Pháp. Nước Việt Nam Độc lập dưới tên gọi là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại vẫn làm vua. Nội các mới do Lệ Thần Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Nhưng chính phủ Trần Trong Kim cũng chỉ tồn tại 160 ngày, kể từ ngày 17 tháng 3 đến ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi Bảo Đại chuẩn bị thoái vị.

Như thế, trên thực tế nhân dân Việt Nam đã thôi là đất thuộc địa của thực dân Pháp từ ngày này. Và lá cờ của đất nước mặt trời mọc cũng chỉ tồn tại ở Việt Nam đúng 160 ngày.

Sau khi Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima ngày 6 tháng 8 và Nakasaki ngày 9 tháng 8. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chấm dứt Đệ nhị Thế chiến.

  Dân tộc Việt Nam có một khoảng thời gian rất ngắn để tuyên bố là nước độc lập và thống nhất. Dù là độc lập giả hiệu dưới sự bảo trợ của đế quốc Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn tuyên bố xóa bỏ Hiệp ước Patenôtre.

Vua Bảo Đại ra Dụ số 1 ngày 17 tháng 3 giải tán nội các. Các thượng thư lục bộ đồng loạt từ chức. Thày giáo, nhà sử học Lệ Thần Trần Trọng Kim được giao thành lập nội các mới. Nội các này có 17 thành viên, gồm những nhân sĩ trí thức nổi tiếng, trong đó có những người sau này tham gia chính phủ của Cụ Hồ Chí Minh như luật sư Phan Anh, khâm sai đại thần Phan Kế Toại, bác sĩ Trần Văn Lai, phó bảng Đặng Văn Hướng, luật sư Vũ Trọng Khánh, kỹ sư Kha Vạn Cân…

Tên nước được đặt là Đế quốc Việt Nam, là thành viên Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Bảo Đại làm vua. Tổng lý đại thần Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Quốc kỳ vẫn giữ lá cờ quẻ ly ba sọc đỏ trên nền vàng. Quốc ca là bài Việt Nam minh châu trời Đông. Thủ đô là Hà Nội và Đế đô là Huế. Đế quốc Việt Nam không có bộ Quốc phòng. Đế quốc Việt Nam chính thức tồn tại trong lịch sử Việt Nam đúng 5 tháng 6 ngày.

Tuy nhiên, trong giai đoạn chấp chính ngắn ngủi đó, chính phủ Trần Trọng Kim đã làm được một số việc mà lịch sử ghi nhận. Đó là, thu hồi xứ Nam Kỳ thuộc địa; thu hồi 3 nhượng địa cũ là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng (vốn bị người Pháp chia cắt và áp dụng quy chế trực trị); Thả tù chính trị, trong đó có nhiều đảng viên cộng sản; Sơ thảo Hiến pháp. Hội đồng Sơ thảo Hiến pháp có 14 thành viên gồm các ông: luật sư Phan Anh, nhà báo Huỳnh Thúc Kháng, nhà văn Đặng Thai Mai…; Tổ chức cứu đói”. Nạn đói năm Ất Dậu ngày (1945) đã cướp đi hơn 2 triệu đồng bào ta.

                 Non sông Việt Nam được thu về một mối!

Năm 1944, đang trong Thế chiến thứ II nên việc đi lại bằng đường bộ hết sức nguy hiểm do Đồng minh thường xuyên ném bom hủy hoại đường giao thông. Ba Mạ tôi rời khỏi Huế từ đầu năm 1944 vì Ba tôi mãn hạn lính. Tôi ở lại, ở nhờ nhà bà sếp Thông chờ thi Yếu lược nên về sau.Thi xong, tôi được lên lớp Nhì nhất niên (cours Moyen un), học ở trường Queignec.

Vài tháng sau, Mạ tôi vào Huế đón tôi về. Đây là lần đầu tiên tôi được đi đò dọc từ Huế ra Quảng Trị. Khi chờ xuống đò ở Bao Vinh. Bao Vinh là Phủ lỵ của phủ Hương Trà, có một bến thuyền sầm uất. Tôi đứng nhìn các chiếc ghe bầu từ xứ Quảng ra buôn bán các loại hàng hóa, trong đó đường Quảng Nghĩa nổi tiếng. Họ có lối đếm rất độc đáo. “Một đôi, hai đắng, ba thìn, chín chăn, chẵn chục”. Thế là đủ một chục cái bánh đường.

Gia đình Ba Mạ tôi gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống khi rời Huế về Quảng Trị. Lương hưu của Ba tôi bị cắt từ hôm Nhật đảo chính Pháp, mùng 9 tháng 3 năm 1945. Mạ tôi đã xa rời cuộc sống nông thôn trên 10 năm, một nách bốn đứa con dại.

Đồng bằng Triệu Phong là một vùng thuần nông. Làng Đại Hào quê nội cũng đói nghèo như nhiều nơi khác trong tỉnh. Ba Mạ tôi xin ông mệ nội được đem đàn con về quê ngoại Phường Sãi. Dù sao ở đây vẫn có nhiều đất đai chưa khai thác hết. Rừng rú, khe suối thì sẵn sản vật có thể nuôi sống con người.

Tôi về ở quê Mạ Phường Sãi từ sau tháng 3 năm 1945 và ở quê ngoại đúng 10 năm (1945-1954), khi Hiệp định Genève được ký kết. Đêm 19 tháng 8 năm 1954, đơn vị tôi hành quân cấp tốc ra khỏi vĩ tuyến 17 vì ngày 20 là thời điểm khóa tuyến.

Phường Sãi là nơi ghi đậm dấu ấn thời thơ ấu của tôi. Tôi đã viết về nơi này như sau:…….

 

Những gì tôi ghi lại trong chuyên mục Những câu chuyện làng quê là có thật. Đành rằng có những chuyện hơi hướng liêu trai.

Bên bờ Phước Long Giang, ngày 23/5/2021 nhằm ngày 12 tháng Tư Tân Sửu

Nhà thơ Xuân Bảo.

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỮNG CÂU CHUYỆN LÀNG QUÊ.

             

                                    Thứ tự các câu chuyện.

                            

                        Câu chuyện thứ 1 - Ông Đấu bó lúa.

                        Câu chuyện thứ 2 - Học sinh cấp 2 tham gia chỉnh huấn

                        Câu chuyện thứ 3 - Nhất điểu nhì ngư tam xà tứ tượng

                        Câu chuyện thứ 4 - Liêu trai ở làng Thượng Phước

                        Câu chuyện thứ 5 - Ông Hoàn họan heo (lợn)

                        Câu chuyện thứ 6 - Tôi kéo bè đưa bộ đội sang song

                        Câu chuyện thứ 7 - Thuốc cá bằng rễ cây mát

  Câu chuyện thứ 8 - Bẫy cọp

  Câu chuyện thứ 9 - Kiếm sống bằng nghề đánh bắt thủy sản trên sông

Câu chuyện thứ 10 - Công múa ngày xuân.

Câu chuyện thứ 11 - Làng Mạ tôi có nhiều loại chim.

Câu chuyện thứ 12 - Cậu Nghẹc bắn voi rừng

Câu chuyện thứ 13 - Nhớ giọng hò O Quý

Câu chuyện thứ 14 - Làng Mạ tôi còn có cả beo.

Câu chuyện thứ 15 –Nguồn gốc cái tên Phường Sãi và o bán bánh

Câu chuyện thứ 16. -Thanh niên hy vọng tương lai đạo

Câu chuyện thứ 17.- Hai người đàn bà kỳ lạ làng Thượng Phước

Câu chuyện thứ 18.-  Chúng tôi làm báo

Câu chuyện thứ 19. - Đấu tố giảm tức, giảm tức ở Thượng Phước

Câu chuyện thứ 20. - Về bài thơ Em nữ cứu thương người Pháp

Câu chuyện thứ 21. – Ôn dịch năm Ất Dậu – 1945

Câu chuyện thứ 22. – Chú mõ Hồ Văn Ốm

Câu chuyện thứ 23.-   Ông Thợ Trì, người làm vè và kể vè nổi tiếng

Câu chuyện thứ 24     Quan làng

Câu chuyện thứ 25.-   Ngoại ngữ Quảng Trị.

 

 

Còn tiếp

 

Và Gác Tây lên và chuyện 2 người lang Thượng Phước bị bắn

 

 

 

Câu chuyện thứ 2.... -  Rắn trả thù

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHỮNG CÂU CHUYỆN  LÀNG QUÊ

 

             Câu chuyện thứ nhất: Chuyện ông Đấu bó lúa

Ở quê tôi, người làm thuê trong ngày mùa được chủ điền trả công một ngày gặt thuê là một bó lúa. Đồng xa như Phúc Trèn, La Nghìn cách làng gần chục cây số còn đồng gần thì như Bàu Lác, bàu Ông Phe thì chỉ cách làng chừng nửa cây số. Cuối ngày, người gặt thuê được cõng một bó lúa trên lưng về nhà. vì vậy đám thợ gặt phải nhờ đến ông Đấu – một tay thợ bó lúa cừ khôi – cả làng ai cũng biết tiếng. Bó lúa là một nghệ thuật. Sợi lạt dùng chỉ dài đúng 2 thước 2 ta không hơn, không kém. Hai đầu sợi lạt chỉ có khoảng một phân tây ngoắc vào nhau.

Mặt trời lên chừng hai con sào thì người thợ gặt mới chọn những bông lúa mẩy hạt rải phơi lên giường ruộng (bờ thửa) để chiều về cuống rơm héo đi, khi bó sẽ được nhiều lúa. Mạ tôi cũng đi gặt thuê, có hôm gặt xa tận đồng La Nghìn. Bó lúa nhờ ông Đấu bó quá nặng so với sức vóc của một thiếu phụ nên đi được một đoạn, tới dưới dốc Cơn Thang thì Mạ tôi bỏ bó lúa xuống chia ra làm hai rồi dùng đòn xóc quảy về nhà.

Có một chuyện vừa buồn lại vừa vui về bó lúa gặt thuê của ông Đấu. Bó lúa gặt thuê của ông Đấu đem về nhà, ông không để ngoài sân mà mang vào nhà, gian cạnh ban thờ, (quê tôi gọi là giường thờ). Đêm đến, không khí mát lạnh làm cho các cuống rơm nở ra, sợi lạt không chịu nổi nữa nên lạt bị tung ra và bó lúa nổ như một quả bom, lúa bay làm đổ ban thờ??? Trong Hồi ký của Trần Đức Long cũng có đề cập đến câu chuyện này.

Ông Đấu có người anh tên là Ông Ca, cùng ở bên Xóm Mộ, sau lưng nhà Mụ Mới. Hai anh em đều có vóc dáng người to cao, chắc nịch và được bà con trong làng thương mến.

 

 

   

 

 

 

             Câu chuyện thứ hai. Học sinh cấp II tham gia chỉnh huấn.

Đó là vào thời gian cuối năm 1953, khi đất nước bước vào thời kỳ giảm tô, giảm tức, chưa phải là thời kỳ cải cách ruộng đất. Đó là thời kỳ mà trong quân đội có “Rèn cán chỉnh quân”, trong dân sự thì có “Rèn cán chỉnh cơ”. Còn học sinh thì có đợt “Học tập để phục vụ nhân dân”, cũng là một loại hình chỉnh huấn.

Tôi còn nhớ rõ địa điểm lên lớp cho học sinh cấp II chúng tôi là ngoài sân nhà Mụ Mới bên Xóm Mộ. Hội trường là cái chái nhà Mụ, trên tường treo một tấm vải màu xanh da trời, có câu khẩu hiệu chữ trắng cắt từ giấy ra, “ Học tập để phục vụ nhân dân”. Chung quanh cũng thưng bằng vải, có những câu như sau: “Đào sâu suy nghĩ, bộc lộ hết những sai lầm là trung thành với Tổ quốc”.Người truyền đạt nội dung là một ông cán bộ Ban Tuyên Văn cấp tỉnh. Tài liệu là những bài giảng trên lớp, học sinh chúng tôi phải tập trung nghe, ghi chép và lĩnh hội cho thấu triệt một cách nghiêm túc.

Đến gần cuối khóa là phần viết thu hoạch. Thu hoạch kết quả của đợt học tập. Học viên chúng tôi được cho ở riêng trong một cái chòi tạm, lợp bằng lá sim, cả trên mái lẫn bao quanh, chỉ có một lối vào duy nhất, không có cửa, có một cái bàn ghép tạm bằng những thanh tre và cái ghế cũng ghép bằng tre. Ngồi trong chòi đó mà phản tỉnh, kiểm lại xem mình thời gian qua đã có những việc làm hoặc trong tư tưởng có gì sai lầm. Có ước mơ viễn vông sau này có vợ đẹp, con khôn, ôtô, nhà lầu hay không? Thậm chí, từ trong ý nghĩ có khi nào thấy kháng chiến gian khổ mà có ý định “dinh tê” không?

Trong bản thu hoạch tôi đã thành khẩn bộc lộ sai lầm là đôi khi cũng muốn về thành cho đỡ khổ. Tôi lại thành khẩn đến mức khi viết lý lịch tôi đã khai: Ông nội có thời gian trước Cách mạng Tháng Tám đã làm lý trưởng (xã trưởng), còn ba tôi là lính khố đỏ. Ông nội và ba tôi theo vào lý lịch của tôi suốt cả chặng đường tôi tham gia cách mạng và tôi cũng đã chịu bao thiệt thòi trong qúa trình công tác!

Tôi còn nhớ một kỷ niệm. Không hiểu có trò nào đó nghịch ngợm khi ngồi trong chòi quá khuya nên đã giả làm tiếng gà gáy làm cho những chú gà trống xung quanh xóm ồn ả gáy theo. Sáng hôm sau, Ban lãnh đạo học tập và thầy hiệu trưởng Đặng Bá Đệ đã nghiêm khắc cảnh cáo dưới cờ cả tổ học sinh Thượng Phước.

Sau đợt học tập này, học sinh chúng tôi được bố trí làm công tác thuế nông nghiệp và tham gia “đấu” mấy “vị nhà giàu” trong xã.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

.      Câu chuyện thứ ba. “Nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng”.

Ông ngoại tôi là một nhà nho uyên thâm. Có lần chúng tôi được nghe Ông ngoại nói câu: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng. Trong bốn con vật khổng lồ đó thì nhất điểu (chim) là loài động vật lớn nhất.

Nhất điểu (chim). Ông kể: có một lần, trời đang yên hàn, nắng soi rực rỡ, bỗng nghe tiếng gió rít và trời thì tối sầm lại, cây cối trong nương nghiêng ngả. Vài phút trôi qua, nhìn lên trời thì thấy một con chim bay từ núi rừng bay ra biển. Ông nói rằng trong dân gian có câu hát ru em: Con chim đại bàng bay qua hòn Núi Bạc/Con cá ngư ông nó móng nước ngoài khơi…

Có thể đây là con chim mà Tiểu đoàn 3 ( 3è bataillon ) Lê dương của Pháp,đi đánh phát xít Đức trở về qua Madagascar (cũng là thuộc địa của Pháp) thì có một con chim rất to cứ bay theo đoàn tàu. Người chỉ huy cho lính lấy một cái mỏ neo nhỏ làm lưỡi câu, mắc vào đó một tảng thịt ngựa to, thả xuống biển. Vừa mới thả xuống thì con chim đó sà xuống đớp ngay cục thịt và nuốt vào họng, mang theo cả cái dây cáp bằng thép. Tàu tăng tốc độ, kéo theo con chim là là trên mặt biển. Đi khoảng hơn ba hải lý thì chim đuối. Tàu chạy chậm lại và đề phòng chim có thể còn sống nên chỉ huy đã cho xả súng bắn chết. Thịt con chim này cung cấp thực phẩm cho cả tiểu đoàn. Về tới Đông Dương mà vẫn còn một ít đem biếu cấp trên. Điểu đây còn có thể là con chim mà tiểu đoàn Lê dương của Pháp đi đánh hụt phát xít Hitler trở về qua Madagascar đã câu được chăng?

Nhì ngư (cá). Trong câu hát ru trên: Con cá ngư ông nó móng nước ngoài khơi, gồm cả điểu và ngư. Con cá ngư ông chính là con cá voi mà năm nào, cứ tới mùa rét thì có vài con cá này chết trôi vào bờ biển nước ta. Dân vùng ven biển thường tổ chức mai táng cá voi rất trọng thể. Có nhiều làng lập hẳn nhà thờ để thờ Ông Nam Hải, tức Cá voi.Vừa qua, tại bờ biển Nghệ An, làng Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu có con cá voi dài 13 mét, nặng 15 tấn vào bờ, mắc cạn. Dân làng phải huy động 3 xe xúc, đào rãnh lấy nước và hàng trăm người tham gia xô đẩy cá voi trở về biển. Ở Canada lại có nghề săn bắt cá voi để lấy thịt, có con nặng trên 20 tấn.Cá voi thuộc giới Động vật, ngành Chordata, lớp Mammalia, phân lớp Eutheria, Bộ Cá voi, chúng thuộc về phân bộ Odontoceti (cá voi có răng). Phân bộ này cũng bao gồm siêu họ cá nhà táng, cá hổ kình, cá voi hoa tiêu, và cá voi trắng. Phân bộ cá voi khác bao gồm Mysticeti. Phân bộ này cũng bao gồm cá voi xanh, cá voi lưng gù, the bowhead whale và minke whale. Cá voi xanh, cá voi vây, cá voi xám, cá voi trắng, cá hổ kình.

Năm 1954, tôi tập kết ra Bắc. Lính bộ đội địa phương Quảng Trị và Thừa Thiên hành quân bộ. Đến làng Cảnh Dương, thì nghỉ đêm. Ban chỉ huy cho chiến sĩ vào thăm lăng Ông Cá voi. Làng Cảnh Dương vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn hai bộ xương cá voi tại đình làng. Bộ xương chứa chật một gian nhà. Mảnh xương sườn dài đến 2m, còn đốt xương sống to bằng cái mâm nhôm.

             Bài hát chèo cạn hát trong lễ tế đức Ông của làng biển Cảnh Dương (Quảng Trạch - Quảng Bình) có câu:

                  Nay mừng mở hội Cầu Xuân.

                  Trời sinh Thánh thượng Duy Tân trị vì.

                   Trời yên, biển lặng bốn bề,

                   Đức Ông thượng thọ nước về cõi tiên.

                   Lênh đênh mặt nước bao miền.                          

                   Tìm nơi đất tốt, dân hiền ghé vô.

                   Xuân sang lai láng biển hồ

                   Ngư dân trông thấy rước vô lạch nhà.

                   Tưng bừng nổi trống, kết hoa.

                   Nghe tin làng nước gần xa đón mừng.

               

               Tam xà (rắn). Tôi còn nhớ trận lụt năm Thìn 1952. Núi rừng Trường Sơn sạt lở rất nhiều. Có nhiều bản sụt hẳn xuống sông, mang theo cây cối, nhà cửa, trâu bò và các loài động vật khác…Trôi trên sông Hương có một con rắn to. To như thế nào thì bây giờ khó cân đong đo đếm được. Chỉ biết rằng khi trôi về đến cầu Bạch Hổ thì đám cây rừng bị mắc kẹt, không trôi qua được mấy trụ cầu. Người dân phát hiện trong đám lá rừng đó có một con rắn khổng lồ. Được tin, tên quan hai chỉ huy đồn Kim Long cho bố trí mấy khẩu đại liên cả hai bờ bắc và bờ nam, rồi cho xả súng vào chỗ có con rắn. Chuyện có thật hay không thì tôi không được biết tường tận mà chỉ nghe thiên hạ đồn thổi mà thôi.Nhưng chuyện rắn to (mãng xà vương) thì miệt rừng U Minh có rất nhiều. Trừ những chuyện vui Bác Ba Phi kể, không mấy đáng tin thì vẫn có những con rắn thật mà người dân đã từng chứng kiến. Bác Ba Phi - một kỳ lão xứ U Minh vốn nổi tiếng về tài nói khoác, có đoạn viết: “Hồi xưa trong rừng U Minh Hạ có những con rắn hổ mây khổng lồ không biết sống từ thời nào, chỉ biết khi nó say mồi nằm ngủ trong rừng, mấy ông thợ săn len lén tới ôm thử thì chu vi vòng bụng hết ba vòng tay người lớn. Con rắn giật mình thức dậy, đầu cất cao khỏi ngọn cây rừng, há miệng toang hoác khiến chim chóc tưởng thân cây nên đậu trên đầu và làm tổ trong miệng, bị nuốt chửng”.Những bậc cao niên ở U Minh Hạ cam đoan rằng nơi đây chính là vương quốc bất khả xâm phạm của loài rắn hổ mây khổng lồ, loài vật được tôn là "mãng xà vương" của rừng U Minh đã truyền tụng qua hàng trăm năm. Những người từng gắn bó lâu năm dưới tán rừng tràm U Minh Hạ cũng quả quyết rằng nếu trừ đi những phần thêm mắm dặm muối của bác Ba Phi thì câu chuyện về những con rắn hổ mây khổng lồ của rừng U Minh là hoàn toàn có thật.

Tứ tượng (voi). Từ trước tới nay dân ta vốn coi voi là con vật to nhất. Đồng bào thượng du, phần lớn ở mạn rừng Trường Sơn, đã biết săn bắt, dụ dỗ, thuần dưỡng voi rừng. Voi được coi là người bạn thân thiết của con người, giúp con người kéo gỗ từ rừng sâu ra bãi trống. Ở Trung Hoa lại có chuyện vua Thuấn cày bằng voi (theo câu Phá đề “Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi”, bài Từ Thứ quy Tào của Tôn Thọ Tường).         

Truyền thuyết đầu tiên của người Việt có nhắc đến voi chín ngà, là sính lễ mà Vua Hùng bắt buộc khi Sơn Tinh và Thủy Tinh cầu hôn Mị Nương. Từ thời Hai Bà Trưng chống quân Hán, hai bà đã ngồi trên bành voi xung trận. Bà Triệu, đã dùng con voi trắng một ngà xông pha trận mạc, đánh tan bè lũ quân Ngô. Đến thời Quang Trung, Tượng binh là một trong những binh chủng cừ khôi nhất, giúp nhà vua đánh ngoại bang quân Thanh, quân Xiêm.

Vào cuối thời nhà Nguyễn, triều Bảo Đại là ông vua thích đi săn nhất. Bảo Đại cho làm những con đường riêng để đi săn. Ở Quảng Trị có con đường mang tên Vĩnh Thụy chạy song song với Quốc lộ 9, từ ngả ba Lai Phước, Quốc lộ 1A lên Cùa – nơi có căn cứ Tân Sở - của vua Hàm Nghi phát Chiếu Cần vương. Ở Đà Lạt có con đường vành đai vòng quanh xứ sở sương mù chỉ để giành riêng cho Bảo Đại đi săn.

Trong kháng chiến 9 năm, tôi có ông cậu tên là Nguyễn Nghẹc –  một tay thiện xạ -  nên Trung đoàn phân công cậu đi kiếm thịt rừng về cho bộ đội. Có lần cậu tôi bắn được một con voi. Tin cậu bắn được voi truyền vế làng. Dân làng mang theo triêng gióng (quang gánh), dao rựa vào rừng xẻ thịt voi. Mạ tôi bảo tôi cố gắng lấy cho được cái đợợng (cái gan bàn chân voi) để làm món canh bóng ngày Tết, nói theo kiểu miền bắc. Bóng đoợng voi là món ăn thuộc loại cao lương mỹ vị, chỉ có nhà giàu và những gia đình quyền quý mới dám dùng.

Voi Việt Nam cũng giống như voi châu Á, cặp ngà voi dài. Thân cũng không lớn bằng các loài voi châu Phi, ăn các loài thực vật chủ yếu trái cây, thân các cây mềm như cây chuối, mía v v…

Voi đồng cỏ châu Phi hoặc còn gọi là Voi bụi rậm châu Phi, Voi xavan (Loxodonta africana) là một trong hai loài trong Chi Voi châu Phi (Loxodonta) cùng với Voi rừng châu Phi (Loxodonta cyclotis). Đây là loài lớn nhất còn sống của Bộ Có vòi (Probosidea) và là loài động vật lớn nhất trên mặt đất ngày nay. Một dạng đặc thù của loài này là những con voi sa mạc sống trong các vùng sa mạc khô cằn. Những con voi đực to lớn có thể có khối lượng cơ thể lên tới 7,5 tấn và cao trên 4 m. Những con voi cái nhỏ nhất thì chỉ cao 2,7 m và nặng 3 tấn. Nhìn chung với tầm vóc khổng lồ của mình, trên thảo nguyên châu Phi hầu như voi rừng không bị động vật nào gây hấn, kể cả những mãnh thú săn mồi, tuy nhiên voi rừng cũng dễ bị đàn sư tử giết chết nếu đi lạc vào lãnh địa của sư tử.

