Ông nội tôi nhiều lần lều chõng
vào kinh đô ứng thí nhưng không đỗ, đành về quê
Văn chương
phú lục chẳng hay/Trở về làng cũ học cày cho xong
Thế nhưng, Triều đình dường như tiếc cái công lao dùi mài kinh sử
nên cũng cho ông tôi làm lý trưởng đến gần chục năm. Lý trưởng còn được gọi là
xã trưởng,( chức tương đương như Chủ tịch phường, xã bây giờ) Dân Quảng Trị quê
tôi phát âm không chuẩn nên thường gọi
xã ra thành ông xạ.
Lúc còn nhỏ, những khi cha mạ cho về thăm làng, tôi thường
được Ông nội dạy bảo bằng những câu chữ nho như ; nhân chi sơ vốn bản thiện,
nhân bất học bất tri lý- ấu bất học lão hàn vi…Ông dạy tôi học chữ thánh hiền bằng
những bài học vỡ lòng trong cuốn Tam thien tu như Thiên trời địa đất. Cử cất tồn
còn. Tử con tôn cháu. Lục sáu tam ba. Gia nhà quốc nước. Tiền trước hậu sau.
Ngưu trâu mã ngựa…Ông còn dạy tôi viết chữ Hán. Ông đem ra cái mâm gỗ, lấy cát
Tiểu Trường Sa ( tức là loại cát lấy ở đoạn giũa cắt khúc đồng bằng và miền
duyên sơn.). Ở Quảng Trị ngày nay còn nhiều từ đoạn Thành Cổ đến các xã thuộc
huyện Hải Lăng – bây giờ đoạn này còn được gọi là Đại lộ kinh hoàng trong Mùa
hè đỏ lửa năm 1972. Cát được đổ vào xâm xấp lòng mâm, sau đó dùng ngón trỏ viết
tập. Thí dụ : Chữ Thiên gồm hai nét
ngang và một nét phẩy, một nét mác. Viết xong, lắc cái mâm cho cát trở về bằng
phẳng như ban đầu. Ở cái thời đó, cách tập
viết như thế quả là một sáng kiến vĩ đại, vừa tiết kiệm giấy lại vừa luyện cho
nhuần nhuyễn quen tay. Đến khi nào thuần thục thì mới dùng bút nho viết lên giấy
bổi.
Tôi
cũng thường được Ông cho theo ra đồng, Tuy là lý trưởng nhưng ông cũng phải lam
lũ ruộng nương như những lực điền. Tôi còn nhớ như hằn sâu vào ký ức thơ ngây của
tôi về cái cung cách làm việc của những công bộc của dân thời đó.
Chuyện là như thế này : Ông tôi đang cày ruộng. Có một người dân cần
lên quan có việc gì đó nên phải lặn lội ra đồng để tìm xã trưởng ký chứng vào
đơn. Ông tôi họ ( dừng ) trâu lại và lên bờ gặp đương sự. Sau khi rút cây bút
nho, thường dắt tai, Ông tôi mút vào miệng cho ướt đầu thấm mực, ký chứng vào
đơn, Ông tôi lấy cái triện vận trong lưng quần ra, hà hơi cho ẩm hơi nước rồi
kê lá đơn vào đầu gối ấn cái triện vaò, ( triện , miền bắc gọi là con dấu, miền
nam gọi là cái mộc) nơi có chữ ký của
ông. Hồi đó dân ta không mặc quần dải rút hay lồng bằng dây thun như ngày nay
mà mặc quần lưng vận.
Ông tôi là người hay chữ. Chữ nho Ông
viết rất đẹp.Ông được dân làng rất mến mộ. Trong làng nhà nào có việc quan hôn
tang tế đều đến xin Ông tôi cho đôi câu đối, hoành phi hoặc văn ai, văn điếu. Mặc
dù làm việc “nước”, nhưng Ông tôi cũng phải lao động cật lực để nuôi sống gia
đình. Khi việc làng, Ông được trọng vọng ngồi chiếu trên. Khi hết việc, Ông tôi
chỉ làm người dân như mọi người. Những ngày giáp Tết Nguyên đán, Ông tôi thường
mang chiếu, tráp, giấy điều, mực nho ra ngồi dưới tán cây đa cạnh đình làng để
viết thuê câu đối. Viết đến đây tôi lại
nhớ đến nhà thơ Vũ Đình Liên với bài thơ Ông đồ nổi tiếng. Vì thế tôi càng nhớ và thương Ông tôi da diết.
Mệ nội tôi,
quê làng An Cư, tổng An Cư cùng phủ Triệu Phong là cháu quan đại thần Nguyễn
Văn Tường. Ông sinh năm 1824, theo phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết nên bị thực dân Pháp bắt ông giam xuống tàu chở vào
Gia Định, rồi chở ra đày ở đảo Tahiti và chết tại đó năm 1886.
Có một điều rất đặc biệt là hai làng Đại Hào và An Cư đồng thờ
chung Ngài Khai khẩn tên là Nguyễn Thông. Chị ruột Mệ nội tôi được gả về làng
Tường Vân, lấy chồng là vị quận công được Triều đình tấn phong tước Hồng lô tự
khanh. Ông mệ tôi sinh hạ được sáu người
con, hai trai bốn gái.