Voi đồng cỏ châu Phi có tai to nhất trong các loài voi. Vòi của chúng có 2 ngón tay chứ không phải 1 như ở Voi châu Á (Elephas maximus). Ngà voi đồng cỏ châu Phi dài tới 3 m và nặng khoảng 15–20 kg. Cả voi đực và voi cái đều có ngà. Chúng có bốn cái răng hàm lớn, mỗi hàm có hai cái, mỗi cái có đường kính 10 cm và dài 30 cm.

Người dân Tây Nguyên khi vào mùa đều tổ chức các lễ hội đua voi, để vào mùa mới. Các dân tộc M'Nông, Êđê, Gia Rai. Lễ hội đua voi ngày nay cũng còn lại tổ chức khá ít, vì nhiều nguyên nhân như: Không gian vui chơi, lượng voi ít, quản tượng chạy theo thị trường. Thợ săn voi không có nghề, các chàng trai săn voi Buôn Đôn giờ ngồi trên lưng voi bị xích, chỉ huy nó đi một trăm mét tới, quay lại, đi một trăm mét về chỗ cũ.

Vua voi Ama Kông chuyển sang bán thuốc "hạnh phúc gia đình" và thu tiền người chụp ảnh mình và chụp ảnh với mình. Bản Đôn được xem là nơi vương quốc loài voi ở tỉnh Đắk Lắk là nơi có đàn voi rừng và voi nhà nhiều nhất Việt Nam với số lượng khoảng 80 - 110 con voi rừng và 61 con voi nhà. Đàn voi rừng và voi nhà đang ngày càng giảm sút số lượng và đứng trước nguy cơ chỉ còn trong huyền thoại.

Tỉnh Đắk Lắk có đề án thành lập một trung tâm bảo tồn voi với quy mô 200 ha tại Vườn quốc gia Yok Đôn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

          

 

 

 

Câu chuyện thứ tư: Chuyện Liêu Trai ở làng Thượng Phước. 

Làng Thượng Phước có địa thế rất rạch ròi. Phía trước giáp bờ nam sông Thạch Hãn, băng qua bãi cát rồi tới biền. Biền là một dải đất sát bờ sông rất màu mỡ bởi hàng năm phù sa đắp lên dày có tới mười, mười hai phân tây, thường canh tác cây dâu tằm hoặc các loại đậu… tới thốốc, tới kiệt giành riêng cho trâu bò đi.

Nhà cửa vườn tược của dân làng tập trung vào dải đất giữa làng, có kiệt ngang chia cắt từng xóm riêng lẻ. Ngoài lũy tre là những đám ruộng nhỏ, thường dùng để bắc mạ. Rồi đến con đường làng, gọi là đường cái quan, chạy từ chạy từ chân cầu Thạch Hãn, (cầu gồm đường sắt và Quốc lộ 1A), qua làng An Đôn, nay là phường lên tới Phường Sãi thì bắt gặp những đôộng, những hác, tức là đã bước vào miền duyên sơn. Cặp với con đường cái quan là hai cánh đồng lúa có tên là Baù Lác và Bàu Ông Phe. Đồng Bàu Lác chạy quanh Cồn Cự đến khỏi hác Cồn Lê thì gặp Cánh đồng Hoang. Bàu Ông Phe chỉ ngắn một khúc từ đầu làng. Lại có thêm cái Xóm Mộ. Chữ Mộ này khộng có nghĩa là mồ mả mà là chiêu mộ.

Dân quê tôi không có thói quen an táng người thân trong nương nhà mà tất cả những người quá cố đều được chôn cất trên những quả đồi. Hồi trước, đất rộng người thưa cho nên muốn chôn cất ở đâu cũng được. Do đó mới có tên Cồn Mồ.

Ông giáo Trợ, người họ Trần Đức, có ngôi nhà ngói ở kiệt giữa làng, thuộc loại nhà giàu có nên được ăn học tử tế và sau khi ra trường ông được bổ về dạy ở thị xã Quảng Trị. Đoạn đường từ làng về thị xã dài khoảng non 5 cây số. Sau khi tan lớp chiều ông đi bộ về nhà, thường là lúc trời đã về đêm. Đường vào nhà ông giáo có một cây phượng vĩ, mùa hè hoa nở đỏ rực.

Có dạo, bọn trẻ chúng tôi được nghe các cụ già trong làng kể chuyện thầy giáo Trợ được hai cô gái xinh đẹp mời về nhà chơi. Hai cô đều mặc quần áo trắng, dáng người thanh mảnh, dịu dàng, khuôn mặt rất đẹp, mái tóc dài buông xuống gần chấm gót, đôi mắt sáng long lanh và có nụ cười rất tươi. Hai cô này tự nhiên xuất hiện trước kiệt vào nhà thầy, dưới gốc cây phượng vĩ, đón đường thầy và đon đả mời thầy về nhà. Dù không hề biết mặt và chưa hề quen biết, nhưng trước vẻ đẹp kiều diễm và những lời mời nhiệt tình, thầy giáo Trợ đành đi theo hai cô gái. Thầy được đưa về một ngôi nhà rất lộng lẫy. Trong nhà đèn đuốc sang choang. Người đi lại tấp nập. Tiệc được bày biện ngay tại sảnh lớn, trên một chiếc sập khảm trai rất đẹp, đủ các món cao lương mỹ vị. Duy có một điều lạ là trong ngôi nhà này không có mặt một người đàn ông nào mà chỉ thấy vài mụ già thôi. Rượu ngon lại được mỹ nhân ân cần tiếp đãi nên thầy giáo Trợ say lúc nào không biết.

Sáng ra, mặt trời lên chứng một con sào, thầy tỉnh rượu. Đầu óc mường tượng tối hôm qua thầy được mời dự tiệc trong một dinh thự lớn, lại được hai người đẹp ân cần khoản đãi, sao bây giờ lại nằm trên đám đất mà chung quanh có 3 cây duối cao to vây kín. Thầy nghe tiếng lao xao của bà con làm đồng nói chuyện phía ngoài. Thầy gọi lớn: Cứu tôi với! Tôi là giáo Trợ đây! Người ta lấy làm lạ, sao thầy lại chui vào được trong lùm cây duối này?

Một người hỏi: - Sao thầy lại vô được trong đó?

Thầy trả lời: Cũng chẳng biết nữa. Thôi, hãy đưa ra ngoài rồi tôi sẽ thuật lại cho cả làng biết.

Thế là mấy người trai làng chạy về lấy hai cái thang tre. Một cái để phía ngoài, tựa vào lùm duối, mang theo cái thang thứ hai, trèo lên ngọn duối, thả xuống để thày Trợ trèo lên, thoát ra theo cái thang thứ nhất. Câu chuyện chỉ có thế. Nhưng sau này dân làng thêu dệt thành ra chuyện hai cô gái thành tinh, chuyên dụ dỗ những chàng thanh niên làng cường tráng, đẹp trai. Bởi vậy, trong một thời gian dài người ta không dám đi ra khỏi nhà vào ban đêm.

Chuyện sau đây là có thật. Chuyện “ma trơi” bay theo người đi đường. Có một buổi xẩm tối, sấm chớp ì ầm, báo hiệu sẽ có cơn mưa giông lớn. Anh Tự, con ông cậu tôi, trên đường đi học về. Anh phải chạy cho thật nhanh để khỏi mắc mưa. Đến gần Cồn Mồ thì anh thấy sau lưng mình có nhiều “bó đuốc” đuổi theo. Anh sợ quá, vấp vào một mô đất ngã xuống, nhìn lại sau thì chẳng thấy “bó đuốc” nào cả. Sau này, khi văn minh được truyền bá, mọi nguời mới biết đó là những khối lân tinh từ xương người chết trong mả, bốc lên mỗi khi động trời.

 

 

 

 

 

 

 

 

              Câu chuyện thứ 5. Chuyện ông Hoàn hoạn heo (lợn).

Để hạn chế nạn nhân mãn, bùng nổ dân số, con người được nhà nước quan tâm dùng nhiều biện pháp để hạn chế sinh đẻ như đàn ông thì thắt ống dẫn tinh, đàn bà thì đặt vòng, thắt hoặc cắt bỏ buồng trứng, uống thuốc ngừa thai…Riêng việc triệt sản cho các loài gia súc, gia cầm như chó, mèo, heo (lợn), bò, gà đã có cán bộ thú y đảm nhiệm. Người làm nghề thiến và hoạn còn lại rất ít. Thường thường, những nhà có nuôi gia cầm, gia súc thì tự làm lấy việc thiến, còn việc hoạn thì hầu như không có.

Ngày trước, quê ngoại của tôi có ông Hoàn ở xóm dưới làm nghề này. Dân làng thường gọi ông là “quan Hoàn hoạn heo”. Trong làng và những làng lận cận nếu gia đình nào cần thì gọi ông Hoàn. Bọn trẻ chúng tôi hay theo ông để nhìn tận mắt việc làm này. Dụng cụ ông Hoàn mang theo gồm một cái thang tre ngắn, chiều cao khoảng 2 mét, hai sợi dây thừng bằng sợi vải, một con dao nhíp, một cái móc, mây cuộn chỉ, một ít muội bếp, (quê tôi gọi là lọ nghẹ), một cái chai nhỏ đựng dầu hôi, (dầu hỏa).

Ông Hoàn đến nhà người có con vật cần thiến là con đực hay hoạn là con con cái. Ông buộc cái thang tre cố định cho chắc vào gốc cây mít hay bất kỳ cây nào khác. Ông tóm gọn hai chân sau con vật treo ngược vào thang, mặc cho nó kêu rồi ông lấy dầu hôi bôi vào chỗ cần cắt. Ông lấy dao nhíp sắc khía vào hòn dái con đực một lát ngắn rồi ông nặn hột dái ra, lấy dao cắt rời, lấy chỉ vuốt qua lọ nghẹ và khâu lại. Hết hòn dái bên này, ông lai làm sang hột dái bên kia, bôi dầu hôi lên vết cắt rồi tháo dây thừng thả con vật vào chuồng. Con đực thì gọi là thiến. Còn nếu là con cái thì gọi là hoạn. Thực ra hai từ này không khác nhau là mấy. Con đực thì lấy hột dái ra, con cái thì cắt hết buồng trứng.

Tôi lại nhớ đến mấy vị hoạn quan cuả nước An Nam ta. Trong đó có quan hoạn thứ nhất nổi danh trong lịch sử Việt Nam là Việt Quốc công Lý Thường Kiệt, đời nhà Lý với chiến công "phá Tống bình Chiêm". Người hoạn quan thứ hai cũng rất nổi tiếng là Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc làm quan dưới đời vua Lê Hiển Tông. Ông đã cùng Phạm Đình Trọng dẹp yên hai cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Danh Phương, khi về hưu được phong làm Quốc lão. Về sau ông đem đại quân đánh vào Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan rồi trấn thủ Thuận Hóa, chấm dứt một giai đoạn Nam – Bắc phân tranh kéo dài hơn 200 năm. Người thứ ba là Tả quân Lê Văn Duyệt khai quốc công thần triều Nguyễn. Lê Văn Duyệt tuy cũng xuất thân hoạn quan nhưng ông bản chất là người “ái nam, ái nữ” chứ không phải tự thiến để thành quan thị như Việt Quốc công Lý Thường Kiệt hay Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc.

 Ở Việt Nam, hoạn quan được ghi nhận là có từ thời nhà Lý, đến triều Nguyễn, hoạn quan được chia làm năm trật:

1. Quản vụ Thái giám và Điển sự Thái giám.

2. Kiểm sự Thái giám và Phụng nghi Thái giám.

3. Thừa vụ và Điển nô Thái giám.

4. Cung sự và Hộ nô Thái giám.

5. Cung phụng và Thừa biện Thái giám.

Việc kén chọn hoạn quan ưu tiên tuyển những trẻ em "ái nam con gái" do lệnh của triều đình. Người dân nào sinh con có khuyết tật đó được quan sở tại tới khám xét rồi làm sớ tâu lên. Cha mẹ đứa bé sẽ nuôi con đến lúc 13 tuổi, sau đó Bộ Lễ sẽ đưa vào cung tập sự hoạn quan. Làng nào có hoạn quan tiến cử được miễn binh lính, phu phen tạp dịch và cả sưu thuế. Nếu không có đủ số trẻ ái nam con gái, thanh niên nào tự nguyện thiến bộ phận sinh dục sẽ được tuyển chọn. Tuy nhiên, thái giám Việt Nam chỉ là một số nhỏ không được trọng vọng lại chỉ được làm những việc lặt vặt chưa thành hẳn một tầng lớp có ảnh hưởng như Trung Hoa. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, thái giám không được dự vào phẩm hàm hay quan chức triều đình và chỉ được hầu hạ trong cung mà thôi, cũng có thể nhà vua không muốn xảy ra việc hoạn quan chuyên quyền như Trung Hoa hay vì đố kỵ với Tả quân Lê Văn Duyệt trong vụ nổi loạn thành Phiên An. Tấm bia khắc là toàn văn bản dụ này nay vẫn còn trong Văn Miếu, Huế. Thái giám cũng có riêng một nghĩa trang trong khuôn viên chùa Từ Hiếu, cách Huế khoảng 1 km theo hướng tây nam và vì thế chùa này còn được gọi là chùa Thái Giám.

Trong một số thời kỳ, nước Việt phải đem cống sang Tàu một số người tài giỏi, sau đó bị trở thành hoạn quan. Theo Hoàng Minh thông ký, một hoạn quan người Việt là Nguyễn An đã vẽ kiểu tu tạo thành Bắc Kinh bao gồm 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường, xưởng, nhà trạm. Ông làm quan trải năm đời vua triều Minh là: Thành Tổ, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông, và Cảnh Tông, tính tình liêm khiết rất đáng kính trọng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

              Câu chuyện thứ 6. Tôi kéo bè đưa bộ đội sang sông

          Tôi là người được thôn đội trưởng phân công kéo bè đầu tiên. Tuổi nhỏ làm việc nhỏ. Đây cũng là công tác kháng chiến, tham gia kháng chiến, ngoài công việc đi gác khi Tây lên lùng thì đánh mõ báo động để dân làng chạy vào độộng. Vì nhà ở gần bến bè nên lãnh đạo thôn giao cho tôi kéo bè. Có ít tiền phụ giúp Mạ tôi nuôi các em trong lúc Ba tôi đi bộ đội vắng nhà.

         Đoạn sông này không có đò ngang nên thôn đội trưởng Lê Duy Ngữ cho phép đóng bè để chở bà con, bộ đội, cán bộ đi lại từ Thượng Phước sang Như Lệ và ngược lại.

         Có câu chuyện được các chú Vệ Quốc đoàn kể lại: Trong lúc chờ bè, cả tiểu đội ngồi nghỉ trên một “khúc gỗ”. Được một lúc chiến sĩ này nói chiến sĩ kia “Sao cậu cứ lấn mình thế?”. Cho tới lúc mọi người thấy nhột nhột dưới đít và tuột cả xuống đất. Tiểu đội trưởng bấm đèn pin soi vào “khúc gỗ”. Chao ôi! Đây chính là thân con trăn núi, bị sức nặng cả một tiểu đội ngồi lên, chịu không thấu nên đã trườn vào rừng. Có phải chính con trăn này đã từng nuốt một con bê của nhà ông Đóm? May mà nó không quay đầu lại. Thật hú vía!

          Cũng cần nói qua để bạn đọc đời sau có thể hình dung ra thời kỳ cha ông mình tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc (cả thời chống Pháp và chống Mỹ) đã sáng tạo muôn vàn cách đánh để thắng được hai đế quốc to như thế này? Bè làm bằng thân cây chuối lá (miền nam gọi là chuối hột), nặng phải hai người lớn mới vác nổi. Chuối chặt bỏ gốc và ngọn. Thân được xếp trở đầu đuôi, khoảng mười cây. Dùng 4 cây hóp, một loại tre không gai, vót nhọn đóng xuyên qua thân chuối, lấy dây chạc chìu, loại dây rừng rất dai và bền nuộc chặt lại, cưa bỏ phần nhọn cây hóp. Dây kéo bè thì dùng loại tre hèo non bánh tẻ, chẻ làm hai vót thật trơn. Hai đầu tre được hơ lửa cho thêm dẻo rồi buộc lại theo lối chữ nhân đoạn này nối đoạn kia, chừng nào đủ chiều dài ngang sông thì thôi. Một đầu dây kéo buộc vào một thân cây lớn phía bắc, gần Lùm Miệu trên, (Lùm Miệu trên là của làng Thượng Phước thờ một vị phúc thần, cách Lùm Miệu dưới của Phường Sãi chừng 400 mét). Đầu phía nam buộc vào một thân cây tre to đóng xuống bãi cát, thật sâu và chắc, gọi là Bãi Soi. Đất Bãi Soi này trước là của làng Thượng Phước, do sông đổi dòng nên xô sang làng Như Lệ. Bãi Soi phía làng Như Lệ, bờ nam sông Thạch Hãn là một bãi bồi rộng hơn 10 mẫu.

 Theo ông ngoại tôi kể lại lúc bọn tôi còn nhỏ thì cách đây mấy trăm năm, cũng có thể là hàng ngàn năm? rào Thạch Hãn đổi dòng, do địa chấn hoặc núi lửa phun trào. Quảng Trị có cả một vùng đất bazan từ Cùa lên Hướng Hóa ra tận Thủy Ba (Vĩnh Linh).

Trước đó dòng chảy thẳng từ phường Đá Đứng. Dòng chảy đang chảy như một cái dấu \ (huyền) xuống tận vực Như Lệ, đối diện với bến Phường Sãi sau này.

            Đã có những cuộc tranh chấp mẻ đầu sứt trán giữa hai làng Thượng Phước và Như Lệ. Cuối cùng thì Thượng Phước thắng.

            Thế là có một sợi dây chăng qua sông Thạch Hãn. Người đưa bè, sau khi ổn định chỗ ngồi cho khách, từ từ lần theo sợi dây, từng bước tay một, bè được trôi đi theo hướng người kéo bè về phía trước. Mỗi lần chỉ chở được khoảng năm, sáu người, nếu có hàng như chuối, mít, sắn khoai hay ba lô, súng đạn thì chỉ chở được tối đa là năm người. Có thể nói đây là chiếc bè tự giác. Người sang sông không phải trả tiền đi bè mà tùy vào lòng hảo tâm, có thể cho người kéo bè 5 xu, 1 hào (tiền Tài chính lúc bấy giờ) hoặc củ sắn, trái bắp cũng xong. Còn bộ đội qua sông thì tuyệt nhiên không được lấy tiền kéo bè, phục vụ là chính.

            Tôi có một kỷ niệm buồn về việc kéo bè này. Hôm đó nước sông Thạch Hãn lên to. Một tiểu đội hành quân gấp sang sông. Tôi nói rằng bè chỉ chở được 5 người và 1 người kéo bè mà thôi. Các chú bộ đội nói: Để các chú tự kéo bè sang, rồi chốc nữa có ai về thì họ kéo trả bè lại. Tôi đã ngăn đến lần thứ ba nhưng các chú không nghe, tự ý xuống bè tất cả. Lúc đầu bè cũng theo dây kéo ra được hơn chục mét. Đến chỗ nước xiết mũi bè chúi xuống càng ngày càng sâu. Mọi người nhốn nháo vì bè đã chìm và người kéo bè thả cho trôi tự do. Nhiều chú bộ đội không biết bơi và lúc này trên lưng đeo nặng ba lô, súng đạn, ruột tượng gạo cho nên chới với một lúc rồi chìm, người bị nước cuốn đi và chết đuối.

Mấy ngày sau ở bến Cồn Kết, xóm dưới, chiếc bè mắc lại, còn xác người thì nổi ở cầu Thạch Hãn, còn gọi là cầu Ga. Bọn Pháp huênh hoang rằng bọn chúng đã bắt được một tiểu đội Vệ Quốc đoàn và bắn chết cho trôi sông?!

           Trần Quốc Tiến, phóng viên báo Vệ Quốc quân - Phân khu (thuộc Liên khu 4 cũ), một chi nhánh của báo Quân đội Nhân dân sau này, quê làng An Lưu, gần Chợ Cạn, nơi có bài thơ Tiếng cây dương Mỹ Thủy nổi tiếng của nhà thơ Dương Tường, Trưởng nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn. NHóm  sau này là tổ chức Văn nghệ Quảng Trị. Ông Tiến còn có bút danh Tấn Hoài khi ông làm thơ, nay sống ở Biên Hòa, nhớ lại đã có lần đi trên chiếc bè này do Xuân Bảo kéo.

          Phường Đá Đứng, cách Phường Sãi khoảng non ba cây số, do một vài dòng họ làng Thượng Phước đến đây khai hoang vỡ đất, trong đó phái Trần Đức là lớn nhất. Cụ Trần Đức Hạp có những người con làm rạng danh tổ tiên. Đó là ông Trần Đức Lương, nhà báo, phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam, ông Trần Đức Duệ, đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông Trần Đức Khâm, Viện phó Viện qui hoạch Quản lý nước – một nhà khoa học tầm cỡ về công tác thủy lợi - và những người họ Lê, họ Bùi khác cũng nổi danh một thời.

              Chữ Phường này khác nghĩa với chữ Phường, một đơn vị hành chính cơ sở hiện nay, mà là một danh xưng bởi những người cùng làng ở miệt đồng bằng hoặc duyên sơn thiếu đất canh tác nên đến một nơi khác, thường là ở miền sơn cước, để khai hoang như Phường Sãi của làng Xuân An, phường Nại Cửu của làng Nại Cửu. Chữ Phường này là chỉ địa danh, nhưng cũng có chữ Phường để chỉ nghề như phường hát, phường chèo, phường cấy, phường săn…

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

             Câu chuyện thứ bảy. Thuốc cá bằng rễ cây mát.

Phường Sãi quê Mạ tôi thuộc vùng duyên sơn, cách chân núi dãy Trường Sơn không đầy 10 km. Nơi có Bến Trấm đã đi vào thơ ca với bài Cô lái đò của Lương An. Có con sông Thạch Hãn chảy qua lắm cá, nhiều tôm. Các khe suối chảy len lỏi trong những quả đồi, phần lớn là đồi sim cũng có rất nhiều cá như Khe Quao, Khe Bội, Khe Su… Người dân nơi đây đã dùng nhiều cách để bắt cá. Dùng nơm, vó, đó, đăng, sáo hay tát đìa vào những tháng khô, trong đó phải kể đến thuốc cá bằng hột và rễ cây mát, một loại cây rừng mọc theo các bờ khe. Không rõ ai là người đầu tiên tìm ra chất độc của loại cây này?

Thường thường, người đi đào rễ mát phải mang theo rựa, chòòng. Khi tìm thấy những hột mát rơi vãi trên một vùng đất thì đích thị nơi đây có cây mát. Sau khi nhặt hết hột mát cho vào bị thì bắt tay vào đào rễ. Rễ mát có màu ngà và dài khoảng trên 2 mét. Nó giống từa tựa như rễ cây hoài sơn và cũng giống như củ sắn dây của miền bắc.

Rễ cây mang về nhà chặt khúc ra, bỏ vào cối đá giã nhuyễn, gói vào lá chuối rồi cho vào mo cau. Bắt đầu một cuộc đi tìm cá. Thường thì đoạn khe phải chỗ nước hơi sâu. Lấy bột rễ mát thả xuống nước. Đợi một lúc, các chú cá trồi lên. Người ta chỉ cần một cái vợt bằng vải mùng vớt cá lên mang về. Hôm được mùa cũng có vài dăm ký. Bọn trẻ chúng tôi chờ cho người thuốc cá đi khỏi rồi mới bắt đầu công việc mót cá. Những con cá to như cá tràu, (miền bắc gọi là cá quả), cá hẽn (miền bắc gọi là cá trê) hoặc là mắc kẹt ở các bụi rong, hoặc là chưa có thời gian đủ ngấm thuốc lúc này mới trồi lên. Và chúng tôi nhảy ùm xuống khe bắt chúng lên.

Người làm nghề thuốc cá này không nhiều. Vì đi vào thung sâu nơi thường có cọp bắt người nên người ta cũng ngại! Có một điều lạ là rễ và hột mát chỉ làm say các loài cá. Khi đem về nấu nướng thì cũng ăn uống bình thường như những con cá khác. Chưa thấy ai ngộ độc với cá thuốc bằng rễ mát.

Xin nói thêm vài điều. Dân quê ngoại tôi không ăn trứng con hôn (từ thường dùng là con ba ba). Lũ trẻ chúng tôi thường bắt gặp những ổ trứng hôn có khi tới vài chục quả, dưới các ụ cát cạnh bờ sông. Khi phát hiện ra ổ trứng hôn thì chúng tôi lại vùi lấp lại để chúng sinh sôi. Một điều lạ nữa là người ta không ăn cá tràu (cá quả) bông. Thời 9 năm, bộ đội hành quân trong rừng rậm Trường Sơn có rất nhiều khe suối mà ở đó có nhiều loài muông thú, thủy sản, có thể giúp anh nuôi cải thiện bếp ăn. Riêng con cá tràu bông thì tuyệt nhiên không được đụng đến. Loài cá này dạn người đến nỗi khi có anh bộ đội xuống rửa ráy thì chúng xúm lại rỉa vào chân?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

              . Câu chuyện thứ 8. Bẫy cọp

                 Cầm thú cũng đủ loại: Cọp thỉnh thoảng ghé về, tiếng kêu bép bép. Dân làng không dám gọi là con cọp mà gọi là “ông” cọp. Người ta đồn rằng “ông” rất thính, nghe được tiếng người nhắc đến mình, nhưng có tật mau quên, nhất là động vào bất kỳ cành cây chiếc lá nào là quên ngay việc đi bắt người. Chuyện về cọp ở đây - nói chung là cái vùng duyên sơn Quảng Trị của dãy Trường Sơn - rất nhiều chuyện ly kỳ, rùng rợn, đã có câu “cọp Thủy Ba, ma Bình Thuận”. Thủy Ba là một làng của Vĩnh Linh. Năm 1950, năm ta là năm Canh Dần. Dần là ứng với cọp trong 12 con giáp. Đúng là một năm rừng động. Thảm kịch xảy ra giữa cọp và người rất khủng khiếp. Chúa sơn lâm đã làm mưa làm gió một vùng. Những tay thợ bắn cọp cũng một thời nổi tiếng. Ông Bát Bé, ông Đen đã bắn được nhiều cọp ở đoạn này từ Bến Than tới Trái, Trấm và Tràu, Phong An, Dốc Dài, Dốc Son…Chuyện ông Đen bắn cọp được dân trong vùng ca ngợi hết lời. Có một buổi chiều, cọp bắt một bé gái chăn trâu gần Động Ôi. Được tin báo, ông Đen xách khẩu súng trường mút-cơ-tông (mousqueton) chạy vào độộng. Từ xa đã nhìn thấy con cọp đang vờn mồi. Ông lựa phía cuối chiều gió để cọp không ngửi thấy mùi hơi người. Mặt trời thì sắp lặn, để đến tối thì nguy hiểm. Con cọp để em bé nằm đầu xuôi phía đông. Không thể chờ, ông Đen đã giặng hắng một tiếng, cọp liền quay phắt về phía ông, phía mặt trời hai mét và nằm chết tươi trước chỗ ông Đen nấp bắn khoảng năm mét. Dân làng khiêng xác em bé về chôn cất, con cọp cũng được đưa về làng. đang lặn. Do chói nắng nên cọp hơi lúng túng, trong khi đó một phát súng nổ đoàng, đúng vào giữa trán con cọp. Nó chỉ nhảy đựng lên khoảng

Chẳng hiểu vì sao hồi đó người dân không ăn thịt và cũng chẳng nấu cao hổ cốt? Mệ ngoại của tác giá bút ký này cũng bị cọp bắt khi chạy giặc Tây lên lùng. Sau này khi tìm được nơi Mệ bị cọp ăn tại Phúc Trèn thì chỉ còn lại bộ xương khô và cái khăn quàng cổ bằng đũi, một loại vải dệt từ tơ tằm, rất bền, khó mục. Đây là bằng chứng, chứng tỏ Mệ tôi đã bị cọp bắt.

Dân làng Thượng Phước cũng đã làm bẫy bắt cọp. Bẫy là những cây tre đực dài trên ba mét, ngọn được vót nhọn, gốc chôn xuống đất ở độ sâu nửa mét, kết lại với nhau bằng những cây tre nằm ngang, hai lớp trên và dưới cách nhau một mét, buộc vào hàng tre đứng bằng những sợi dây chìu, dây mây thật chặt. Cái hàng rào kiên cố này được dựng ba phía. Phía còn lại thì để chừa lối vào cho cọp. Những thanh tre cật được đan thành một cái liếp (phên). Hai bên cửa có hai cây tre đực được vót nhọn một đầu, một đầu để bằng, có dây kết nối với tấm liếp cửa bằng một sợi dây dừa to bằng ngón chân cái. Sau này khi Pháp nhảy dù xuống Hòn Linh, Bậc Lở, quân ta thu được chiến lợi phẩm nhiều thứ trong đó có những chiếc dù mà sợi dây dù rất dai và chắc. Bộ đội cho dân làng để làm bẫy cọp. Sợi dây dừa hay dây dù được kéo căng ra và móc vào hai cái chốt. Cọp bước vào thì chốt bật ra, kéo tấm liếp đứng lên. Trong lúc đó hai cây tre hai bên tự động đóng cửa lại. Cọp vào bên trong chuồng bẫy rồi nhưng không thể nào ăn thịt được con mồi. Vì rằng con mồi, thường là con bê con được nhốt trong một cái cũi rất chắc. Sáng ra, dân làng và dân quân du kích vác súng và những cây giáo dài ra để bắt cọp mắc bẫy, thường thì phải bắn hạ, ít khi bắt sống cọp.

   Lại có chuyện con cọp ba chân bên xã Hải Đạo thường hay bắt người và bắt bọn lính, làm chúng không giám đi lùng, đi phục kích. Tên quan hai Pháp, đồn trưởng đồn Phước Môn đã phải huy động một tiểu đoàn lê dương bố trí hai mũi, nã liên thanh vào cụm đồi có con cọp đang nấp.Cọp ba chân bị bắn chết, trừ đi mối họa cho con người.

***

             Phước Môn là một trong Ngũ Phước, gồm Phước Môn (Hải Lăng), Phước Sơn, Phước Sa (Vĩnh Linh) Phước Tín, Phước Xuyên (Truồi) do Phước Môn Quận công - Cố vấn nguyên lão Nguyễn Hữu Bài (1863-1935)- xin triều đình Huế trưng đất hoang, khai khẩn, chiêu mộ dân nghèo, giúp họ cơ hội làm ăn. Ông còn là một nhà thơ của Quảng Trị, để lại cho đời một gia sản thơ Nôm và thơ chữ Hán đồ sộ mà tiêu biểu là tập Thơ Nôm Nguyễn Hữu Bài do Viện Đại học Huế xuất bản.

Tôi còn nhớ đầu năm 1951, sau mấy vòng lượn từ sân bay Đông Hà lên Xóm Mộ, Đá Đứng, Chàng Quan và bắn mấy quả pháo hỏa mù chỉ điểm. Chiếc tàu bay “Bà già” Moral cút thì ca-nông bắn tới tấp lên làng. Và sau đó là bọn Tây lên lùng. Mấy mạ con chạy ra sau Hoang, gồm có Mạ, tôi, em Lộc, em Bổng, em Mai và em Cúc (Cúc lúc này mới 3 tuổi đã biết sợ) chun vô lùm sim để nấp. Phía động Cồn Lê có bầy bò đang nháo nhác chạy tán loạn, do có tiếng nổ của đại bác. Từ trong lùm cây một con cọp to gấp hai con bò, thân vằn vện vàng, đen lừ đừ đi ra và tóm ngay vào chiếc ướm con bò lôi đi. Con bò phần bị đau và phần sợ chết ngất lững thững theo con cọp một đoạn. Bất chừng, con cọp quay lại tát vào mắt con bò làm bò ngã lăn quay ra đất. Và con cọp cũng như mèo để con mồi nằm đó, vờn đi, vờn lại có tới hàng chục lần, lúc sau mới cắn xé ra ăn. Mấy mạ con nằm im thin thít, phần sợ Tây và phần sợ cọp. Cho tới lúc mõ dân quân báo yên, tức là Tây đã rút về bót, mấy mạ con mới lục tục về nhà.

           Lại vẫn chuyện con cọp, tôi và ông ngoại dậy từ sớm khi gà gáy canh ba, đánh đàn trâu vào Khe Bội - cánh đồng ông mua lại của ông huyện Kiệt.Và cũng có những tranh chấp đất đai, nhưng cuối cùng tòa án thực dân xử cho ông tôi thắng kiện. Tôi còn nhỏ nên ông thương cho cưỡi trên lưng trâu, ông đi bộ, đến gần nương mít Mụ Hểu - nơi dân làng đặt bẫy cọp - thì trâu đánh hơi có mùi cọp. Mấy con trâu lớn xoay đít lại thành một vòng tròn, bao bọc mấy con nghé nấp bên trong. Những con trâu lớn đầu sừng giơ ra phía ngoài. Ông bảo tôi cứ ngồi yên trên lưng trâu và la lên “Huơ là huơ là huơ”. Ông đứng dưới đánh mõ cùng la lên “huơ là huơ”. Trâu thì cứ khịt khịt. Cọp thấy khó lòng xơi món lót dạ sáng ngon lành nên đành bỏ đi. Khi biết cọp đã đi xa.

       Ông cháu tôi lại lững thững tiếp tục đi vào cánh đồng Khe Bội. Bội là tên một loài cây mà đồng bào miền Bắc thường gọi là cây vối. Nhà nào cũng có trồng cạnh bờ ao, dùng lá và nụ để nấu nước uống hàng ngày. Khe Bội có tên chữ là Phúc Khê.

       Nhân nói chuyện bẫy cọp xin nói thêm về chuyện bẫy heo rừng. Muốn bẫy heo rừng thì phải đào hầm. Hầm có kích thước: sâu 1 mét rưỡi, chiều ngang và chiều dọc thì tùy, nhưng phải từ 1 mét rưỡi. Miệng hầm được lót phên đan bằng tre chẻ ra từng mảnh. Tấm phên được gác lên những thanh tre nhỏ cỡ ba phân và rắc một lớp đất lên trên tấm phên để ngụy trang. Nương sắn phải rào thật kín, heo không chui vô được. Chỉ để một khoảng trống chừng bốn năm mươi phân nơi bên trong có hầm bẫy. Vào mùa thu hoạch sắn. Lũ heo rừng thường về ủi tìm thức ăn. Có khi đi từng đàn năm bảy con. Chúng rảo quanh nương sắn tìm đường vào. Thấy chỗ trống, chúng tranh nhau, chen lấn chui vào dẫm lên thì tấm phên sụp xuống, có khi hai ba con heo tụt xuống hầm. Hầm sâu, heo không thể nào nhảy lên được. Chủ nương sắn vác giáo ra đâm hoặc thả dây tróng vào cổ, vào chân heo để bắt sống đem về làm thịt.

       Nhà ông Sáng bên m Mộ, đối diện với dinh cơ ông huyện Hoàng Hữu Kiệt, thường bẫy heo kiểu này. Ông huyện Kiệt, người làng Bích Khê, là chú của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và ông nội của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ – người mối tình nghiệt ngã với ca sĩ Tân Nhân, đến nỗi 35 năm sau, Hoàng Thi Thơ từ nước ngoài về mới nhận được con mình và xin đổi lại đúng tên của họ Hoàng, Hoàng Hữu Hoài. Đó là nhà báo Trương Nguyên Việt, bút danh Châu La Việt khi anh làm thơ.

        Cả vùng rừng núi, độộng, trảng, hác xã Phong Sơn có rất nhiều loại thú rừng nhưng người dân ở đây không lập phường săn. Mặc dù đã từ lâu Lễ hội săn bắt thú rừng của làng Thượng Phước được đưa vào danh mục Lễ hội quốc gia. Lễ hội khai mạc ngày rằm tháng Ba âm lịch, có bà con của hai làng anh em Thượng Nghĩa và Thượng Trạch tham dự. Đây là Lễ hội truyền thống để nhớ về Ngài Tiền khai Võ nguyên Hùng dõng Hùng Quốc công – người đã có công truyền nghề săn bắt thú rừng để bảo vệ mùa màng, thể hiện sức mạnh đoàn kết của dân làng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

          Câu chuyện thứ 9. Kiếm sống bằng đánh bắt thủy sản trên sông.

            Sông Thạch Hãn còn có một tên khác là Nguồn Hàn với câu ca dao:

                               “Không thơm, cũng thể hương đàn

                               Không trong cũng nước Nguồn Hàn chảy ra…   

Ở Quảng Trị, tên Thạch Hãn còn đặt cho một làng quê và gọi theo dân dã là làng Đá Hàn, làng Thạch Hãn nằm trên đoạn đường sắt chạy qua thị xã Quảng Trị. Chữ Hàn cũng có nghĩa là cản lại. Sông Thạch Hãn là dòng sông dài nhất của tỉnh, nước trong vắt bốn mùa. Vì chảy qua rất nhiều lèn đá, núi đá. Chả thế mà cụ Tam Nguyên Yên Đỗ khi đi qua sông đã để lại:

           “Tây Phong hà xứ xuy trần khởi

             Bất trợ niên tiền triệt để thanh

 

Dịch thơ:

            Gió Tây đâu cuốn bụi dồn

             Nước trong thấu đáy nay còn nữa đâu”

 

          Thi sĩ xứ Huế Khiêm Trai, tức Tương An Công Miên Bửu, trong bài thơ “Dạ túc Quảng Trị tân thứ” (Đêm nghỉ tại bến sông Quảng Trị) thì xúc cảm:

            “Danh cao lan xạ Kim Lung tửu

               Sắc tự thanh trừng Thạch Hãn than

              Dịch thơ:

              Chén rượu Kim Long hương ngát đậm

              Bãi sông Thạch Hãn nước trong veo…”

 

              Ngoài rào, vùng quê tôi không gọi sông Thạch Hãn mà nói là rào Thạch Hãn. Rào có nghĩa như con sông (tiếng Pháp phân biệt danh từ chỉ sông lớn như sông Hồng Hà là fleuve, còn sông nhỏ như sông Thạch Hãn là rivière, nếu là sông con, ngòi, lạch thì là rivièrète). Nơi bến Phường Sãi có một cái hà (giống như một cái lạch nước lấn vào bờ), chỗ nước sâu nhất chừng quá ngực một chút.

              Bọn trẻ thường xuống tắm ở đó. Hà có rất nhiều cá mương. Chúng không sợ người mà còn xông vào rỉa ráy. Dọc theo cái hà này, dài chừng ba bốn trăm mét, cậu Diêu Xoan thường hay đổ bổi khi mùa lũ về. Cậu đặt khoảng 20 bó bổi. Bổi được làm bằng những cành lá duối, nếu thiếu thì có thể bó thêm ít cành sim, cành nè hóp không gai và nhiều loại cây có cành khác, có chiều dài khoảng trên một mét, được bó thành từng bó, có dây buộc vào cái cọc trên bờ để nước không cuốn trôi. Tôm cá chui vào nấp hoặc tìm mồi trong đó. Người đổ bổi dùng một cái rổ sảo, đường kính to bằng cái nống phơi lúa. Cứ mỗi buổi sáng cậu Diêu và anh Vọng nhẹ nhàng lội xuống nước, nhẹ nhàng chúi cái rổ sảo ấy xuống bụng bó bổi rồi từ từ nâng lên. Cá rô, cá giếc, tôm và nhiều loài thủy sản khác, có khi được cả chạch lấu, cá hanh hoặc con hôn (một loại ba ba). Đổ hết những bó bổi thu hoạch cũng được vài ba ký lô, đủ cải thiện bữa ăn gia đình và người làm trong ngày.

Đoạn sông này có lợi thế là có bậc lên xuống, không như những đoạn bãi bồi toàn cát. Con sông nào cũng có một bên lở thì bên kia là bồi. Vậy nên cứ đến mùa lụt Mạ tôi thường ngồi gần như sáng đêm để vợt tép. Để chuẩn bị cho việc vợt tép, trước đó những ngày hè Mạ đã vào rú chặt những cây sặt, một loại họ sậy, đem về phơi khô, bó thành từng bó nhỏ có đường kính khoảng một tấc tây để dùng làm đuốc đốt vợt tép. Đuốc được để lên hai  cái giá đỡ bằng tre y như cái càng giá súng trung hay đại liên, cắm vào lòng đất. Khi nước lũ tràn về thì đêm đến Mạ mang một cái thúng, một cái vợt tự chế bằng vải mùng và thanh tre vót nhẵn bẻ cong lại, giống y như cái vợt cầu lông hiện nay, mấy bó đuốc. Hồi đó chưa có đập thủy lợi, thủy điện nên nước lụt dù có lên nhanh nhưng rút cũng nhanh, mà nó còn không hung hãn như bây giớ cho nên bọn trẻ rất thích có lụt để được đi vớt củi rều và đi bắt cá rô đẻ.  Trời tối, đuốc đốt lên không cháy thành lửa ngọn mà chỉ đỏ lửa than. Những bầy tép đi thành đàn cặp mép sông, bơi ngược dòng. Nước chảy xuôi nhưng tôm tép thì bơi ngược. Ngồi sáng đêm Mạ tôi xúc được bộn tép, có khi được cả thúng. Ngoài số tép dùng cho các bữa ăn, số còn lại Mạ tôi muối làm mắm để ăn dần. Dì Mão đã bắc sẵn lên bếp một nồi cháo gạo ít khoai nhiều. Dì xuống bến đến chỗ Mạ đang xúc tép và lấy một mớ tép. Dì vợt những con tép đang nhảy tưng tưng trên mặt thúng cho vào thúng nhỏ đem lên, chỉ dội lại một lần nước và cho vào nồi cháo, chỉ cần nêm thêm vài muỗng muối là có món cháo rất ngọt ngon. Tôi múc một đọi to mang xuống bến cho Mạ. Nhìn Mạ sùm sụp trong chiếc áo tơi rách với cái nón mê trên đầu mải mê vợt tép để nuôi đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn, trong khi Ba tôi còn đi chiến đấu bảo vệ quê hương. Tôi thấy thương Mạ vô ngần!               

Trừ những khi có lụt, còn lại là những đêm trời trong, Mạ thường đi soi cá. Soi cá cũng dùng đuốc bằng cây sậy hoặc cây hóp chẻ nhỏ, phơi khô bó thành từng bó bằng cái cột nhà tre, dài chừng 2 mét. Tối đến đuốc được đốt ở bến nước, rồi lội xuống mép sông, một tay giữ cây đuốc trên vai, một tay cầm cái nơm, khi thấy cá đóng đèn, tức là đóng ánh sáng đuốc. Chúng đứng im một chỗ thì dùng nơm úp lên con cá, bó đuốc tạm thời bỏ lên bờ, thò tay vào nơm bắt cá, thường là loại cá chép, cá trôi, cá mè…có con nặng cả ký lô. Khi không dùng nơm thì dùng dao thái chuối, thấy cá đóng đèn thì lấy dao chém. Có con bị chém dứt làm đôi. Đi soi cá thường đi vào đầu hôm, cháy hết hai cây đuốc thì về nhà. Số cá thu được cũng kha khá, chừng vài ba ký, đủ dùng cho vài ngày.  

Trong thời 9 năm, Dì Mão sang ở với Mạ tôi. Dì là con gái cả của ông Thợ Trì, người làm vè nổi tiếng cả tổng An Đôn. Vì nhà quá nghèo nên ông thợ phải cho người con trai tên là Nguyễn Văn Loan, em Dì đi ở chăn trâu cho cậu Diêu Xoan của tôi. Còn Dì thì được Mạ tôi cưu mang trong những năm đầu chống Pháp cực kỳ khó khăn.

Cá bống cát là loại cá sông, thân hình nhỏ bằng đầu đũa ăn cơm. Cá bố, cá mẹ, thường gọi là cá bống đao. Chúng thì to bằng cườm tay trẻ con một hai tuổi, màu trắng đục. Ta hãy nghe cụ Trần Đức Long, bạn học của tôi thời “để chỏm” tả về tìm bắt con cá bống đao này.

  Trong hồi ký, Cụ Trần Đức Long viết: “Những năm đó, trên đoạn sông chảy qua làng Thượng Phước không có ai đánh bắt cá (vì phía bờ nam là vùng địch), nên cá ở phía trên dồn về sống ở đoạn sông này rất nhiều. Tôi còn nhớ, hồi đó có ngừơi phát hiện ra loại cá bống cát to bằng đầu đũa, có con to bằng ngón tay út, sống dày đặc ở các bãi cát ngập nước, gần mép sông. Nhiều nhất là vùng nước ngập nửa ống chân…

   Người ta dùng một cái rổ, đặt xuống mặt cát, lấy cái bẹ chuối bẻ cong lại và đưa hai tay cầm hai đầu bẹ chuối, lùa cá vào rổ. Mỗi lần như vậy được một bát ăn cơm, Có người xúc một đêm, khoảng 3 giờ đồng hồ được một rổ đầy cá bống. Chị Mão, con ông Thợ Trì, vì quá ham cá nên đi xúc cá vào ban ngày, bị bọn Pháp lên phía làng Như Lệ bắn trúng chân, may mà không chết…Tôi còn nhớ, hồi đó chị Thảnh của tôi cũng đi xúc cá bống cát vào ban đêm mấy lần. Cá này chỉ rửa sạch, ướp muối, mắm ớt rồi kho khô, ăn rất ngon.

   Tôi còn nhớ, tôi và Xuân Bảo, bạn học cùng lớp hay đi với nhau, bắt cá trên đoạn sông này. Chúng tôi cưa các đoạn cây tre, ruột rỗng, một đầu kín, một đầu hở, thả xuống nước, chổ nước cạn chừng ngập mắt cá chân một it. Một thời gian từ 7 đến 10 ngày, thì chúng tôi lội xuống nước, lấy tay bịt đầu hở. Nếu có tiếng động bên trong ống tre thì đích thị là có chú cá bống đao to nằm trong đó.” Tôi thêm vào đoạn này mấy câu: “Rồi thì reo lên “mằm”, “mằm”!...

Có lần Dì Mão đang lúi húi xúc cá bống thì bọn giặc Pháp lên lùng bên làng Như Lệ. Chúng trông thấy Dì và xả súng bắn. Dì bị chúng bắn bị thương ở bắp vế. Hồi đó không có thuốc kháng sinh nên chỉ rửa vết thương bằng lá cây rừng. Nhưng rồi cũng qua khỏi. Một thời gian sau, Dì Mão được Dượng Lê Trường Tôn cưới làm vợ. Và họ sinh được sáu người con ba trai và ba gái. Người con trai thứ hai Lê Trường Quyền đi bộ đội và hy sinh tại chiến trường Bình Trị Thiên, được truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Hai người con trai của Dì là Lê Trường Cận và Lê Trường Kỳ cùng người con gái thứ ba Lê Thị Hoàng hiện sinh sống tại quê nhà. Sau giải phóng miền Nam, hai người con của Dì (Hoàng và Cận), được chính quyền cấp đất làm nhà ngay trên bức nương của Mạ tôi.

Dọc theo bờ sông, thỉnh thoảng bọn trẻ chúng tôi đào thấy những ổ trứng hôn (con ba ba), có ổ có đến hơn hai chục trứng, nhưng không hiểu vì sao hồi đó, người dân không ăn trứng hôn và trứng rùa?

Muốn qua rào chính thì phải qua một cồn cát. Cồn cát này, trong những năm đánh Pháp, theo lời kêu gọi “Tăng gia sản xuất” đã tận dụng để trồng khoai lang. Sau ba tháng thì nhổ lên, củ chỉ to bằng ngón chân cái người lớn, nhưng rất nhiều củ và ăn rất ngon, thơm và bùi. Tắm ở ngoài dòng chính rất nguy hiểm vì nước chảy xiết. Đã có lần tôi suýt bị chết đuối do nước cuốn, may mà tôi kịp thời bơi ngửa, chân đạp mấy cái mới vào được chỗ nông.

Giữa rào, trên cao thường có mấy chú diều hâu. Chúng bay lượn      rất mềm mại, sà đôi cánh như múa trong không trung. Nhưng đôi mắt thì rất tinh. Từ trên cao, chim diều hâu nhìn thấu đáy sông. Và khi đã phát hiện được cá thì chúng lao mình xuống nước như một mũi tên và hai chân của chúng quắp một con cá to. Diều đáp xuống giữa cồn cát ăn con cá ngon lành.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

             Câu chuyện thứ 10. Công múa ngày xuân

Cứ mỗi độ xuân tới, có một đôi chim công, một trống và một mái bay về sà xuống trước vạt đất, nơi ông tôi thường trồng lúa ngự. Riêng chữ “ngự” đã biểu hiện một cách cung kính, một loại gạo rất thơm, dẻo để thổi cơm cúng trong những dịp lễ tiết, giỗ, chạp. Tôi thường theo ông đi làm cỏ để nhổ những tép lúa màu tím lẫn trong khóm lúa. Ông bảo rằng: cây lúa màu tím đó sau này sẽ lổ ra hạt lúa mà lòng nó đỏ, các cụ xưa rất kiêng câu thành ngữ: Xanh vỏ đỏ lòng, cho nên không thể dùng để cúng bái được.

Mặt trời lên chừng một con sào thì con công đực bắt đầu múa, lông đuôi xòe ra như cánh quạt lớn, sải đuôi có tới hơn một thước tây, màu sắc rất đẹp, nhất là màu lục diệp viền quanh lông đuôi những hoa văn mặt nguyệt. Chúng múa rất say sưa mãn nguyện. Thiên nhiên đã ban tặng cho muôn loài những màu sắc kỳ vĩ. Chủ yếu vẫn là màu xanh lục diệp của cây cối: cu kỳ màu xanh, két (vẹt) màu xanh, đến cả công lông cũng màu xanh ấy. Trời đất sẽ đơn điệu biết mấy nếu như tất cả các loài chim đều chỉ có một màu xanh! Vì thế con chim sáo phải là màu nâu như chim cu gáy…cà cưỡng thì vừa có bộ lông đen và trắng. Chèo bẻo và quạ thì đen tuyền. Chèo bẻo thân nhỏ, đuôi dài, rất hung dữ, có thể đánh bại mọi loài chim khác kể cả quạ. Quạ khoang để bắc cầu Ô thước trên sông Ngân cho Ngưu Lang – Chức Nữ gặp nhau thì điểm xuyết màu trắng ở cổ. Cò thì trắng, thật là vạn vật muôn loài muôn màu sắc. Đó là bức tranh tuyệt đẹp mà tạo hóa đã ban cho con người!    

Đôi công múa rất đẹp, rất uyển chuyển trông thật vui mắt. Ông thường dạy bảo chúng tôi, những đứa trẻ tinh nghịch thích dùng ná để bắn chim, không được bắn chim công. Ná là một chạc cây như chữ Y in hoa, hai sợi dây cao su được buộc vào một miếng da dùng để bỏ viên bi hoặc đá sỏi có độ tròn trơn vào làm đạn bắn, hai đầu kia buộc vào hai bên càng ná. Viên bi được kẹp căng ra và thả cho trúng mục tiêu. Lũ chúng tôi thường dùng ná để bắn chim hoặc gà rừng.

Có một điều gì đó rất chi là bí ẩn, thiêng liêng ăn sâu vào tâm khảm mọi người nên hai con công rất dạn dĩ với người. Người xem công múa cũng thành kính như khi cúng bái, cầu nguyện. Sau tết Nguyên tiêu thì chúng bay đi đâu không rõ, đợi mùa xuân năm sau lại về múa cho dân làng xem.

Sau này khi sống ở Hà Nội, tôi có dịp được xem những tiết mục “múa công” của các nghệ sĩ Đoàn Ca múa Trung ương. Những dịp ra nước ngoài tôi cũng đã từng được xem “múa công” ở Trung Quốc, ở Thái Lan, ở Indonésia, Campuchia. Nhìn lên sân khấu thấy nghệ sĩ đeo lông công thật múa lượn, tôi bất giác nhớ đến ông ngoại, một thầy thuốc bắc giỏi nhất vùng và là một chủ điền trang giàu có nhưng không xa rời cái cuốc cái cày. Ông lao động như một lão nông dân tri điền. Nhưng sao tôi vẫn thấy nhớ đôi công thật ngày xưa múa đẹp hơn, thật hơn, dù không có nhạc nền

Giờ đây đi đường bộ qua đoạn Tĩnh Gia – quê hương của Đào Duy Từ – thấy cả một dãy dài hàng cây số bày bán các loại chim rừng mà lòng thấy xót xa. Con người sao nỡ đối xử với cầm thú tàn nhẫn đến vậy. Chúng ta thường nói đến quyền sống cho dù là của bất cứ một động vật nào, cao cấp cũng như cấp thấp. Đã biết rằng “chim trời, cá nước, ai bắt được nấy ăn” nhưng mà đem chúng về để thỏa mãn một thú vui, một kiểu trang trí cho ngôi nhà, cho vườn nhà để làm đẹp và khoe mẽ với thiên hạ rằng: Ta là người biết chơi, chịu chơi đây thì khác nào những tên trọc phú mà Molière đã viết trong vở kịch nổi tiếng Trưởng giả học làm sang (Le bourgeois gentilhome) mà thôi. Cái kiếp “cá chậu, chim lồng” là không thể chấp nhận. Hãy trả chúng về với thiên nhiên, cho chúng cái quyền được tự do, được sống.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

              Câu chuyện thứ 11. Làng Mạ tôi có rất nhiều loài chim

Sau ngày Cách mạng Tháng 8, ông Nghẹc, người làng Đại Hào, tôi gọi bằng cậu – một chiến sĩ Vệ quốc đoàn – được đơn vị phân công đi săn bắn để kiếm thức ăn cho công binh xưởng của Chi đội Nguyễn Thiện Thuật, tiền thân của Trung đoàn 95 sau này, đóng ở làng Như Lệ. Công binh xưởng đặt dưới quyền chỉ huy của Phòng Quân giới, do ông  Đội sếp khố đỏ Lê Văn Liêu – người làng Trà Lộc, huyện Hải Lăng làm Trưởng phòng. Lần theo tiếng gù, cậu bắn một phát đạn ria của khẩu súng hai nòng calipse douze (cỡ đạn 12 mm), vài ba con cu kỳ trúng đạn rơi xuống đất. Những đứa trẻ chúng tôi tranh nhau nhặt về làm bữa ngon lành.

 Phường Sãi vốn thuộc làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Đăng Xương, Quảng Trị, được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho theo vào Đàng Trong. Hồi năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đem theo hàng ngàn binh mã bản bộ từ Gia Miêu ngoại trang vào trấn thủ Thuận Hóa.

 Đây là vùng duyên sơn, chỉ có đồi sim mua, trảng tranh, không có núi. Trước kháng chiến chống Pháp, vùng này có rất nhiều loại cầm thú, có rất nhiều loài chim: bìm bịp, nghịch, cuốc, chàng làng, sáo, cà cưỡng, tu hú, gà rừng, các loại cu gáy, cu ngói, cu kỳ…Từ điển bách khoa ghi rõ: cu kỳ là cu xanh.

              Sáng sớm mai cả khi rừng Lùm Miệu rộn rã tiếng hót của các loài chim như một bản hợp xuớng của núi rừng. Chim cu kỳ thiên di theo mùa, bộ lông của nó màu xanh lục rất đẹp, thân to như con bồ câu tây. Tiếng gù của cu kỳ nghe rất êm tai và thịt rất ngon.  Chúng thường đậu trên cành cao, lẫn vào đám lá nên rất khó phát hiện, nhưng chính tiếng gù của nó đã làm hại nó.

Khu rừng Lùm Miệu côi và đưới (trên và dưới) và trong độộng, trong hác còn có nhiều loài chim khác. Con chim rôồng rôộc, thân nhỏ như chim sẻ đồng, lông màu vàng nhạt có cách làm tổ rất khéo. Có thể nói tổ chim rôồng rộôc là một tòa lâu đài thu nhỏ và những chú chim xinh xinh đó là những kiến trúc sư tài ba. Chúng bay đến những trảng tranh, con cái giữ đầu lá tranh lại, con đực dùng mỏ tước lá tranh nhỏ ra chừng vài milimet, cắn đứt thành sợi theo chiều dài của lá tranh, tha về nơi chúng dự định xây tổ. Và có một loài cỏ nữa tên là lá đẹc, giống là mía nhưng bề ngang hẹp, chúng tước lá đẹc ra từng sợi nhỏ, chiều ngang chỉ 1-2mm rồi quấn và đan vào nhau thành cái tổ. Tổ được néo vào một cái chạc ba hoặc những cành cây có nhánh. Chúng dùng mỏ đan những sợi tranh vào nhau, kết lại như kiểu con người dệt vải, rất chắc. Và ngày này qua tháng khác, những con chim nhỏ cần cù lao động để xây lâu đài hạnh phúc lứa đôi. Cửa ra vào làm phía dưới tổ nên mưa nắng không lọt vào đây được. Phía bên trong nội thất là khu vực cho chim chồng chim vợ nghỉ ngơi và cũng là nơi để những quả trứng bé xíu ra đời thành nhưng con chim con. Tổ rồồng rộộc chúng thường treo tòn ten men bờ khe suối.  Loài chim này có làm hại mùa màng nhưng không đáng kể, vì chúng còn tìm ăn sâu bọ.

              Có một loài chim cứ đầu mùa hè tới là kêu suốt ngày suốt đêm với điệp khúc “Cha kèo, con cột” nghe như âm hưởng của những người thợ mộc đục đẽo. Sau này khi hành quân trong rừng rậm Trường Sơn, chúng tôi, những chiến sĩ trẻ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” nghe tiếng kêu đó thì nghĩ thành câu “Khó khăn khắc phục” để cùng nhau vượt bao gian lao, vui bước quân hành.

              Tiếng kêu, chứ không phải là hót của loài chim bồ chao, cũng có nơi gọi là bao chao là rộn ràng nhất. Chúng sống bầy đàn, chẳng hề sợ người, cứ bay từ lũy tre này sang lũy tre khác. Thịt chúng tanh nên không ai săn bắn. Từ trên cây chúng phát hiện ra những mầm ngô hoặc hạt thóc mới nhú là sà xuống bới tung lên nhặt kỳ sạch mới thôi. Cái tiếng rộn rã, ríu rít có khi làm cho ta đinh tai nhức óc. Nhà thơ Thu Bồn lại cảm thấy tiếng chim ấy như một khúc bi tráng của núi rừng Tây Nguyên nên đã sáng tác bản trường ca “Bài ca con chim Chơ-rao” nổi tiếng thời đánh Mỹ.

Trong những năm chạy giặc cũng gọi là đi tản cư, ông tôi sắp xếp cho mỗi gia đình các cậu mợ, các dì và mạ con tôi một ngôi nhà nhỏ ở Khe Bội. Nhà ở Phường Sãi thì bị Tây đốt hết, chỉ còn mấy cái nền cháy xém, trơ những hàng cột chưa cháy hết. Tuy là cháu ngoại, nhưng tôi được ông thương nhiều. Ông cho tôi theo vào rú để hái lá thuốc nam. Do đó, dù ít tuổi (năm đó tôi mới 12 tuổi) nhưng tôi đã biết đến những cây thuốc: hà thủ ô, kim ngân, hoài sơn, đậu khấu, thiên niên kiện…và nhiều loài cây làm thuốc có sẵn trong nương như hạt của trái bồ quân gọi là thanh tra, vỏ quýt gọi là trần bì, ngải cứu, tần ô, kinh giới, tía tô…

Tôi và bọn trẻ được xuống ruộng, chạy theo sau những cái bừa bộng hoặc bừa răng (hai con bò hoặc một con trâu kéo) để bắt những con cua, con cá và cả những con niềng niễng, con cà cuống. Có lần tôi bị cà cuống đốt như ong châm, nhưng không sao cả. Cà cuống hiện nay còn rất ít vì ruộng đồng sử dụng quá nhiều các loại thuốc diệt cỏ, trừ sâu. Tinh dầu cà cuống được coi là một gia vị xa xỉ dùng trong các món đặc sản như chả cá Lã Vọng, bánh cuốn Thanh Hương, bún thang Hà Nội…

Cả Phường Sãi và làng Thượng Phước người ta nuôi tới hàng ngàn con bò và trâu, cho nên phải dành ra một con đường cho chúng đi. Chúng được đi riêng, thường gọi là kiệt trâu bò đi. Cái kiệt dành cho trâu bò đi bắt đầu từ đầu đường xe, (đường kéo xe gỗ từ rừng ra) phía biền Đù Đù đền bến Mè Xèng thì ra bãi cát.

Cái kiệt này cũng đã đi vào lịch sử. Đó là việc dân hai làng Thượng Phước và Như Lệ chặn bắt tên tri phủ Triệu Phong Trần Mậu Trinh trong những ngày đầu khởi nghĩa Tháng Tám. Và cũng tại cái kiệt này, khi Nhật làm đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945), bọn Phú - lang - sa chuồn khỏi thị xã Quảng Trị chạy lên núi thoát thân. Chúng đã chui qua cái kiệt này. Dân làng biết nhưng mặc kệ vì lúc đó phương tiện truyền thông chưa như bây giờ, dân vẫn tưởng còn bọn Pháp cai trị!

Trâu bò suốt ngày gặm cỏ trong các trảng, hác, độộng được lùa về khi chiều tối. Có cái hay là đến khúc nhà người nào thì đàn bò rẽ xuống sông đoạn đó uống nước, trâu thì đằm tắm thoải mái rồi theo con đường quen thuộc về ràn (chuồng) của mình, không bao giờ lộn đường, nhầm chuồng. Bãi cát sông Thạch Hãn chạy dài từ Mè Xèng đến Cồn Kết, chiều về trâu bò đỏ bãi. Con đường kiệt không có bước chân người nên có rất nhiều chim nghịch, chim cuốc sinh sống. Nghe tiếng “quốc quốc òa…quốc quốc òa” như một lời than. Hồn Thục Đế kêu than hay lời thơ ai oán của Bà Huyện Thanh Quan, ở bài thơ Qua Đèo Ngang.

               “…Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

                     Thương nhà mỏi miệng cái gia gia…”

Theo truyền thuyết, Thục Đế là vua nước Thục tên Đỗ Vũ thông dâm với vợ của bầy tôi là Biết Linh. Tức giận, Biết Linh dấy loạn, đem quân đánh phá kinh thành. Thục Đế thất bại, mất ngôi chạy trốn vào rừng. Nhục nhã, buồn tủi, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Đế chết hóa thành con chim Đỗ Quyên, ngày đêm kêu “quốc, quốc!”. Đỗ Quyên còn được gọi là Từ Quy. Dân ta thường gọi là con chim cuốc. Chim cuốc có đầu mỏ hơi cong, miệng to, đuôi dài, lông lưng màu tro, lông bụng trắng có một đường đen thẳng ngang, thường lủi trong bụi rậm. Cuối xuân sang hè thì bắt đầu kêu vào ban đêm. Giọng kêu buồn thảm, gợi khách lữ thứ nhớ nhà, nhớ quê hương!

              Còn “cái gia gia” chính là con gà đa. Nam Bộ gọi là con chim đa đa, đã có bài hát về con chim này. Chúng sống trong các bụi sim, bụi muồng trong các độông. Tiếng chim đa đa có cái gì đó vui vui như được mùa “túc, đa đa…đa”, vì thế người ta không tìm săn bắn nó nhiều như nhiều loài chim khác.

Cũng theo truyền thuyết cổ xưa của Trung Hoa thì: Vào đời nhà Thương (Ân) vua Trụ tàn bạo, Vũ Vương đem chư hầu điếu phạt. Bá Di và Thúc Tề, con vua Cô Trúc đến trước đầu ngựa vua Vũ can ngăn cho rằng bất trung, bất nghĩa. Sau Vũ Vương thắng lợi thành lập nhà Chu thì Bá Di và Thúc Tề vào núi ở ẩn, thề không ăn gạo nhà Chu, chỉ hái rau vi mà ăn. Có người bảo rau vi cũng của nhà Chu. Uất ức hai ông nhịn đói mà chết hóa thành con chim đa đa và luôn miệng kêu: “bất thực túc Chu gia”!

Hai âm “quốc quốc” và “gia gia” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan mượn âm theo lối tá âm mà thành. Trong kho tàng thi ca cổ điển nước ta đã có những nhà thơ dùng đến điển tích này như Trần Danh Án, di thần nhà Hậu Lê có bài:

 Giá Cô tại Giang Nam

Đỗ Quyên tại Giang Bắc

Giá Cô minh gia gia

Đỗ Quyên minh quốc quốc

Vi cầm do hữu quốc gia thanh

Cô thần đối thử tình vô cực

 

Dịch:

 

Chim Giá Cô ở bờ sông Nam

Chim Đỗ Quyên ở bờ sông Bắc

Giá Cô kêu gia gia

Đỗ Quyên kêu quốc quốc

Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà

Cô thần đối cảnh tình man mác.

Chu Mạnh Trinh có hai câu khi nhìn cung miếu An Dương Vương ngày xưa huy hoàng tráng lệ bao nhiêu thì ngày nay lại điêu tàn hoang phế bấy nhiêu! Dưới ánh trăng mờ nhạt tiếng cuốc kêu mới khắc khoải, mới buồn bả làm sao:

                                  Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu

                        Đỗ Quyên đề đoạn, nguyệt âm âm

 

                     Dịch:

 Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt

          Trăng mờ khắc khoải cuốc kêu thâu

 

Cụ Yên Đổ có bài thơ Nôm khi nhìn đất nước bị thực dân Pháp xâm chiếm, nhấn chìm trong tăm tối. Tiếng cuốc kêu như thúc giục:

Khắc khoải sầu đưa giọng lững lơ

Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ

Năm canh máu chảy đêm hè vắng

Sáu khắc hồn ta bóng nguyệt mờ

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?

Ban đêm ròng rã kêu ai đó

Gịuc khách giang hồ dạ ngẩn ngơ

 

              Có một loài chim chỉ bằng nắm tay nhưng chúng lủi rất nhanh, khó lòng tóm được. Đó là con chim cút mà ngày nay dân ta đã nuôi thành trang trại. Tuy vậy thịt chim cút nuôi không ngon bằng cút rừng.

Trước cổng nhà ông mệ có trồng một cây bứa, cành đâm ngang cho nên bọn trẻ và cả các chú thanh niên thường hay dùng làm xà ngang để tập thể thao. Hai cây dâu gia trái sây, từ dưới gốc lên ngang đầu người. Mùa dâu chín như hai cái cột trang trí cổng chào đỏ rực một màu đỏ tươi, nhìn mà chảy nước miếng. Có một cây sầu đâu rất to và rất cao, miền bắc gọi là cây xoan. Còn miền trung gọi là cây sầu đông. Mùa đông rụng hết lá, trơ cành khẳng khiu.

Những cây sầu đâu, bứa, dâu gia là nơi để đôi chim khách, tên chữ là chim thước, năm thì mười họa về đậu. Chúng bay đến, thường là hai con, nhưng chỉ có con trống kêu đúng sáu tiếng: khéc, khéc, khéc…khéc, khéc, khéc, rồi bay đi. Người ta nghiệm ra rằng ngày hôm đó hoặc ngày hôm sau nhà sẽ có khách đường xa tới thăm.

Ban đêm nơi rừng rú là nơi đáng sợ. Bọn con nít chúng tôi ít khi ra khỏi nhà. Song sợ nhất là tiếng các con chim kêu đêm. Cú rúc từng hồi theo nhịp lóng một: cú, cú, cu…Dân gian có câu “cú kêu ma ăn” là khi cú đã đậu lên nóc nhà ai kêu lên ba tiếng rùng rợn đó thì sẽ có người chết? Sau này lớn lên chúng tôi mới hiểu ra đó chỉ là mê tín mà thôi! Còn cái con chim heo (lợn) không biết hình thù nó ra sao, nhưng ai cũng sợ. Chúng bay trên cao, giữa trời đêm và thả vào không trung những tiếng éc, éc, éc nghe rợn người. Cú và chim heo kêu đều là những điềm xấu.

Lại có một loài chim kêu đêm đã in đậm vào kí ức mọi người. Dân làng gọi loài chim này là chim rủ rỉ rù rì. Có một điều rất lạ là chúng chẳng bao giờ bay có đôi, có cặp cả. Đêm nay có thể là con đực ở cây ươi Phường Sãi thì con kia có thể là con cái từ trong lùm cây cổ thụ ở miếu Ngài Khai khẩn đầu làng Thượng Phước, mạn giáp làng An Đôn cùng bay ngược chiều nhau, khi trời chạng vạng tối. Nửa đêm chúng gặp nhau ở kiệt ông Phó Tiệm đúng giữa làng. Chúng mừng rỡ nhảy múa, kiểu gà trống gù gà mái trong mùa giao phối. Có người đã trông thấy chúng, to gần bằng con gà mái đẻ, lông màu nâu xám. Tiếng kêu thật là thê lương, như tiếng than vãn của người dân mất nước: “cùng cực chi tui cùng cực”, con kia đáp lại: “rủ rỉ…rù rì”. Cứ thế cả đêm kêu từ đầu làng đến cuối xóm, nghe rất buồn. Gần sáng, khoảng gà gáy canh tư thì chúng về đậu lên cây cao, đổi chỗ. Con đực sẽ ở đầu làng, con cái về cây ươi. Không ai săn bắn chúng cả. Sau Cách mạng Tháng Tám, chúng vẫn còn kêu nhưng đến ngày 12/2/1947 bọn Pháp trở lại xâm chiếm Quảng Trị, phần do bom đạn nổ rền, phần vì ban đêm quân du kích và bộ đội, cán bộ đi lại nhiều nên chúng bay đi đâu không rõ. Cũng có thể là nước đã độc lập nên chúng không còn kêu than nữa!

Trong các nương của ông mệ, cậu Diêu Xoan, cậu Diêu Khuê và nương của mạ tôi cây cối lưu niên rất nhiều: Mít, bồ quân, bưởi thanh trà, dâu gia, dầu lai, cau, chè, vả…và xung quanh là lũy tre. Cả ngày chỉ có ánh nắng ban trưa ở giữa sân mà thôi, còn toàn là bóng râm che mát cả một vùng. Đây chính là nơi mà con chim cắt rình rập đàn gà con. Từ trên cành cao, chim cắt lao như một mũi tên xuống đàn gà con và quắp một chú bay vút lên, lẫn vào đám lá. Có câu “nhanh như cắt” là để chỉ loài chim này.

Lại nói về các thứ bẫy chim và gà rừng. Bẫy có các loại chim bầy, chim ăn lẻ.  Các loại bẫy như: bẫy lồng, bẫy lỗ, bẫy cần, bẫy goọng, bẫy chim cu vào vụ mùa gieo hạt bắp, mè. Thường là tháng Giêng, tháng Hai âm lịch rất vui và cho tôi nhiều kỷ niệm.  Những loài chim hay mắc bẫy nhất là chim chàng làng, chim nghịch, chim cuốc, bìm bịp, gà rừng. Tôi đã có lần theo cha con ông Bộ Hinh đi đánh bẫy gà rừng. Ông Bộ Hinh là thân phụ của Trần Đức Long, bạn học thời phổ thông của tôi. Người đi đánh bẫy mang theo con gà trống mồi. Gà trống rừng này bắt về nuôi thuần hóa. Đặc biệt hai cái mào dưới tai gà rừng bao giờ cũng là màu trắng. Vào khoảng tháng 3 âm lịch là mùa đánh bẫy gà rừng. Hễ nghe thấy tiếng gà rừng gáy ở đâu là lập tức đến đó để đánh bẫy. Đặt con gà mồi vào một đám đất gần chỗ có tiếng gà rừng gáy. Buộc một sợi dây mềm, nhỏ vào chân con gà mồi, đầu kia buộc một cái cọc, cắm cái cọc đó xuống đất để hạn chế bán kính hoạt động của con gà mồi. Vì xung quanh con gà mồi được cắm một vòng tròn các cây gio để bẫy gà rừng. Làm xong các công việc đó thì người đi đánh bẫy vào một chỗ khuất, gần chỗ con gà mồi để quan sát, con gà mồi đã được huấn luyện tốt. Hễ thấy chủ nó đi vào bụi cây là nó cất tiếng gáy liên tục. Tiếng gáy đó khiêu khích con gà rừng. Con gà rừng lập tức từ trên cây vỗ cánh đáp xuống chỗ con gà mồi để nghênh chiến. Nó lập tức dùng chân có cựa dài và sắc và hai cánh nâng mình lên để đá vào con gà mồi. Nó không ngờ là nó đã mắc vào các cây gio cắm xung quanh. Có nhiều con gà mồi rất khôn. Khi con gà rừng áp sát vòng gio, nó giả vờ sợ sệt để con gà rừng xông vào đánh nó và mắc gio. Nếu con gà rừng thấy vòng gio mà sợ sệt rồi bỏ đi, thì nó cất tiếng gáy khiêu khích, còn gà rừng lập tức quay lại đánh nó và mắc gio. Có khi còn bắt được cá gà mái rừng ngoài vòng gio cắm xung quanh còn gà mồi. Thường thì các con mái đi theo con trống và quanh quẩn gần chổ đánh bẫy. Khi con trống mắc bẫy, các con mái chạy tán loạn và mắc gio. Khi bị đuổi, gà rừng chạy một đoạn rồi mới cất cánh bay, nên bị mắc vào gio. Cũng có những người nơi khác đến bẫy chim bằng lưới, thường là chim cu đất, cu ngói sống theo bầy đàn.

Khi mùa xuân tới, chúng tôi cũng thường đi kiếm cá ở những đoạn khe suối cạn nước. Dụng cụ là những nhánh sim bó nhỏ rồi dùng hai tay đẩy đi từ bên này sang bên kia vũng nước cạn. Những con cá mắc vào cành sim được đẩy lên trên đất khô và cho vào oi (giỏ). Có khi bắt được cá tràu (miền bắc gọi là cá quả, miền nam gọi là cá lóc), cá hẽn (cá trê). Chúng tôi nhào bùn cho dẻo rồi trét dày lên mình cá đem nướng lên trên những cành củi khô cho đến khi cả cục đất bị nung cháy thì bên trong cá chín. Những đứa trẻ chăn trâu chúng tôi cùng ăn với nhau rất vui vẻ, rất ngon, đỡ đói. Chúng tôi cũng đào những cái hố bẫy rùa. Hố vuông mỗi bề khoảng bốn gang tay, sâu hơn nửa mét, dưới đó đặt một cái cọc tre chính giữa, trên cọc tre ghim một miếng xơ mít chín. Những con rùa núi ngửi thấy mùi mít chín thì vươn cái đầu ra để đớp và bị mất thăng bằng nên rơi xuống hố. Thit rùa ăn ngon, nhưng trứng rùa thì không ai dùng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Câu chuyện thứ 12.Cậu Nghẹc bắn voi rừng

             Voi tuy là động vật hoang dã nhưng đã được con người thuần dưỡng. Trong lịch sử giữ nước tượng binh là một binh chủng khá lợi hại, đã giúp quân ta dẫm nát quân thù. Voi nhà còn được dùng để vận chuyển gỗ từ rừng ra. Quê tôi, trước Cách mạng Tháng 8, người dân chưa biết đến các dân tộc ít người như Pa-cô, Vân Kiều…mà thường gọi chung là cà lơ. Trước mặt nhà ông ngoại tôi có con đường dẫn xuống sông Thạch Hãn. Chỗ bến lội qua sông, tôi thường thấy từng đoàn người cà lơ di dân bằng voi. Và nghe ông ngoại kể, họ có tài đem voi nhà dụ voi rừng về nuôi.

Thời kháng chiến chống Pháp, quân đội ta thiếu thốn mọi bề nên việc cậu Nghẹc tôi được phân công đi kiếm thực phẩm bằng cách săn bắn thú rừng là chuyện thường. Cậu thường đi vào vùng trảng tranh thật xa để tìm bắn thú rừng. Có lần cậu bắn được một con voi to tướng. Cậu thông báo cho các làng gần đó mang theo dao, rựa, triêng gióng (quang gánh) để vận chuyển thịt voi về làng. Tất nhiên là dân làng cũng phải làm nghĩa vụ đem thịt voi về cho Công binh xưởng của cậu. Tôi cũng mang theo dao rựa và triêng gióng theo đoàn người đi xẻo thịt voi. Lúc đi mạ tôi dặn cố gắng lấy cho được cái đợng voi. Đợng tức là cái gan bàn chân của voi. Đợng rất dày, có thể dày tới mười phân, đem về cạo sạch phần da ngoài, luộc chín mềm, cắt thành từng miếng nhỏ khoảng 3 phân vuông, phơi khô, gác lên giàn bếp. Khi có giỗ chạp hoặc ngày Tết thì đem xuống, lấy cát cho vào chảo rang lên cho tới khi nở bung đều, dùng vào việc nấu đọi canh cúng (giống bát canh bóng của người dân miền bắc nấu bằng da lợn rang bỏng). Chỉ có những nhà quyền quý thời thực dân, phong kiến mới có món canh đợng voi, còn đa phần thì dùng da heo.

Hồi trước Cách mạng, dân Quảng Trị thường khi nghe vua Bảo Đại đi săn voi thì hay kéo nhau đi coi. Và người dân phải è cổ ra đóng thuế để xây dựng một con đường giành riêng cho vua đi săn. Con đường đó mang tên là đường Vĩnh Thụy, điểm đầu nối với Quốc lộ 1 tại làng Lai Phước, song song với Đường 9 lên Cùa. Địa danh này cũng nổi tiếng vì vua Hàm Nghi đã chọn Tân Sở làm căn cứ địa chống Pháp và hạ chiếu Cần vương.

      .

 

 

 

 

 

 

 

             . Câu chuyện thứ 13.Nhớ giọng hò O QUÝ.                               

Một ngày cuối năm. Trong cuộc họp mặt bàn thành lập Ban Liên lạc đồng hương Quảng Trị ở Đồng Nai, O Tư người Vĩnh Linh, tuổi đã trên năm mươi, góp vui bằng một điệu hò mái nhì. Tiếng hò của O Tư làm tôi nhớ tới người con gái làng Thượng Phước – quê ngoại tôi – cách đây hơn nửa thế kỷ.

Làng Thượng Phước nằm ven con sông Thạch Hãn, quanh năm nước chảy hiền hòa. Chỉ có những ngày tiểu mãn, những ngày “tháng bảy nước nhảy lên bờ,” dòng sông mới đục ngầu phù sa, mang theo bao thứ từ tận tít nguồn Hàn, trên dãy Trường Sơn trôi về. Bọn trẻ chúng tôi thường đi cặp mé sông vớt củi rều, có khi vớ được cả những con heo rừng nhỏ, những con mang (mển) còn sống, đem về thui thui, đun đun, nấu nấu, cả xóm cùng vui.

Trước ngày vỡ mặt trận Trị Thiên - Huế, dòng Thạch Hãn man mác, dìu dặt bao nhiêu điệu hò thân thương trên những chiếc đò ngược xuôi bến Trấm và xa hơn nữa là Bơng, là Chả Cá, Đá Nổi, Đà Nầm, Thác Lo và chiến khu Ba Lòng.

Ngày đó và cho đến cả những năm đánh Tây, đường lên nguồn chủ yếu là đường sông. Cứ sau mỗi mùa thu hoạch, những chiếc nốốc to được chất đầy bắp, sắn chở về xuôi. Những tay thạo nghề sông nước và cũng rất giỏi giang trong các làn điệu hò mái đẩy, mái nhì. Cho đến khi xuất hiện bài thơ Cô lái đò của Lương An:

                …Đò em lên xuống Ba Lòng

                   Chở người cán bộ qua vùng chiến khu…

Dòng Thạch Hãn như được thổi thêm luồng sinh khí mới. Đêm đêm, khi vừa lặn mặt trời, bến Trấm rộn rịp bước chân người cán bộ, anh bộ đội và cả người đi buôn, xuống đò lên chiến khu. Đò đi trong đêm, đi trong ánh trăng rừng bàng bạc. Hai bên bờ là những trái núi sừng sững. Và tiếng hò lại được cất lên, hòa vào sương, vào núi, vào trăng làm chộn rộn lòng người.

Thượng Phước trước sông, sau độộng. Ở giữa có cánh đồng Bàu Lác, Bàu Ông Phe, hai mùa lúa trĩu hạt sây bông. Trước đây, cứ tới mùa cày, mùa cấy, mùa gặt, thợ bạn từ Lâm Thủy, Câu Nhi, Trà Lộc…kéo nhau lên để mùa nào việc nấy. Cánh đồng làng tấp nập từng tốp, từng tốp áo dài vá vai khom lưng dưới nắng dãi, mưa dầu làm lụng. Và để quên đi cái mệt nhọc của công việc đồng áng, tiếng hò được cất lên giữa đất trời bao la, lan tỏa khắp thôn làng, thấm sâu vào lòng người.

                Mạ tôi cũng là một người hò rất hay. Ngày còn bé, tôi đã được nghe Mạ hò với rất nhiều làn điệu. Hò mái nhì, hay còn gọi là điệu hò sông nước. Đây là điệu hò khoan thai, theo nhịp mái chèo. Tôi thường nghe Mạ hò câu hò in đậm vào lòng người dân mất nước:

 “Chiều chiều trước bến Văn Lâu *

   ai ngồi ai câu

   ai sầu ai thảm

   ai thương ai cảm

   ai nhớ ai đợi ai trông.

   Thuyền ai thấp thoáng bên sông

   Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”

 

Nhưng tôi nhớ nhất là điệu hò Ru em:

      

          Ru em, em théc cho muồi

    Để m đi chợ mua vôi ăn trầu…

 

              Và những năm ở Hà Nội, tôi đã làm bài thơ Gửi cánh chim xa để nhớ về mẹ, trong đó có những câu:

…Về bên nôi cũ, đến con tìm

       Lời mẹ ngày xưa ru con ngủ

         Ầu ơi! Giấc ngủ nhẹ êm êm…

                                                ***

Tháng 2 năm 1947, giặc Pháp đổ bộ lên cửa biển Tư Hiền, rồi nống chiếm Quảng Trị. Thượng Phước cách thị xã Quảng Trị không đầy năm cây số. Nhưng đây là vùng tự do. Bọn trẻ chúng tôi, đứa thì vào du kích, đứa đi bộ đội, đứa lên Ba Lòng, đứa ra Hà Tĩnh để học, tùy theo sức mình mà tham gia kháng chiến. Trong chi đoàn Thanh niên Cứu quốc thôn, có O Quý được trời phú cho một chất giọng tuyệt vời, hát đã hay mà hò lại càng hay hơn.

Nhưng đêm trăng sáng, chi đoàn tổ chức sinh hoạt giữa cánh đồng Bàu Lác, cố nhiên là phải vào mùa khô, mùa giáp Tết. Phần thứ hai, bao giờ cũng có tiết mục liên hoan văn nghệ. Tiếng hát, tiếng hò lại được cất lên một cách tự nhiên như con người cần hít thở khí trời vậy. Và không thể thiếu được giọng hò O Quý. O Quý hò, tập thể chúng tôi xô (xô là tiếng hò đệm xen vào để người hò hò tiếp câu sau).

Có một tối, chi đoàn đang vui văn nghệ thì có mấy anh bộ đội đến chung vui. Quý biết đây là lính của Tỉnh đội bộ, có bí số là  C.210, thường về đóng quân ở xóm Mộ, làng Thượng Phước. Quý liền cất ngay tiếng hò:

              Ai về nhắn với Hai trăm mười (210)

             Mau lên Thượng Phước kẻo có người đợi trông.

             Trong nhóm bộ đội đó có anh Hà, người có dáng thư sinh, hò đáp:

              Nghe tên o Quý đã lâu

              Nay eng mới chộ muốn trao câu ân tình.

 

          Quý đỏ mặt xấu hổ. Không ngờ cái buổi giao duyên ban đầu ấy đã trở thành duyên nợ giữa hai người. Sau cái lụt năm Thìn (1952) họ làm lễ cưới.

          Trời chạng vạng tối. Càng gần Tết, trời Quảng Trị dường như lạnh hơn. Tổ hò địch vận có ba người. Hai tay súng và O Quý được lệnh chuẩn bị lên đường. Bốt Cầu Bàu Vịt nằm trên đoạn đường sắt và quốc lộ 1 chạy qua làng Nhan Biều, được chọn cho buổi hò hôm nay.

          Không biết từ ngàn xưa đến nay có cuộc chiến tranh nào trên trái đất này đã có chuyện đem điệu hò quê hương rót vào tai kẻ địch để khuyên chúng tỉnh ngộ, trở lại với cội nguồn dân tộc? Thế mà ở ta lại có chuyện đó. Đây có lẽ là một “binh chủng” hết sức độc đáo, hết sức đặc biệt. Nên chăng giành cho loại hình này một chỗ đứng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.

          Vũ khí chính ra trận đêm nay của tổ hò là một cái loa tay. Loa làm bằng sắt tây, đầu nhỏ có gắn miếng tôn loe ra, vừa đủ cho người sử dụng ghé miệng vào nói hoặc hò, ở giữa có tay cầm và phần cuối loa rộng ra, đường kính vừa bằng cái đọi canh to. Viết đến đây, tôi lại nghĩ và lấy làm tiếc, giá như hồi đó có cái máy cát-xét, thi ta cứ hò vào đó, thu băng xong, đêm về đem đặt ở một chỗ xuôi gió, bấm máy, hò vào tai kẻ địch thì đỡ hy sinh biết mấy! Tổ hò địch vận chúng tôi có hai khẩu súng mà một khẩu là loại mút-cờ-tông từ thời đệ nhất thế chiến, mỗi lần bắn súng giật ê cả và một khẩu súng trường Nga dài lêu nghêu, bắn từng phát một, bốn trái lựu đạn, hai dao găm, hai cái cuốc nhỏ (thực ra đây là cái chét chuyên dùng làm cỏ lúa vãi), hai cái xẻng quân dụng của Pháp (chiến lợi phẩm của du kích Triệu Sơn giật bom giết bọn giặc đi càn ở đầu làng Thượng Phước). Những dụng cụ này dùng để đào hố vừa đủ cho mấy người ngồi để tránh đạn trong bốt bắn ra. Ngoài những thứ vũ khí ấy, họ còn thêm một thứ nữa mà kẻ thù không sao có được. Đó là ngọn lửa cách mạng hừng hực cháy trong những trái tim thanh xuân của họ. Kể cũng lạ, hồi đó chúng tôi đi vào cuộc thử lửa để giành lại độc lập cho Tổ quốc sao mà thanh thản, vô tư và nhiệt thành đến thế!

          Để bảo đảm cho tổ hò địch vận, ngay từ chiều lúc vừa chạng vạng, tổ cảnh giới, gồm có Dượng Phụ, tôi và Bùi Hữu Tưởng, đã đến trước vị trí để nắm tình hình, theo dõi xem bọn địch có rải quân phục kích xung quanh bốt hay không. Nhớ lại hôm đi hò đầu tiên, chính bọn địch cũng ngỡ ngàng phút chốc khi nghe tiếng hò cất lên. Nhưng đến lúc chúng nhận ra, trong những câu hò đó là lời kêu gọi của Việt Minh thì chúng bắn xối xả như vãi đạn. Cũng may là bên ta có sự chuẩn bị hầm hố chu đáo nên không hề hấn gì. Lúc đầu Quý cũng thấy sợ và giọng hò lạc đi trong tiếng vèo vèo đạn xé về phía mình. Mãi những lần hò sau rồi quen dần. Giặc bắn cứ bắn, ta hò cứ hò.  O Quý buộc chặt lại chiếc khăn len quàng cổ. Giọng O lại cất lên:

        -    Ơ hờ! Anh ơi, mau mau quay súng trở về

              Đồng bào đang đợi, vợ ở quê đang chờ

        -     Súng trong tay, anh bắn giặc Tây

              Về đây cứu nước đêm ngày em mong.

 

          Một loạt đạn bay ra. Đèn pha quét loang loáng. Chờ im tiếng súng O Quý lại hò:

-        Ơ hờ! Mau về với chính nghĩa anh ơi!

                Khỏi làm bia miệng cho đời cười chê.

          Lần này thì bọn giặc trong bốt không bắn ra nữa. Chúng còn gọi vọng ra: Hò nữa đi!

          Khi tiếng súng lặng im là lúc tiếng hò chiếm ngự trời đêm. Tiếng hò cao vút lên tận không trung. Các vì sao xao xuyến lung linh. Tiếng hò như những lời nhắn gửi của quê hương, làng mạc đối với những đứa con lầm đường lạc lối. Tiếng hò có sức bay xa, lan tỏa trong đêm đối với bà con trong vùng địch tạm chiếm, đem đến cho họ niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến trường kỳ. Tiếng hò như đọng lại trên từng nhánh lá, cành cây, ngọn cỏ và đi vào lòng người. Đã có nhiều anh lính ngụy vác súng quay về với kháng chiến, với quê hương.

          Đêm nay, không biết là đêm thứ bao nhiêu Quý cùng đồng đội đi hò địch vận. Lính trong những đồn bốt giặc đóng từ cầu ga Quảng Trị ra đến Đông Hà đều được nghe giọng hò da diết của Quý.

Năm Con Rắn (Quý Tỵ) sắp đi qua và năm Con Ngựa (Giáp Ngọ - 1954) sắp về. Càng gần thắng lợi càng dày gian nan! Chiến trường Đông Dương như một lò lửa đã đến hồi sắp tàn. Bọn Pháp dồn quân tướng ra lòng chảo Điện Biên Phủ. Ở Quảng Trị, những cuộc càn quét, bắn phá của chúng thưa thớt hơn. Chúng đang co cụm và bên ta thì tăng cường những trận tập kích vào hệ thống phòng thủ của chúng, tích cực quấy rối địch, trong đó có một mũi: hò địch vận. Hò địch vận đã phát triển thành một phong trào rộng lớn, có bài bản. Bất kỳ nơi nào trên đất Quảng Trị có đồn bốt giặc là nơi đó có giọng hò địch vận được cất lên. Những bài (hay câu) hò được sáng tác và in thành những cuốn sách nhỏ do Ty Thông tin – Tuyên truyền tỉnh ấn hành. Tổ hò địch vận còn sử dụng cả những câu hò được đăng trên tờ báo Dân (cơ quan của Tỉnh Đảng bộ Quảng Trị), những bài hò đăng trên báo Cứu Quốc Liên khu 4. Cũng có khi sử dụng những bài hò của anh chị em trong chi đoàn sáng tác, mà phần lớn là của tôi.

           Bốt Ái Tử đêm nay tăng cường thêm nhiều đèn pha. Ánh sáng ma quái của chúng liên tục quét đi quét lại, tưởng chừng một con chuột cũng không thoát được sự kiểm soát của chúng. Giặc đang lồng lộn điên cuồng của thời kỳ dãy chết. Tổ của O Quý được ém sau một động cát. Cái thứ cát mịn như nhung và trắng tựa bông đang ấp ủ những đứa con vì độc lập của Tổ quốc mà không quản ngại gian khổ, hy sinh. Gió lạnh nhè nhẹ thổi. Sắp Tết rồi, đất trời như có sự chuyển mình, giao thoa. Một cây mai vàng đơn độc bên hàng rào nhà ai đã ra hoa và tỏa ngát hương thơm man mác đến tận chỗ anh chị em đang nằm đợi đêm xuống để bắt đầu vào cuộc.

-        Ơ hờ! Mau về chính nghĩa anh ơi

                Khỏi làm bia miệng cho đời cười chê

 

              Mới chỉ có một câu hò vừa dứt thì từng loạt đạn liên thanh nhằm vào nơi có giọng hò bắn xối xả như mưa. Chúng còn dùng cả súng phóng lựu, cả đại liên bắn tới tấp. Chiếc loa tay thủng lỗ chỗ. Các tay súng bên ta nổ súng đáp lại và yêu cầu Tổ O Quý rút lui. Pháo sáng sáng rực một góc trời. O Quý bò ra được một đoạn, vào cái nơi trống trải mà một bên là đường sắt, một bên là đường số 1 thì một quả đạn pháo của địch nổ. Mảnh đạn quái ác của giặc đã cướp đi sinh mạng người con gái quê tôi đang độ tuổi thanh xuân, cướp đi của Quảng Trị một giọng hò mà nếu Quý còn sống thì có thể sánh cùng các nghệ sĩ Châu Loan, Hồng Lê sau này.

              O Quý hy sinh để lại biết bao thương tiếc cho chi đoàn Thanh niên Cứu quốc, cho gia đình, họ mạc, xóm làng quê hương. Anh Hà chồng o Quý mải cho tới Hiệp định Genève được ký kết 3 tháng, mới được tin vợ hy sinh. Những năm tháng ác liệt đó anh theo Trung đoàn 95 đi khắp chiến trường Bình Trị Thiên, Hạ Lào. Và đầu năm 1954, anh có mặt ở chiến trường Điện Biên Phủ.

           Đứng bờ bắc sông Hiền Lương, anh gửi theo gió lời cầu nguyện về linh hồn một người con gái Thượng Phước chưa từng được làm mẹ một ngày:

             Sống anh hùng, chết vẻ vang.                                                

     

 

 

 

 

 

 

              Câu chuyện thứ 14. Quê Mạ tôi còn có cả beo.

              Vùng duyên sơn đây không chỉ có cọp mà còn có beo, dân gian thường gắn hai chữ cọp beo đi với nhau như trong một bài hát thời chống Mỹ sau này đã có câu hát: “Bọn giặc Mỹ cọp beo”. Beo chính là loại báo (Panthera Pardus, họ Mèo Felidea). Loài này biết trèo cây và không bắt người.

              Tôi còn nhớ cả nhà cậu Diêu Khuê đang trải nống ăn cơm tối giữa sân. Con chó mực nằm chực phía sau. Bỗng nghe một tiếng “ắng”, thế là con chó đã bị beo ngoạm chạy vô Lùm Miệu. Beo rất thích ăn thịt heo. Nhà ông Thanh bên Xóm Mộ có nuôi bốn con heo, loại heo nhỏ mà người Bắc gọi là lợn ỷ. Hồi đó ít có heo ngoại lai. Mỗi con nặng khoảng hơn chục ký. Hôm thứ nhất, beo vào tận chuồng quắp đi một con. Hôm thứ hai, “quen mui bén mùi ăn mãi”, beo lại vào quắp con thứ hai. Ông Thanh tức quá, bèn đêm thứ ba, ông cầm cái baionnette (lưỡi lê cắm lên súng trường mousqueton) ra sau nương, ngồi rình ở lối đi vào chuồng heo. Khoảng trăng lên độ hai con sào thì một chú beo nhẹ nhàng những bước chân nhung vào chuồng heo, quắp con heo ngậm ở mồm đi ra. Từ trong bụi rậm, ông Thanh lấy hết sức bình sinh thọc lưỡi lê vào cổ con beo. Con beo nhả con heo ra và mang luôn cái lưỡi lê còn dính ở cổ chạy vào đôộng. Ngày hôm sau, ông Thanh lần theo vết máu, tìm hướng con beo đi và thấy nó nằm chết cách nhà khoảng một cây số.

             Beo rất khôn. Đến tối mọi nhà đều nhốt chó vào trong, không cho chạy nhảy ra ngoài. Nhà ông Thới sau Lùm Miệu, (sau này ông Thới lên chiến khu Ba Lòng và tham gia cách mạng bị giặc bắt đày ra Côn Đảo và ông được trao trả tù binh năm 1973). Vách nhà ông Thới thưng bằng lá tranh, cũng kín, có một chú beo tối đến thò đuôi vào nhà ngoáy ngoáy làm con chó tức máu ngoặm vào đuôi beo và beo nhanh chóng rút đuôi ra, đang còn dính mồm chó, vì tranh mềm nên beo lôi tuột chó ra ngoài. Thế là chỉ một cái ngoạm, con chó đã bị beo tha đi mất.

 

              Nói thêm vài loài thú quê Mạ Phường Sãi.

              Vùng này thỉnh thoảng có đàn sói con do một con thầy làng (sài lang) chỉ huy. Sài Lang là danh từ mà dân ta thường dùng để chỉ bọn Tây Dương Phú-Lang-Sa (France) sau khi Pháp chiếm Việt Nam. Bọn sói lang này rất khôn, chuyên lùng bắt heo rừng. Khi chúng phát hiện nơi ẩn nấp của heo rừng thì con thầy làng ngồi rình một chỗ - nơi heo có thể chạy ra - nó đái cho ướt cành lá để khi heo chui ra thì vấp phải bị cay mắt. Có người nói nước đái thầy làng làm mù mắt (?). Còn đàn sói thì bủa quanh lùm cây sủa ầm ĩ, khép chặt vòng vây theo hướng đuổi con heo đi lối thầy làng ngồi chờ. Heo bị mất phương hướng đang ngơ ngác thì thầy làng nhảy phóc lên lưng, hai chân trước bấu vào hai mắt con heo. Và dù có vũng vẫy cỡ nào thì trước sau heo cũng bị quỵ. Cả bầy được một bữa no nê, thường thì chúng thích ăn bộ đồ lòng. Sau khi ăn uống xong, con thầy làng hú lên một tiếng rất dài. Rồi cả đàn bỏ đi khu rừng khác. Người dân ở đây rất kiêng gặp bọn sói lang này. Không may cho ai đó nhìn thấy chúng đang ăn mồi mà đuổi chúng đi thì ngay tối hôm đó chúng về tận nơi ở của người đó, lùng bắt heo nhà (?). Người ta cho rằng tiếng hú của thầy làng là tiếng gọi cho người đến lấy phần thịt của con mồi mà chúng bỏ lại.

               Hồi khởi nghĩa Tháng Tám mới thành công, bọn thiếu nhi chúng tôi được các nhà cách mạng đàn anh giải thích hai chữ “Hy sinh” xuất phát từ chữ “Muông hi” là con sói, và “Muông sinh” là con thầy làng. Không biết có chính xác hay không, nhưng đúng là khi chúng đã thấy con mồi, thường là heo rừng và mang, nai to gấp chục lần, chúng cũng lăn xả vào, quyết hạ cho được đối thủ, có thể là phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng. “Mãnh hổ nan quần hồ” là thế. Trong thực tế, chúng tôi chưa hề được nhìn thấy lũ sói lang này mà chỉ nghe các cụ già trong làng kể lại mà thôi, nhưng tuổi ngây thơ thì rất tin. Sói con cũng được mệnh danh cho các đội viên Đội Hướng đạo sinh. Còn con thầy làng thì có phải là con chó sói to gần bằng chó bẹc-giê hay không. Hai giống này đến nay gần như tuyệt chủng ở Việt Nam.

           Thú rừng còn có một loại nữa mà dân làng thường rất kiêng (do trình độ dân trí còn thấp), rất sợ chúng lạc về làng dù nó rất hiền lành, chỉ ăn cỏ và lá cây. Đó là con mang (còn gọi là hoẵng, mễn), một loài móng guốc, họ hươu, thân nhỏ con như sơn dương, thịt rất ngon. Dân làng sợ vì câu nói lái này: “Mang lạc thì mạt làng”, tức là làng sẽ bị mất đi một phần dân làng, hoặc chết hoặc phải đi nơi khác tha phương cầu thực! Nơi cư trú của chúng là ở trong độông, trong hác sâu, nếu lạc về làng thì để nó tự động trở vào núi, tuyệt đối không ai được xua đuổi hoặc săn bắn. Đây là lệ làng nhưng rất khắt khe.

        Núi, độộng, trảng, hác ở vùng này có rất nhiều loại thú rừng: chồn các loại từ cầy hương, còn gọi là chồn xạ hương, mùi bìu nó rất thơm; chồn đèn, chồn bạc má, nhím, cu lúi (một loại họ chuột có tên chuột nhũi), rái cá, trút (tê tê), kỳ đà, mèo rừng, thỏ rừng, khỉ đười ươi… Ở Lùm Miệu trên còn có cả trăn núi, thân to như cột nhà rường, có con dài hơn chục mét.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 15.  Gốc tích cái tên Phường Sãi và o bán bánh

Chữ “phường” này khác với chữ “phường” là một đơn vị hành chính hiện nay. , mà là một danh xưng bởi những người cùng làng ở miệt đồng bằng hoặc duyên sơn thiếu đất canh tác nên đến một nơi khác, thường là ở miền sơn cước, để khai hoang như phường Sãi của làng Xuân An, phường Nại Cửu của làng Nại Cửu. Chữ phường này là chỉ địa danh, nhưng cũng có chữ phường để chỉ nghề như phường hát, phường chèo, phường cấy, phường săn

Ở Quảng Trị có 3 địa danh mang chữ Sãi. Đó là Chợ Sãi, đối diện làng Xuân Yên phía bờ bắc sông Thạch Hãn. Đó là chiếc cầu bắc qua sông đào Vĩnh Định, trên tỉnh lộ 64 từ thị xã Quảng Trị ra biển Cửa Việt. Ngày nay, người ta đã đổi tên cầu Sãi thành cầu An Tiêm. Và một nữa là Phường Sãi thuộc làng Xuân Yên (An), cò tên chữ là Xuân Sơn.Chữ Xuân lấy từ gốc làng Xuân An, chữ Sơn nghĩa là núi. Xuân Sơn chỉ dùng trên giấy tờ, văn bản, đơn từ ít người biết tới. Còn chữ Phường Sãi là để tưởng nhớ đến Chúa Sãi, người đã có công lớn mở rộng xã tắc Đàng Trong.Và là người đã đưa Cụ Hiền Tổ Khảo Nguyễn Văn Cơ từ Nghệ An vào Quảng Trị. Phường Sãi chỉ có mấy hộ gia đình, kể từ đời Cụ Cố Nghi Nguyễn Văn Cơ định cư (đời thứ 9), đến đời hậu duệ thứ 17, tổng cộng được 9 đời.

         O bán bánh và cục đá.

         Giữa làng Thượng Phước - một cái làng sầm uất, có đến hàng chục nhà ngói gỗ mít có chiều dài hàng chục cây số từ cuối làng An Đôn lên đến Trấm lại mọc lên cái ấp Xuân Sơn gồm mấy gia đình họ Nguyễn Văn từ Đông Bích vào. Mọi sinh hoạt đều phụ thuộc vào bộ máy hành chính của làng Xuân An.

           Tương truyền rằng “Có một o bán bánh xinh đẹp vốn người làng Xuân An mở ngôi quán gần Lùm Miệu *, bán bánh bột lọc bọc tôm thịt, bánh quai vạc làm bằng bột củ sắn. Sáng sáng có ông thổ hào, người làng Thượng Phước (làng Thượng Phước có cùng một ông tổ là người ở Bắc vào Quảng Trị và chia thành 3 làng mang chữ Thượng gồm có làng Thượng Phước, làng Thượng Nghĩa và làng Thượng Trạch, (Thượng Trạch là quê của nhà văn quân đội Trần Công Tấn) đến ăn quà sáng và say sưa ngắm nhìn o hàng bánh, mơ được làm chồng. Ông ta quên cả ghi sổ nợ. Đến khi không sao tìm ra số nợ o bán bánh thì ông thương thảo với o rằng: “Chừ o ôm cục đá (có người kể là cối đá nhỏ) đi từ đây, nơi có quán bánh và sau này là địa giới giữa làng Thượng Phước với ấp Xuân Sơn, khi mô mỏi không ôm được đá nữa, bỏ xuống nơi mô thì là đất của ta trả nợ o đó! O thuận ý, xóc lại quần lưng vận, hồi đó chưa có quần giải rút hay dây thun như bây giờ. O ôm đá bước đi trước, ông thổ hào bước theo sau. Oái ăm là ông này có tính hài hước, luôn mồm kể chuyện vui, hoặc là cố ý chọc cười để cục đá mau rớt xuống. Đến đoạn chuyện vui quá, o bán bánh cười ngặt nghẽo, thót cả bụng, quần lưng vận tuột ra. O vội vứt đá xuống để giữ quần. Ông thổ hào la lên: “Đó. Đó, đó đất của o đến đó thôi nghe…”

              Từ cây mương cổ thụ, thân cây có  nhiều hốc - chim gõ kiến, chim cà cưỡng, tu hú…, thường chui vào làm tổ, là địa đầu của Phường Sãi - đến cây ươi Cồn Quả, nơi cục đá O bán bánh buông rơi là đất của ấp Xuân Sơn, Phường Sãi. Giờ nơi đây là dàn cột điện đường dây 500 kv chạy qua.

    _________________ 

(*) Lùm Miệu: một khu rừng nguyên sinh nhỏ, trong đó có xây miếu thờ thần? Thờ thần nào, đến bây giờ khi các cụ đã mất, con cháu đời sau không rõ. Và hiện nay đã xây lên ở đó một ngôi nhà thờ tộc Nguyễn. Có lẽ sau này O bán bánh được tôn là Thành Hoàng và thờ ở Lùm Miệu chăng?

Dị bản. Theo Hồi ký của Trần Đức Long thì Phường Sãi cũng có nguồn gốc từ o bán bánh làng Xuân An. Chỉ khác câu chuyện của tôi là ông quan chứ không phải là ông thổ hào.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 16. Thanh niên hy vọng tương lai đạo

          Đến khi chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời thì Phường Sãi được sát nhập với thôn Thượng Phước. Mọi sinh hoạt của người dân và các đoàn thế đều được tham gia một cách bình đẳng. Đã hết rồi cái “thời phân biệt ngụ cư”. Người Thượng Phước coi người Phường Sãi bằng nửa con mắt? Cách mạng về xóa đi cái ranh giới giàu nghèo và người ngụ cư.

         Trong ba chiến sĩ cộng sản Tiền khởi nghĩa ở đây gồm các ông Lê Luyện, Bùi Hồng Sa, Nguyễn Minh Tự thì ông Tự là người Phường Sãi, làng Xuân An. Ông Nguyễn Minh Tự là con trai trưởng của Cụ Nguyễn Văn Xuân, cháu đích tôn của Cụ Nguyễn Văn Cảm. Ông tham gia Việt Minh, cướp chính quyền tại phủ Triệu Phong và đi suốt cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, ông được bố trí ở lại miền Nam để tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ ở quê nhà. Khi mất, ông đang giữ chức vụ Chánh văn phòng Khu ủy Miền Tây Trị Thiên.

           Vợ ông Tự, người làng Nhan Biều, nhưng gốc lại là làng Tân Phổ, sinh sống tại phường Tân Phổ, tên là Hồ Thị Thí cũng là một chiến sĩ cách mạng, tham gia khởi nghĩa và xây dựng chính quyền từ những ngày đầu. Họ Hồ có nhiều chiến sĩ cộng sản hoạt động thời kỳ bí mật. Bà Hồ Thị Thí sau này sống với con gái Nguyễn Thị Minh Hiền tại Huế (đã mất).

                Người con thứ hai của Cụ Nguyễn Văn Xuân tên là Nguyễn Tính, sau đổi thành Nguyễn Chẩm được ông Bùi Hồng Sa, dìu dắt vào nhóm Thiếu niên Cách mạng.

               Ông Bùi Hồng Sa muốn lấy ý tưởng của tổ chức Hướng Đạo Sinh –một tổ chức do Huân tước R.B. Powell sáng lập năm 1907 ở Anh. Ngày 7 tháng 2 năm 1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho phép Hội này hoạt động theo quy định mới. Ngày 31-5-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận làm Hội trưởng danh dự Hội Hướng Đạo Việt Nam.    

                Nhóm Tương lai đạo này tuổi từ 15 -16 và được huấn luyện làm các việc nhỏ như tuyên truyền phổ biến chủ trương của Việt Minh, canh gác cho các cuộc họp, học hát, học ngâm thơ, độc tấu, học võ, biểu diễn văn nghệ, trang trí địa điểm bầu cử và cổ động cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa I (tháng 1 năm 1946).

              Nhóm này có các ông Lê Hoa, Lê Ngọc Quỳnh, Trần Văn Hối, Nguyễn Chẩm, Trần Trọng Tư, Lê Ngọc Bích và Trần Đức Đệ và được ông Bùi Hồng Sa đặt tên theo lời một bài diễn ca yêu nước thời bấy giờ. Câu ca đó như sau: “Thanh niên hy vọng tương lai/ Đạo làm trai gánh nặng hai vai…”

              Nhóm Tương lai đạo này có bảy người được đặt tên theo 7 chữ: Thanh niên hy vọng tương lai đạo. Thanh là mật danh của Lê Hoa, sau này là đại tá, bí thư riêng của Đại tướng Văn Tiến Dũng.Niên là mật danh của Lê Ngọc Quỳnh, sau này là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp). Hy là mật danh của Trần Văn Hối, sau này là nhà giáo, giáo sư Chủ nhiệm Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Vinh trong những năm chống Mỹ và khi nước nhà thống nhất ông được điều về giảng dạy ở Đại học Sư phạm Huế, hiện còn sống ở cùng vợ con tại thành phố Huế. Vọng là mật danh của Nguyễn Chẩm, ( vừa mất năm 2018)  sau này là kỹ sư lâm nghiệp. Ông đã từng là giảng viên Trường Trung cấp Lâm nghiệp Nghệ An và sau này về công tác ở Sở Lâm nghiệp Lâm Đồng, hiện sống cùng vợ con tại thành phố Biên Hòa. Tương là mật danh của Trần Trọng Tư, ( đã mất)  sau này là cán bộ Cục Điện ảnh, sống cùng vợ con tại thành phố Hải Dương. Lai là mật danh của Lê Ngọc Bích, sau này là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện sinh sống tại Hà Nội. Đạo là mật danh của Trần Đức Đệ, đã nghỉ hưu và mới mất tại Hà Nội.

    Những thiếu niên đó, sau này đều trưởng thành và có nhiều đóng góp cho cách mạng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

    Câu chuyện thứ 17. Hai người đàn bà kỳ lạ của làng Thượng Phước

              Chuyến đi lần này, lúc đầu tôi chỉ định viết về Lễ hội làng Thượng Phước – Lễ hội săn bắt thú rừng truyền thống để nhớ về Ngài Tiền khai Võ Nguyên Hùng Dõng tặng Hùng Quốc Công – người đã có công truyền nghề săn bắt thú rừng để bảo vệ mùa màng, thể hiện sức mạnh đoàn kết của cộng đồng. Tương truyền Ngài là vị tướng võ nghệ cao cường, một người thân tín của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Khi Nguyễn Hoàng vào Nam, Ngài đã cầm quân dẹp giặc và lập được nhiều công lớn. Do có nhiều chiến tích trong trận mạc nên Ngài đã được Chúa ban tặng cho khai khẩn vùng đất bên sông Thạch Hãn, tạo ra làng Thượng Phước quanh năm phù sa màu mỡ bãi bồi.

              Nhưng khi bắt tay vào viết thì ký ức tràn về như một dòng thác.Vì nơi đây đã để lại trong tâm khảm tôi một thời thơ ấu mà mãi mãi không bao giờ mờ phai. Do vậy, KÝ ỨC VỀ MỘT LÀNG QUÊ YÊN Ả ra đời đề nhớ về quê Mẹ.

1. Mụ Thơ tiên đao.

          Làng Thượng Phước có Lễ hội săn bắt thú rừng, Lễ hội kết hợp với ngày kỵ của Ngài khai khẩn vào ngày rằm tháng ba âm lịch hàng năm (còn gọi là ngày Việc làng). Trước đây, ông tổ làng là người miền ngoài được chúa Nguyễn cho theo vào để khai khẩn vùng Thuận Quảng. Ông chia 3 anh em về ba nơi và đặt các nơi ấy mang tên làng là Thượng Phứớc, Thượng Nghĩa và Thượng Trạch. Đã có hương ước định lệ: Các làng thay nhau làm Lễ Giỗ Ngài Khai khẩn.

              Trước kia thì tôi không biết. Sau 1945, Thượng Phước không có Phường Săn thú rừng. Chỉ có vài người làm bẫy bắt chim cu đất, cu gáy, bìm bịp, cuốc nghịch, gà rừng… Mà người say mê nhất là Cụ Bộ Hinh, cha của Trần Đức Long – bạn học của tôi, từ khi cỏn học ở bậc tiểu học.

              Một hôm có chú heo độc về thôốc, trước nhà Trần Đức Long ở Cồn Tàu.  Dân làng báo cho Phường săn Như Lệ.

              Thôn Như Lệ bên kia sông Thạch Hãn có một phường săn của ông Đoàn Nồng. Thỉnh thoảng phường săn này lội sông đem theo lưới, chó săn, giáo mác và người sang săn thú bên này. Bọn trẻ chúng tôi thường chạy theo để coi họ săn. Lưới được kéo căng ra và cắm xuống khá vững chãi ở đầu truông. Đoàn người bắt đầu xua đàn chó sục sạo vào các lùm cây. Người thì cầm chiếc gậy dài đập vào bụi cây và miệng thì hô huơ là huơ là huơ. Con thú bí lối chạy theo hướng có chiếc lưới săn chờ sẵn. Cùng đường, con thú tuông vào lưới, lưới sập xuống, thú mắc lưới.

          Việc đầu tiên là người được phân công đâm lưỡi giáo nhọn để hạ sát con thú. Lưỡi giáo chọc thẳng vào phần mềm dưới nách con thú. Người làm việc này được gọi là “tiên đao” và khi chia thịt thì được hưởng cái nọng. Con thịt được mổ ngay tại chỗ. Những loài thú thường bị săn bắt nhiều nhất là heo rừng, mang (còn gọi là mển hay hoẵng). Cũng có lúc những con chồn đèn, chồn bạc má, chồn hương dính lưới. Người phường săn được chia phần. Bọn trẻ “a dua” chúng tôi cũng được ông chủ phường săn cho phần thịt nho nhỏ, gọi là…

          Chẳng hiểu vì lý do gì mà mỗi lần các phường săn, săn được thú thì Mụ Thơ, người làng Thượng Phước được phường săn biếu cho cái đầu (thủ), cho nên mới có danh xưng tặng cho là Mụ Thơ tiên đao.

           Trích Hồi ký Trần Đức Long: “... Ngôi nhà Ông nội tôi ở hồi đó là Ông nội tôi mua lại của Mụ Thơ. Mụ Thơ là người giàu có trong làng. Không biết vì lý do gì mà bị sạt nghệp. Mụ phải bán hết nhà cửa, ruộng đất, trâu bò, …v.v. để trả nợ. Nghe nói là vì thua bạc?

            Đây là, ngôi nhà rường 3 gian, 2 chái, cột kèo toàn gỗ gõ (gụ), mái ngói, tường bao bằng ván gỗ, nền bằng vôi vữa trộn cát và chất kết dính. Mặt nền láng bóng, vững chắc. Các đòn tay và các cửa phía trước đều được chạm trổ tinh vi. Gian giữa, phía trong là nơi thờ cúng. Đây cũng là nơi thờ cúng của Dánh* Trần Đức. Phía ngoài là nơi tiếp khách, đặt 2 bộ bàn ghế cũng bằng gỗ gụ, chạm trổ rất đẹp theo lối cổ. Các bộ ấm chén pha trà bằng sứ của Tàu (sứ Giang Tây). Tôi thấy có cả bộ pha cà phê và bộ ly thủy tinh để uống rượu. Một vài lần, tôi thấy cha tôi tiếp khách bằng rượu rum và rượu chát.”

2. Mụ Tản nói nhịu.

           Giờ đây, thì cả Mụ Thơ lẫn Mụ Tản không còn dấu tích nào nữa ở làng Thượng Phước. Mụ Thơ tiên đao thì biệt vô âm tín cả gia đình và dòng họ. Riêng Mụ Tản thì sau năm 1945, Mụ còn sống và thường được mấy ông xồn xồn trong làng hay chọc ghẹo Mụ để mua vui. Mỗi lần, gặp Mụ Tản đi chợ tỉnh về. Ông Pho Tịnh hỏi Mụ mua được gì, Mụ lôi trong thúng ra nào muối, nào ruốc, nào diêm, nào đá lửa…Đang nói nửa chừng, Mụ nói luôn câu: Lồ… mụ đây nì.! Rồi Mụ lại tiếp tục trả lời ông Pho Tịnh, đủ các thứ chuyện linh tinh khác. Sau khi quảy gánh lên vai và chào ông Pho Tịnh, Mụ Tản lại nói: Lồ…mụ đây nì.!

           Ngày 17 tháng 2 năm 1947, giặc Pháp nống ra Quảng Trị. Khi Pháp tái chiếm Quảng Trị, thôn Thượng Phước là vùng tự do. Mụ Tản được phép của Thôn đội trưởng Lê Trường Ngư, cho phép Mụ đi chợ Tỉnh (vùng tạm bị địch chiếm) để mua các thứ. Trong đó, có nhiều nhất là muối, ruốc, đá lửa (Đá lửa dùng cho hộp quẹt bật lửa mà dân Quảng Trị thường gọi là máy lửa)…Có những thứ hàng Mụ Tản mua để tiếp tế cho cán bộ ta.

           Qua bốt Cầu Ga, mấy chú lính bảo hoàng (ta thường gọi là lính ngụy) chặn Mụ đi chợ về. Chúng lục soát rất gắt gao. Xong việc, chúng cho Mụ đi. Mụ lịch sự chào và tiếp câu nói nhịu thường ngày. Mụ bảo: Chào các vị, rồi mụ tiếp luôn: Lồ...mụ đây nì.! Mấy chú lính ngơ ngác hỏi lại Mụ nói cấy chi? Mụ trả lời: Có chi mô nờ. Rồi Mụ lại nói: Lồ... mụ đây nì!.

Tôi không hiểu đã có vị giáo sư, tiến sĩ nào nghiên cứu về tật nói nhịu ở Việt Nam hay chưa? Nếu giải trình được thì sẽ tặng cho vị đó cái thêm cái bằng tiền sĩ nữa! Theo tôi, tật nói nhịu xưa nay là: câu người đang nói không ăn nhập gì với câu nói nhịu cả. Hai mệnh đề trong câu người đang nói và câu nói nhịu riêng biệt, chẳng dính dáng gì đến nhau. Như trường hợp của Mụ Tản làng Thượng Phước?

Vừa rồi đây, trên Đài Truyền hình Việt Nam có một biện tập viên đang nói về những người bán hàng rong là Ký sinh trùng. Mạng xã hội dậy song đòi VTV phải xin lỗi. Trong kịch bản, theo như Đài VTV phân trần là không có từ “trùng”, nhưng MC nói thêm vào, thành ra “những người bán hàng rong là ký sinh trùng”. Cả MC lẫn cô Thu Hương (người đại diện VTV )thanh minh, đều nói là vì nói nhịu. Theo thiển nghĩ của cá nhân tôi. Đây không phải là tật nói nhịu như Mụ Tản làng Thượng Phước, mà nói theo quán tính. Đã nói đến ký sinh, tất luôn mồm nói thêm chữ trủng thành ký sinh trùng luôn, cùng một mệnh đề?

Nói nhịu khác vời nói ngọng. Có một số tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ có tật nói ngọng. Mà phổ biến nhất là phát ngôn từ e-lờ (L) ra en-nờ 👎, hoặc ngược lại. Thí dụ: Tôi đi Hà Lội mua cái lồi về lấu cơm lếp. Có một vị có hàm bộ trưởng hẳn hoi. Nhiều lúc ông ta nói ngọng đến nỗi bàn dân thiên hạ vừa nực cười, vừa chua chát cay đắng! Họ hỏi vì sao ông ta không gắng nói cho đúng tiếng mẹ đẻ?!

Ở Thanh Hóa, ngày trước, vùng nông thôn có tật phát âm không chính xác. Hồi năm 1954, bộ đội miền Nam chúng tôi tập kết lên Sầm Sơn. Giờ rảnh chúng tôi vào các làng để làm công tác dân vận. Có lần chúng tôi đến một gia đình, thấy nhà không có người lớn mà chỉ có mấy em nhỏ. Tôi hỏi; Nhà đi đâu vắng? Một em chừng chín mười tuổi nhanh nhảu trả lời: Cha tôi đi cần, mẹ tôi đi cấn, anh tôi đi củn, tún mới viền. Lúc này chúng tôi không hiểu các em nói gì. Nhưng sau một thời gian thì chúng tôi mới hiểu ra. Câu trả lời đó là: Cha tôi đi cày, mẹ tôi đi cấy, anh tôi đi củi, tối mới về.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 18. Chúng tôi làm báo 

Lúc này xã Triệu Sơn đã có trường cấp II. Tổ học sinh Thượng Phước gồm có tôi, Trần Đức Long, Trần Đức Dục, Bùi Hữu Tưởng, Trần Trọng Chấm. Lê Ngọc Châu, Trần Thị Hồng. Lại có thêm trò Phan Hiền người làng Nhan Biều, ở trong vùng tạm chiếm của Pháp, gia đình tản cư, ở tại xóm Mộ được ghép vào tổ học sinh Thượng Phước.

 Trường cấp II Triệu Sơn được đặt tại Khe Bội (sau này có tên là Phúc Khê). Đầu niên khóa 1951-1952, thầy Du, người Hà Tĩnh được Sở Giáo dục Khu Bốn điều vào làm hiệu trưởng. Tôi còn nhớ, tiếp theo là thầy Triết. Đến năm 1953 thì thầy Đặng Bá Đệ về làm hiệu trưởng. Thời gian này, ngành giáo dục nước ta đã đi vào thế ổn định. Hệ phổ thông gồm có 9 lớp. Cấp I có 4 lớp (1, 2, 3 và 4), Cấp II có 3 lớp (5, 6 và 7) và cấp III có 2 lớp (8 và 9). Tiếp theo là 2 năm Dự bị đại học, rồi vào đại học. Không có thi lấy bằng như thời Pháp thuộc. Nhà trường căn cứ điểm 2 học kỳ và điểm cuối cấp để xét cho học sinh lên cấp, không như thời Pháp thuộc, hệ thống giáo dục chia làm 3 cấp học. Học 3 năm đầu từ lớp 1 đến lớp 3, gồm lớp 1 là lớp Đồng ấu, lớp 2 là lớp Dự bị, lớp 3 là lớp Sơ đẳng, rồi thi Sơ học yếu lược. Tiếp đến là vào học lớp nhì nhất niên, rồi lên lớp nhì nhị niên. Rồi đến lớp nhất. Cuối cấp này thì thi Primaire. Như thế trong khoảng 6 năm, học trò thời đó đã phải học 6 năm mới tốt nghiệp cấp II. Tiếp theo là 4 năm học lên các lớp: Première année (đệ nhất niên), rồi Deuxième année (đệ nhị niên), Troixième année (đệ tam niên), Quatrième année (đệ tứ niên) rồi đi thi lấy bằng Thành chung, tiếng Tây thì gọi là Diplôme de bachelier (bằng tú tài).

Trường có Hiệu đoàn học sinh, sinh hoạt từng tổ theo địa dư thôn. Hiệu đoàn trường hoạt động theo ngành dọc, có cấp trên là Hiệu đoàn tỉnh Quảng Trị chỉ đạo và lãnh đạo theo tôn chỉ, mục đích chung. Quy chế và kỷ luật của Hiệu đoàn học sinh khá nghiêm và chặt chẽ.

Tôi còn nhớ hè 1953, Hiệu đoàn học sinh cấp II Triệu Sơn chúng tôi ra tờ Đặc san mang tên Ngày Mùa. Khổ tờ đặc san na ná như những tờ báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên ngày nay (28x41cm). Tôi được phân công làm chủ bút. Trần Đức Long và Trần Trọng Chấm làm biên tập. Bài vở thì do các đoàn viên của toàn Hiệu đoàn góp bút. Tôi đã viết một bài xã luận cho Đặc san. Bài này được ông Lê Đình Hiên, phó Trưởng ty Giáo dục tỉnh khen một câu làm tôi rất phấn khởi. Ông xem xong bài xã luận rồi nói: Hồ Chí Minh con! Hồ Chí Minh con!

Khi tập kết ra Hà Nội, ông tham gia vào Hội Nhà văn Việt Nam với bút danh là nhà thơ Tân Trà. Tờ Đặc san Ngày Mùa, in tại “nhà in VIETBANGTAY”, tức là Viết bằng tay, chứ không phải là báo in typo hay offset như sau này. Viết bài thì dùng mực tím hàng ngày, đựng trong cái lọ thường mang theo đến trường. Tờ báo cũng có tranh vẽ nhiều màu: màu vàng là củ nghệ, màu tím là hột mùng tơi chín, màu xanh là lá trầu xanh, màu đỏ và màu xanh nước biển thì dùng cây bút chì xanh đỏ hai đầu (nhờ mua từ trong thị xã). Trần Đức Long còn nhớ bức tranh của đặc san vẽ một người cầm cái dao phay rượt đuổi một người với câu chú thích: “Liệu mà cao chạy xa bay/ Thịt xương chỉ có ngần này mà thôi. Câu lẩy Kiều này vốn dĩ 2 chữ đầu câu 8 là Ái ân. Và Trần Trọng Chấm có bài thơ chân dung nói về Xuân Bảo. Tôi không nhớ và cả Chấm cũng không nhớ toàn bài, chỉ nhớ vài câu “Đôi má phinh phính chứa đầy xã giao”.

Tổ học sinh Thượng Phước hoạt động rất xôm tụ. Mỗi chúng tôi đều được phân công công tác. Nhóm Thông tin - tuyên truyền, nhóm dạy Binh dân học vụ, nhóm Canh gác báo động khi có Tây lên càn. Tôi được phân công vào nhóm Thông tin – tuyên truyền và dạy Bình dân học vụ. Ít lâu sau, dượng Hứa bố trí cho tôi được làm gia sư. Lớp được đặt tại nhà dượng Hứa và học trò là các con của dượng và con ông Trần Đình Thứ, có Kế và Thế. Kế đã hy sinh trong chống Mỹ. Thế hiện sống cùng vợ con, con cháu tại quê nhà và vài đứa nữa. Sau, lớp học này dời vào nhà thôn đội trưởng Lê Văn Ngữ tại xóm Mộ. Ở đây, có thêm 3 học trò nữa là Lê Duy Tính, thường gọi tục danh là Oạc, con ông Ngữ và 2 người con của xã đội trưởng Lê Trường Lữ là Lê Thị Trương và Lê Trường Cầu. Tôi được dạy nửa ngày còn nửa ngày đi học. Gia đình có con học đã cùng nhau góp lúa trả công cho “thầy”. Tôi còn được phân công sáng tác thơ ca, hò vè phục vụ cho Đội Tuyên truyền Địch vận làm nhiệm vụ vận động binh lính ngụy phản chiến. Có một lần, tôi được o Trần Thị Quy, tổ trưởng tổ Địch vận cho đi theo xuống bốt Cầu Bàu Vịt để hò. Du kích đi theo bảo vệ và có nhiệm vụ đào hầm để người hò nấp. O Quy mang theo chiếc loa tay làm bằng thiếc (chế từ thùng sắt tây đựng dầu hỏa). Câu đầu tiên, nói: Hỡi anh em binh lính! Trên chòi cao lô-cốt (hồi này bọn Pháp chưa xây lô-cốt ngầm), chúng bắn một băng tiểu liên vào tổ hò. Chiếc loa bị vài lỗ thủng, nhưng người thì không sao. Chỉ huy ra lệnh rút. Đêm hò này coi như thất bại. Khác với những lần hò trước, lính trong bốt yên lặng lắng nghe. Và sau đó, có một lính mang súng lên chiến khu. Anh ta nói rằng nghe hò thì lòng xốn xang lắm, gợi nhớ đến mẹ già, vợ dại với con thơ và da diết nhớ quê nhà. Sau này, tôi có viết một hồi ức có nhan đề là Nhớ giọng hò o Quý đăng trên tạp chí Văn nghệ Cửa Việt là để nhớ một giọng hò thướt tha, trữ tình của người con gái làng Thượng Phước. Tên o Quy được thêm dấu sắc thành Quý.

Có thể nói tổ học sinh Thượng Phước có nhiều hoạt động xã hội được nhà trường nhiều lần biểu dương và dân làng yêu mến. Tổ phân chia ra nhiều nhóm và hoạt động có hiệu quả, Những học sinh có tuổi đời từ 17, 18 như tôi và Trần Đức Long, Bùi Hữu Tưởng được kết nạp vào Đoàn Thanh niên cứu quốc, tiền thân của Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, sau đổi là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

 Chúng tôi tham gia vào dân quân du kích. Bùi Hữu Tưởng xung phong đi bộ đội. Chừng 6 tháng sau thì Tưởng hy sinh trong trận đánh Chợ Cạn. Năm đó, mặc dù Tưởng mới có 17, 18 tuổi nhưng đã biết yêu. Tưởng viết một cuốn sách nhỏ nói về mối tình đầu với o Vẹ, người con gái họ Trần, có mái tóc quăn rất đep. Mấy đứa chúng tôi được lên lớp 7. Nhưng phải lên trường Lê Thế Hiếu ở Cùa để học.

Tổ học sinh Thượng Phước chỉ có mình tôi được học bổng. Học bổng mỗi suất là 27 ký lúa. Tôi phải lên Trấm (Kho lúa của huyện Triệu Phong) để lĩnh.

Trấm là nơi có bến đò dọc để chở người lên Bơng, lên Chả Cá và chiến khu Ba Lòng. Nhà thơ Lương An có bài thơ Chị lái đò, được đưa vào sách giáo khoa.

“Đò em lên xuống Ba Lòng

Chở người cán bộ qua vùng chiến khu”…

Có một lần, chúng tôi gánh lúa về đến xóm Chuối thì nghe tiếng máy bay. Chúng tôi nhìn thấy một chiếc B26 đang bay theo dọc đường số 1 bỗng nhiên quay ngoắt 90 độ lên Trấm, Chiếc máy bay này chỉ thả bom ở Trấm rồi quay về. Nhưng chẳng có ai thương tích gì.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 19.. Giảm tô, giảm tức ở làng Thượng Phước

Nhân anh Xuân Ba có kể tường tận chuyện bà Cát Hanh Long (tức Nguyễn Thị Năm) bị xử tử hồi năm 1953 thì ở vùng tiền chiến khu Ba Lòng –Quảng Trị đã có chuyện đấu tố. Theo Cụ Trần Đức Long thì ở làng Thượng Phước cũng đã có đấu tố.

Dưới đây là bài viết trong Hồi ký của Cụ Trần Đức Long – người bạn học thời phổ thông và là bạn đồng tuế của tôi.

Theo Hồi ký của Trần Đức Long, có đoạn: … “Vào khoảng cuối năm 1952, đầu 1953 hay cuối năm 1953, đầu 1954, tôi không nhớ rõ. Làng Thượng Phước có tổ chức mấy buổi đấu tố các người giàu có trong làng   (lúc đó làng Thượng Phước chưa có cải cách ruộng đất). Tôi được chứng kiến buổi đấu tố Mụ giáo Trở, (bà là vợ ông giáo Trở, lúc đó ông giáo Trở đã mất).  Bà này là mẹ anh Trần Văn Hối. Anh Hối là cán bộ giảng dạy ở Đại học Sư phạm Vinh, sau về dạy tại Đại học Sư phạm Huế, đã về hưu ở Huế.

Anh là Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, người ngoài Đảng.  Có lần, ông bí thư Đảng ủy trường nói với anh rằng: Đồng chí làm đơn xin vào Đảng đi! Đồng chí ở ngoài Đảng rất khó cho công tác Đảng của trường.(?!).

Buổi đấu tố do anh Tôn (họ Lê) làm chủ tọa.Anh Lê Trường Tôn là cán bộ cốt cán.  Anh Tôn từng là trai cày (thợ cày) của gia đình ông nội tôi.Ai là người chỉ đạo đấu tố thì tôi không rõ Người ta bắt Mụ giáo Trở quỳ xuống đất để mọi người lên đấu tố, tức kể tội ác của Mụ và gia đình ông giáo Trở…Tôi chỉ nhớ có thế thôi, không nhớ ai lên đấu tố và họ đấu tố những gì.

Ngoài Mụ giáo Trở, ông Hương Đồ và ông Hương Y cũng bị đấu tố như trên. Đặc biệt ông Hương Đồ là người có con đi tham gia quân đội từ từ đầu cuộc kháng chiến 9 năm. Trong một buổi nói chuyện với anh Lê Ngọc Châu, con trai ông Hương Đồ - anh kể lại cho tôi nghe chuyện đấu tố đó. Ông Hương Đồ có mấy người con trai đi bộ đội từ đầu kháng chiến 9 năm và một số người con tham gia kháng chiến ở địa phương. Anh Lưu đi bộ đội từ tháng 8 năm 1945, về hưu hàm đại tá ở Sài Gòn (đã mất). Anh Quỳnh đi bộ đội địa phương (Tỉnh đội) từ năm 1946 hay 1947 gì đó. Anh Bích cũng vào công tác ở Văn phòng Tỉnh đội. Anh Lữ tham gia bộ đội địa phương huyện. Chị Yêm tham gia kháng chiến ở xã. Thế mà người ta vẫn đem ra đấu tố. Không hiểu vì sao họ lại đối xử tệ với gia đình ông Hương Đồ như vậy? Một gia đình có nhiều người đi tham gia kháng chiến ngay từ đầu???!!!

Qua chuyện này và qua sách báo nói về cải cách ruộng đất ở miền bắc, tôi có biết bà địa chủ Năm ở Thái Nguyên có con đi bộ đội từ đầu kháng chiến vẫn bị đem ra đấu tố rồi bị xử bắn tại chỗ.

Cuối năm 2015 hay đầu năm 2016, nghe Đài Truyền hình baó tin có cuộc triển lãm về cải cách ruộng đất, tôi chưa kịp đi xem thì nghe nói đã đóng cửa. Không biết ai chủ trương triển lãm CCRĐ là nhằm mục đích gì? Đành rằng CCRĐ có thắng lợi là người cày có ruộng, nhưng đau thương mất mát còn nặng nề và nhiều hơn.

Thời gian công tác ở Vinh - Nghệ An, tôi cũng được cho đi dự các cuộc đấu tố. Cấp trên chỉ thị cho các cơ quan cho cán bộ nghỉ việc để đi dự các cuộc đấu tố để nâng cao lòng căm thù và lập trường giai cấp vô sản…” ( Trích từ trang 103 đến trang 104 bàn thảo Hồi ký Trần Đức Long).

Tác giả, nhà thơ Xuân Bảo không có vinh dự được tham gia đấu tố ở làng nên không biết những sự kiện xảy ra trong thời gian này!

Bài viết này đã tuyển vào tập sách Những chuyện nhỏ làng quê và đã đăng trên Fb của tôi, nay đăng lại.

Bên bờ Phước Long Giang, ngày 22/5/2021.

Nhà thơ Xuân Bảo.

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 20.  Về bài thơ Em nữ cứu thương người Pháp.

          Thời 9 năm, làng ngoại của tôi là miền tiền chiến khu (Chiến khu Ba Lòng). Tuy ở gần đồn bốt của giăc Pháp, nhưng chính quyền vẫn thuộc về cách mạng. Mọi sinh hoạt của các đoàn thể như Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Đội Thiếu nhi Cứu quốc, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Mẹ Chiến sĩ…vẫn diễn ra bình thường. Riêng chi bộ cộng sản thì hoạt động bí mật.

Nhà của Mạ tôi bị Tây đốt đến lần thứ 2. Nhưng như người Quảng Trị thường nói “rộng bụng hơn rộng nhà”, cho nên các ông, các chú trong các cơ quan của tỉnh như Tỉnh đội Dân quân, Ty Thông tin – Tuyên truyền, Ty Giáo dục, Ty Bình dân học vụ…mỗi khi về Thượng Phước đều đóng trong nhà dân.

Nhà Mạ tôi thường được các bác trong Tỉnh Đội bộ Dân quân nghỉ lại. Do đó, tôi được biết bác Hồ Sĩ Thản, Tỉnh đội trưởng Dân quân, cậu Nguyễn Thành Chương, ban Chính trị Tỉnh đội, cậu Lê Thế Diện, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 230, bộ đội đia phương. Sở dĩ tôi gọi cậu Chương, cậu Diện bằng cậu vì Mạ tôi nhận các cậu là em nuôi.

Tôi có người bạn tên Trần Đức Long, học cùng lớp chơi với nhau rất thân. Nhà Long rộng, nên mỗi khi có các chú, các bác về ở lại, chúng tôi được các chú trong Ban Văn nghệ dạy hát, dạy ngâm thơ, độc tấu, nói vè v.v…có khi dạy cả khiêu vũ. Bài hát Xuân chết trong lòng tôi của Hoàng Thi Thơ, chúng tôi đều thuộc và hát rất say sưa.

Thì ra Phúc Khê chính là tên hiệu của tác giả Phúc Khê thi tập, tên thật là Hoàng Hữu Kiệt (1885-1951) tự Châu Thần, đỗ cử nhân năm 1915, đang làm tri huyện, thừa hành trái ý quan trên, bị buộc thôi chức về ở ẩn tại miền sơn cước An Đôn, lập trang trại ở Khe Bội. Ông là em ông nội nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường người làng Bích Khê. Cái làng Bích Khê này có hai dòng họ lớn: họ Đỗ và họ Hoàng. Họ Hoàng thời nào cũng có nhiều người đỗ đạt, làm quan. Làng này là quê hương nữ chiến sĩ cộng sản Hoàng Thị Ái và của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ nổi tiếng một thời. Trong những năm đánh Pháp Hoàng Thi Thơ (tên thật là Hoàng Hữu Ngạnh) được cho ra vùng tự do Thanh – Nghệ – Tĩnh học và công tác. Ở đây chàng trai hào hoa này đã yêu người con gái cùng quê, học cùng trường, con một nhà tư sản dân tộc, một thương nhân lớn tên là Trương Công Huy, người làng Mai Xá, Do Linh, Quảng Trị. Người con gái đó có giọng hát tuyệt vời, khi hát bài Xa Khơi của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ đã làm rung động biết bao trái tim  trong thời chống Mỹ. Đó chính là nghệ sĩ nhân dân Tân Nhân.

Trận Nam Đông, lính Pháp và lính lê dương chết rất nhiều. Nhưng tối đến khi cọp ra “tìm mồi” thì chỉ ăn xác lính bảo hoàng người Việt mà thôi. Người ta đồn rằng chúng chê thịt Tây đen, Tây trắng hôi nên không ăn. Trận này, sau đó nhà thơ Văn Tôn (tức Hải Bằng) viết bài thơ “Em nữ cứu thương người Pháp” và bị đì khá lâu. Bài thơ có câu:

                 …Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ

                    Thấy xác em nằm giữa cỏ tranh…

                    Anh đắp cho em mền trấn thủ

                    Còn đâu nhìn thấy mắt xanh xanh

              Trong một đêm liên hoan mừng thắng trận, tổ chức tại Trấm, người được giới thiệu lên diễn ngâm bài thơ tên là Lê Cháu. Kết thúc bài thơ là những tràng pháo tay rất dài. Ông Lê Bá Vận, trung đoàn trưởng 95 lên sân khấu và có vài câu phát biểu. Ông nói: Em, em cái con c… và bị ông nhận xét là: “Mất lập trường, thương không đúng chỗ, khóc chẳng nhằm nơi”.

               Bài thơ này được đưa ra mổ xẻ tại Hội nghị Văn nghệ 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên năm 1952 tại Cùa (Cam Lộ) do nhà thơ Chế Lan Viên trình bày báo cáo. Phần chủ yếu là qua phân tích một số tác phẩm “Để nâng cao lập trường giai cấp, xác định rõ bạn thù, tăng cường tính chiến đấu trong sáng tác”.

          Bài “Em nữ cứu thương người Pháp” và bài thơ “Người Bố Trạch” của Nguyễn Xuân Hoàng cũng được mang ra phân tích, phê phán, trong đó có những câu:

          Bố Trạch huyện nghèo đất đỏ

          Dưới chân Ba Rền thăm thẳm mịt mờ xanh…

        Tại Hội nghị này, bài hát “Lời người ra đi” của nhạc sĩ Trần Hoàn cũng được đưa ra phân tích và sau đó không thấy xuất hiện nữa. Về bài hát này, lũ trẻ chúng tôi ngày đó cũng nghêu ngao hát và được người huynh trưởng Đội Thiếu niên cứu quốc Lê Ngọc Ngoãn rèn cho một mẻ nên thân.

      

 

 

 

 

 

            Câu chuyện thứ 21. Ôn dịch năm Ất Dậu - 1945

                Cả Phường Sãi và làng Thượng Phước người ta nuôi tới hàng ngàn con bò và trâu, cho nên phải dành ra một con đường cho chúng đi. Chúng được đi riêng, thường gọi là kiệt trâu bò đi. Cái kiệt dành cho trâu bò đi bắt đầu từ đầu đường xe, (đường dùng xe hoặc trâu kéo gỗ từ rừng ra) phía biền Đù Đù đến bến Mè Xèng thì ra bãi cát.

Đoạn sông này, phía bên kia là bên lở có làng Như Lệ thuộc phủ Hải Lăng. Vào trong một đoạn là nhà thờ Công giáo Phước Môn do Ngài Quận công Nguyễn Hữu Bài gầy dựng.

Trâu bò suốt ngày gặm cỏ trong các trảng, hác, độộng được lùa về khi chiều tối. Có cái hay là đến khúc nhà người nào thì đàn bò rẽ xuống sông đoạn đó uống nước, trâu thì đằm tắm thoải mái rồi theo con đường quen thuộc về ràn (chuồng) của mình, không bao giờ lộn đường, nhầm chuồng.

Bãi cát sông Thạch Hãn chạy dài từ Mè Xèng đến Cồn Kết. Chiều về, hàng ngàn con trâu bò chạy rầm rập về chuồng theo kiệt trâu bò đi. Những lúc đó dân Phường Sãi có 2 kiệt xuống rào Thạch Hãn, nhưng không ai dám xuống sông để tắm táp hoặc gánh nước.

 Cái kiệt này cũng đã đi vào lịch sử. Đó là việc dân hai làng Thượng Phước và Như Lệ chặn bắt tên tri phủ Triệu Phong Trần Mậu Trinh trong những ngày đầu khởi nghĩa Tháng Tám. Và cũng tại cái kiệt này, khi Nhật làm đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945), bọn Phú - lang - sa chuồn khỏi thị xã Quảng Trị chạy lên núi thoát thân. Chúng đã chui qua cái kiệt này. Dân làng biết nhưng mặc kệ vì lúc đó phương tiện truyền thông chưa như bây giờ, dân vẫn tưởng còn bọn Pháp cai trị!

 

ĐẠI ÔN DỊCH GIA SÚC

 Năm đói Ất Dậu 1945, đàn trâu của ông mệ bị dịch chết và còn đúng một con trâu và một con bò. Ông đã tước vỏ cây sầu đâu để sắc cho trâu uống, thế mà cũng qua được, khỏi bệnh mới tài! Còn bò thì chết như ngả rạ, chết trong chuồng, chết trên đường, chết trong độộng.

 Con bò duy nhất sống sót được ông bán cho ông Trần Đăng Mai. Ông tôi không muốn bán, vì cả đàn hơn trăm con bị dịch không cứu vãn được, huống hồ…

Bọn trẻ chúng tôi nghe ông Mai nói chuyện với ông tôi từ sáng cho tới gần trưa. Ông ta nói như bẻ lẻ, tức là người nói nhiều, nói dai và rồi cuối cùng ông cũng mua được để về giết thịt? Ông ta làm nghề đồ tể. Sau này con gái của ông tên Trần Thị Lựu lấy em ruột của tôi – Nguyễn Xuân Bổng.

Dòng họ Trần làng Thượng Phước có đến 4 nhánh: Trần Văn, Trần Đức, Trần Đình và Trần Đăng. Chẳng hiểu vì sao các nhánh và họ tộc Trần không cho nhánh Trần Đăng tham gia việc họ??? Nhưng rồi sau 1945 thì người ta lại chung lưng đấu cật để tham gia kháng chiến chống Pháp. Hận thù xưa cũng tan đi theo thời gian!!!

Có lần, tôi được nghe ông ngoại kể. Trong những ngày đêm đại dịch. Ban đêm ông nghe thấy đoàn quân ôn dịch kéo nhau đi trên không trung nghe ầm ầm. Chúng đi đến đâu trâu bò lăn ra chết đến đó.

Không biết chuyện có thật hay không, nhưng những đưa trẻ chúng tôi thì tin, Cho nên khi đêm xuống chúng tôi rất sợ phải ra khỏi nhà!

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 22. Chú Mõ Hồ Văn Ốm.

             Thượng Phúc ( vì kiêng húy chữ Phúc của chúa Nguyễn nên gọi là Thượng Phước. Đây là ngôi làng được chúa Nguyễn Hoàng di dân từ khi Chúa trấn nhậm Đàng Trong vào năm 1558.

Thượng Phước cùng với hai làng Thượng Trạch và Thượng Nghĩa cùng một ông Tổ cho nên cả ba làng đều giỗ chung một ngày là ngày Rằm tháng Ba âm lịch. Lễ hội làng Thượng Phước là lễ hội săn bắt thú rừng truyền thống để nhớ về Ngài Tiền khai Võ Nguyên Hùng Dõng tặng Hùng Quốc Công – người đã có công truyền nghề săn bắt thú rừng để bảo vệ mùa màng, thể hiện sức mạnh đoàn kết của cộng đồng.

             Thượng Phước có nhiều họ tộc: Trần, Lê, Nguyễn, Bùi...Cho đến khi tôi được Ba Mạ cho về quê ngoại Phường Sãi – một phường của làng Xuân Yên lập thành – nằm lọt thỏm giữa làng Thượng Phước.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp thì tôi được biết Thượng Phước chỉ có duy nhất một hộ mang họ Hồ, có tên là Hồ Văn Ốm.

             Chú Hồ Văn Ốm được ông lý trưởng họ Bùi tên là Bùi Hữu Đạt cho làm Mõ hay còn gọi là anh Seo, anh Xâu. Chú Ốm không có nhà ở trong làng mà chỉ được ở bên Xóm Mộ, cũng là đất đai của làng Thượng Phước, nhưng chỉ có đất đôộng, không có ruộng nước và cũng có nhiều dân ngụ cư tới ở?!

             Có lần, tôi chạy theo chú khi chú đi rao việc làng. Tôi còn nhớ chú rao câu này bằng cái loa làm bằng mo nang của tre lồ ồ: Ban đầu chú đánh một hồi mõ dài, rồi sau thêm mấy tiếng cóc,cóc cóc rồi chú kề miệng vào đầu nhỏ của cái loa và rao: Loa, loa, loa ! Nghe đây nghe đây ! Ới dân làng côi xóm đưới ! Ới quan viên, chức sắc: Túi ni ra đình để nghe quan phủ về chỉ dụ!

             Tôi thấy cái mỏ cong cong như cái sừng trâu. Tôi tò mò hỏi chú: cái mỏ ni làm bằng cấy chi? Chú nói rằng: Mõ ni mần bằng gộộc tre tra. Nó khác với mõ trâu hay mõ nhà chùa làm bằng gỗ.

             Sau này tôi mới ngộ ra cái bài thơ Vịnh Thằng Mõ của Chủ súy Tao đàn nhị thập bát tú Lê Thánh Tôn:     

này cả tiếng lại dài hơi,

Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi!

Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi,

Kim thanh chuyển động khắp đôi nơi.

Trẻ già chốn chốn đều nghe hiệu,

Làng nước ai ai cũng cứ lời.

Thứ bậc dưới trên quyền cắt đặt,

Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi.

 

Theo sách Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng của Nha Học chính Đông Pháp đã giao cho các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc.Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận biên soạn.

 Phần giải nghĩa thì Mộc đạc là cái mõ gỗ.

Trong sách này không đề tên tác giả mà chỉ đề là thơ cổ.

Bản chất nghề mõ là đưa tin . Trước đây mõ bị khinh rẻ, không có ruộng để canh tác, chỗ ở được làng cấp cho mảnh đất gần bãi tha ma cuối làng, thậm chí không nằm trong thứ bậc làng xã.

Chỉ có dân ngụ cư từ nơi khác tha phương cầu thực. Hết đời cha thì đến đời con thay nhau làm mõ. Chỉ đến khi nào làm mõ 3 đời thì mới có cơ hội đổi đời.

Vì phải làm mõ lâu năm, đi hầu hạ giúp cỗ cho cả làng mà nhiều khi trình độ băm thịt gà đạt đến mức thượng thừa, một con gà 1 người ăn cố mới hết được chặt làm 92 miếng đều tăm tắp, xương liền thịt, thịt liền da, đầu gà được chặt làm 5 miếng, miếng nào cũng dính 1 tý mỏ và mào ( Nghệ thuật băm thịt gà - Ngô Tất Tố) .

Sau 1945, chú Ốm được ông thôn đội trưởng bố trí làm thông tin liên lạc của làng, Đến khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ và Quảng Trị bị chiếm đóng (tháng 2 năm 1947), rất nhiều người dân tản cư lên chiến khu Ba Lòng và nhiều nơi khác.

Gia đình chú Hồ Văn Ốm cũng rời làng đi đâu không rõ? !

Bên bờ Phước Long Giang, sáng ngày 29/5/2021

Nhà thơ Xuân Bảo.

Thằng Mõ Bắc kỳ thời trước

Bên bờ Phước Long Giang, sáng ngày 29/5/2021

Nhà thơ Xuân Bảo.

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 23. Ông Thợ Trì người làm vè và nói vè nổi tiếng

 

Cụ Nguyễn Văn Tề là con cụ Nguyễn Văn Dinh và bà Lê Thị Kiều (trắc thất) có những người con là ông Nguyễn Văn Trì (còn gọi là ông thợ Trì) làm nghề may quần áo may bằng khâu tay. Ông là tay thợ giỏi, may rất đẹp nên được bà con tín nhiệm. Ông còn là một nhà làm vè nổi tiếng cả tổng. Trong làng, trong tổng có chuyện gì xảy ra thì chỉ từ sáng đến chiều là có thơ, có vè ngay, thường là vè, thơ châm biếm. Vè của ông động chạm đến những tay cường hào, hách dịch và những phú hộ, trọc phú hợm của, khinh người. Ông đả kích những thói hư tật xấu của con người. Ông còn có tài kể chuyện vè và giọng của ông rất hay, rất hấp dẫn nên không những trẻ con mà cả người lớn cũng thích. Mỗi khi ông ngân nga kể vè thì có hàng chục người đứng vòng trong vòng ngoài nghe một cách chăm chú và có nhiều người thuộc vè của ông. Có thể nói ông là một nhà thơ dân gian, chuyên làm thơ trào phúng. Rất tiếc là những bài vè, bài thơ của ông chỉ được truyền khẩu cho nên hiện nay coi như thất tán hoàn toàn.

         Tuy nhiên, ông vẫn rất nghèo đến nỗi một mảnh nương nho nhỏ, hơn sào, đã phải cắt đi một phần ba, bán lại cho ông Nguyễn Văn Xuân. Người con đầu của ông có tên là Nguyễn Văn Loan cũng đi ở chăn trâu cho ông Xuân. Cách mạng về, ông Loan đi bộ đội và đến khi Hiệp định Geneve được ký kết thì tập kết ra Bắc, lấy vợ người Vĩnh Linh, gần giới tuyến quân sự tạm thời. Hiện nay người cháu nội của ông thợ Trì tên là Nguyễn Văn Lực vẫn sống trên mảnh nương đó, làm nghề đóng gạch táp -lô.

          Người em kế ông thợ Trì tên là Nguyễn Văn Thanh (còn gọi là ông Con) ở sát nương người em út là ông Dần. Hiện nay những người con Ông Con tản mác, không có ai ở lại Phường Sãi. Ông Nguyễn Văn Hiếu ở tận tỉnh KonTum, đã gần 80 tuổi thường về việc họ, tết nhất, giỗ chạp. Ông là người rất có tình, có nghĩa với cố hương. Và người cháu tên Nguyễn Tăng, con ông Hiếu, sống ở Tánh Linh (Bình Thuận) cũng thường về quê trong những ngày giỗ chạp.

          Ông Nguyễn Văn Dần, thường hay gọi theo tên con, gọi là ông Đuổi (tên tục ông Thiều) ở sát nương. Ông Dần sinh được hai người con trai. Người con cả tên là Nguyễn Hồng Thiều, trước đi ở cho địa chủ làng Thượng Phước. Ông đã từng nhai cơm trún vào nồi cá kho để chủ nhà tưởng lầm mèo mửa đem cho người làm ăn.

 Thời đi ở có lần ông giả vờ điên để có thể chửi bới địa chủ mà không bị bắt tội. Cách mạng về ông đi bộ đội và tập kết ra Bắc, lấy vợ người Quảng Bình, sinh được bốn người con. Ông Nguyễn Văn Quýnh, em ông Thiều, lấy vợ họ Phan, người làng An Đôn. Ông Quýnh có tất cả là 10 người con. Hiện nay ở tỉnh Khánh Hòa. Người em gái tên là Nguyễn Thị Cầm thì lấy một người tên Trần Đức Hứa ở làng Thượng Phước. Còn cô em út là Nguyễn Thị Huệ, lấy chồng ở làng An Đôn.

Bên bờ Phước Long Giang, sáng ngày Tết Thiếu nhi 01/6/2021

Nhà thơ Xuân Bảo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thứ 24. Quan làng

Giữa làng Thượng Phước - một cái làng sầm uất, có đến hàng chục nhà ngói gỗ mít có chiều dài hàng chục cây số từ cuối làng An Đôn lên đến Trấm lại mọc lên cái ấp Xuân Sơn gồm mấy gia đình họ Nguyễn Văn từ Đông Bích vào. Mọi sinh hoạt đều phụ thuộc vào bộ máy hành chính của làng Xuân An.

            Cứ đến sau Tết Nguyên Đán hàng năm, có một đoàn hương hào, lý dịch làng Xuân An đi đò dọc cập bến Phường Sãi. Họ ăn mặc chỉnh tề, đi đứng đạo mạo, áo lương đen, quần vải quyến trắng, dận giầy Gia Định, đầu đội khăn đóng (xếp), cặp dù ở nách hoặc che trên đầu. Họ ăn nói thưa gửi đàng hoàng, lịch lãm. Đúng là các quan cai trị cấp thấp nhất của cái thời phong kiến. Họ đến Phường Sãi để thu thuế đinh, thuế điền và các khoản lao dịch khác.

Xong việc quan, một bữa tiệc linh đình được dọn ra. Có rượu Sica, một loại rượu gạo do nhà nước Đại Pháp quản lý thời còn mồ ma thực dân. Hiện nay tại làng Kim Long (Hải Lăng) có xây lên một nhà máy rượu để giữ lại cái thương hiệu nổi tiếng rượu Kim Long mà bọn Pháp đã chiếm độc quyền khai thác. Đó là rượu SICA. SICA là chữ viết tắt của Société Industrièlle Compagnie d’ Alcool. Không hiểu vì lý do gì mà những người xây dựng nhà máy rượu này viết thành Xica và lắp một cái be rượu hình quả bầu eo treo lơ lửng phía cổng.       

    Thời Pháp thuộc, người dân không được nấu rượu. Ai nấu rượu lậu mà bị nhà đoan tóm được thì chỉ có đi tù là cầm chắc. Không như bây giờ nhà nhà nấu rượu, người người nấu rượu. Ngon có, dở có, độc tố trong rượu làm chết người cũng có. Sướng thật!

  Bữa tiệc ông ngoại thết đãi các vị quan làng có đủ món gia súc: bò heo, gia cầm: gà vịt và độc đáo hơn là có cả thịt rừng. Chú Đáo, quê làng Lâm Thủy, người giúp việc cho ông mệ, từ mấy ngày trước đã xua bầy chó săn vào hác Sủng Moong, độộng Cầu Đất hoặc xa hơn là Khe Quao, Độộng Thọt…, để bắt về những con chồn, con nhím, con thỏ, có khi được cả heo rừng con để làm tiệc khoản đãi các vị chức sắc làng Xuân An. Cho đến ba bốn giờ chiều tiệc tàn. Chiếc rương đã đầy tiền kẽm, tiền chinh (sau này mới có bạc giấy Đông Dương), họ lại đủng đỉnh tay cầm quạt phe phẩy, miệng ngậm cái tăm tre của vườn nhà tự vót lấy. Họ lên chiếc đò có mui che trở về Xuân An. Xuôi dòng, thuyền lướt trôi nhanh, chợp tối đã về đến bến làng.

Lời bình thêm: Tôi nhớ hồi nhỏ học phổ thông tôi thường được nghe mấy từ sau: Dưới thời phong kiến thực dân thối nát. Như mấy ông quan làng Xuân An này ở vào thời kỳ nước ta vừa chế độ phong kiến lại bị bọn Tây đô hộ thì tôi chẳng thấy họ thối nát tý nào.

Bên bờ Phước Long Giang, trưa ngày 21 tháng Tư năm Tân Sửu

Nhằm ngày 1 thâng năm 2021

Nhà thơ Xuân Bảo

 

Câu chuyện thứ 25. Ngoại ngữ Quảng Trị             

 Quảng Trị, quê tôi thì có cách nói mà như anh bí thơ tỉnh trước đây khi ở tỉnh khác mới về, ông ta cho rằng tiếng Quảng Trị là một ngoại ngữ. Thực ra đây là địa phương ngữ. Thí dụ câu thơ mà nhà thơ Hoa Dại đã viết trong một bài thơ dài, viết toàn giọng Quảng Trị của tôi:

        Có một ôông đưa về mần bí thơ quê miềng.Ôông mần được nửa mùa, rồi ông rút.Ôông nớ nói rằng tiếng Quảng Trị là một ngoại ngữ.Vì vậy ôông nớ xin đi nơi khác. Ai có dớ người đó là ai không hý?”

                    Fb Hoa Dại viết:

           Trước khi đọc yêu cầu bạn phải có bằng C tiếng Quảng Trị hoặc A1 tiếng miền trung.      

Sao không dịch ra tiếng phổ thông để mọi người hiểu?

Vậy thì Xuân Bảo này xin dịch :

Ai Quảng Trị mí hiểu hí.

 Diễn dịch: Ai người Quảng Trị mới hiểu nhé

 

Ngó trộ mưa rào, út lại dớ quê,

Diễn dịch: Thấy trận mưa rào, Út lại nhớ quê

Bảy tám năm ni, út chưa về Quảng Trị,

 Diễn dịch: Bảy tám năm nay,Út chưa về Quảng Trị

Dớ mạ, dớ ba, dớ eng, dớ chị,

Diễn dịch: Nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ anh, nhớ chị

Mới nghị rứa thôi, nác mắt chảy dài,

Diễn dịch: Mới nghĩ thế thôi, nước mắt chảy dài

Dớ ngày mùa, sương ló trẹo cả bai.

Diễn dịch: Nhớ ngày mùa,gánh lúa sụn cả vai

Sáng đi mót khoai, chiều đi mò ốốc

Diễn dịch; Sáng đi mót khoai, chiều đi mò ốc

Nỏ mũ nón chi, nắng e nẻ trốốc,

 Diễn dịch: Không mũ nón chi, nắng e nứt trốc

Dọọc thì dọọc mà bui quái eng hè?

Diễn dịch: Nhọc thì nhọc mà vui quá anh hè

Cả dà miềng chỉ có một cấy xe.

Diễn dịch: Cả nhà mình chỉ có một cái xe

Ngày mô cũng nghe, mạ kêu lủng lốp.

 Diễn dịch: Ngày nào cũng nghe, mẹ kêu thủng lốp

Ba lại soạn ra bốn năm cấy hộp.

 Diễn dịch: Cha lại soạn ra bốn năm cái hộp...

Cạy lốp ra, rồi bá chịt bá chằng.

Diễn dịch: Cạy lốp ra rồi vá chịt vá chằng

Dớ mỗi lần soạn chén đọi dọn ăn.

Diễn dịch: Nhớ mỗi lần soạn chén bát dọn ăn

Chộ nồi cơm, sắn hấp đằn trặt cứng.

Dịch: Thấy nồi cơm, sắn hấp đè chặt cứng

Mạ đi mần rọọng, lặt mô về cấy trớớng.

Diễn dich:. Mẹ đi làm ruộng, nhặt đâu về cái trứng

Lọọc vội lọọc vàng, chế nác mắm chắm rau.

Dịch: Luộc vội, luộc vàng chế nước mắm chấm rau

Eng thì ưng ceng chứa nấu cá tràu

Diễn dịch:Anh thì thích canh chua nấu cá tràu

Chị thì ưng nấu canh rau bù lột.?

Diễn dịch: Chị thì ưng nấu canh rau ngót

Dớ có bựa đang ăn thì mưa, dà dột.

 Diễn dịch: Nhớ có bữa đang ăn thì mưa, nhà dột

Mấy eng tam bơơng thau hớớng khắp dà.

Dịch: Mấy anh em bưng thau hứng khắp nhà

Dớ cấy ngày út đi lấy dôông xa.

Diễn dịch: Nhớ cái ngày Út đi lấy chồng xa

Eng chị chạy ra cuối đàng để tiễn.

Diễn dịch:Anh chị chạy ra cuối đường để tiễn

Út nghị vài bựa chắc đi về cũng tiện

Diễn dịch: Út nghĩ vài bữa chắc đi về cũng tiện

Có ngờ mô, biền biệt tới hôm ni.

Diễn dịch: Có ngờ đâu, biền biệt tới hôm nay

Ngó trộ mưa rào, út lại dớ quái đi..

Diễn dịch: Thấy trận mưa rào, Út lại nhớ quá đi.

                                (Mới lượm)

Toàn văn bài thơ đã được nhà thơ Xuân Bảo dịch:

Ai người Quảng Trị mới hiểu nhé!

Thấy trận mưa rào, Út lại nhớ quê

Bảy tám năm nay, Út chưa về Quảng Trị

Nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ anh, nhớ chị

Mới nghĩ thế thôi, nước mắt chảy dài

.

Nhớ ngày mùa, gánh lúa sụn cả vai

Sáng đi mót khoai, chiều đi mò ốc

Không mũ nón chi, nắng e nứt trốc

Nhọc thì nhọc mà vui quá anh hè!

 

Cả nhà mình chỉ có một cái xe

Ngày nào cũng nghe, mẹ kêu thủng lốp

Cha lại soạn ra bốn năm cái hộp...

Cạy lốp ra rồi vá chịt vá chằng

 

Nhớ mỗi lần soạn chén bát dọn ăn

Thấy nồi cơm, sắn hấp đè chặt cứng

Mẹ đi làm ruộng, nhặt đâu về cái trứng

Luộc vội, luộc vàng chế nước mắm chấm rau

 

Anh thì thích canh chua nấu cá tràu

Chị thì ưng nấu canh rau bù ngót

Nhớ có bữa đang ăn thì mưa, nhà dột

Mấy anh em bưng thau hứng khắp nhà

 

Nhớ cái ngày Út đi lấy chồng xa.

Anh chị chạy ra cuối đường để tiễn

Út nghĩ vài bữa chắc đi về cũng tiện

Có ngờ đâu, biền biệt tới hôm nay

 

Thấy trận mưa rào, Út lại nhớ quá đi.

 

Hoa Dại Mới lượm.

 

Để tặng Đồng hương Quảng Trị, nhân này họp mặt đầu năm Tân Sửu -17/1/2021.

Nhà thơ Xuân Bảo, người làng Đại Hào, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, Quảng Trị.

 

                                                        

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Câu chuyện thư 25. Rắn trả thù

 Ở thế kỷ trước khi Minh Hải còn là một tỉnh, ông Đặng Thành Học làm bí thư, ông Út Nghệ, tức nhà văn Nguyễn Hải Tùng, làm phó chủ tịch tỉnh, tôi được mời về dự hội nghị HĐND xã Đất Mới.

Đây là chuyến đi mang nhiểu bổ ích cho cuộc đời làm báo của tôi. Tôi đã viết được cái Ký Đường về Đất Mũi và cái Phóng sự Giàu lên nhờ trồn nấm rơm.

Anh Út Nghệ đã dẫn đoàn nhà báo chúng tôi, có cả cố nhà báo Trần Mộng Cẩn, cộng tác viên chính của báo Công an Nhân dân cùng đi về xã Đất Mới

 

 

Tư liệu.

 

1.    3 giọt máu rắn ở làng Nhị Khê Nguyễn Trãi.

2.    Mãng xà vương ở vủng U Minh – Cà Mau

3.    Rắn là con vật lớn thứ 3 trong “nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng (rắn to mắc kẹt ở cầu Bạch Hổ ,lụt năm Thìn – 1952

4.    Phường Sãi có nhiều loại rắn,trong đó có rắn học trò.

 

Chỉ biết rằng khi trôi về đến cầu Bạch Hổ thì đám cây rừng bị mắc kẹt, không trôi qua được mấy trụ cầu. Người dân phát hiện trong đám lá rừng đó có một con rắn khổng lồ. Được tin, tên quan hai chỉ huy đồn Kim Long cho bố trí mấy khẩu đại liên cả hai bờ bắc và bờ nam, rồi cho xả súng vào chỗ có con rắn. Chuyện có thật hay không thì tôi không được biết tường tận mà chỉ nghe thiên hạ đồn thổi mà thôi.Nhưng chuyện rắn to (mãng xà vương) thì miệt rừng U Minh có rất nhiều. Trừ những chuyện vui Bác Ba Phi kể, không mấy đáng tin thì vẫn có những con rắn thật mà người dân đã từng chứng kiến.

 Bác Ba Phi - một kỳ lão xứ U Minh vốn nổi tiếng về tài nói khoác, có đoạn viết: “Hồi xưa trong rừng U Minh Hạ có những con rắn hổ mây khổng lồ không biết sống từ thời nào, chỉ biết khi nó say mồi nằm ngủ trong rừng, mấy ông thợ săn len lén tới ôm thử thì chu vi vòng bụng hết ba vòng tay người lớn. Con rắn giật mình thức dậy, đầu cất cao khỏi ngọn cây rừng, há miệng toang hoác khiến chim chóc tưởng thân cây nên đậu trên đầu và làm tổ trong miệng, bị nuốt chửng”.Những bậc cao niên ở U Minh Hạ cam đoan rằng nơi đây chính là vương quốc bất khả xâm phạm của loài rắn hổ mây khổng lồ, loài vật được tôn là "mãng xà vương" của rừng U Minh đã truyền tụng qua hàng trăm năm. Những người từng gắn bó lâu năm dưới tán rừng tràm U Minh Hạ cũng quả quyết rằng nếu trừ đi những phần thêm mắm dặm muối của bác Ba Phi thì câu chuyện về những con rắn hổ mây khổng lồ của rừng U Minh là hoàn toàn có thật.

Tìm gặp ông Ba Dương, người sống tại rừng U Minh Hạ này nhiều năm, ông cho biết, loại rắn khổng lồ trong rừng này thuộc giống hổ mây, từ lâu đã được người dân xem như một vị chúa tể của cả khu rừng. Mặc dù to lớn và đáng sợ như thế nhưng mãng xà vương ít khi xâm phạm đến con người, “rắn ăn tất cả các loại thú rừng nhưng tuyệt đối không ăn thịt người”, ông Ba khẳng định. Cả đời mình, ông chưa từng nghe thấy có trường hợp rắn chúa vô cớ tự nhiên tấn công hay ăn thịt người bao giờ, dù cho đói bụng.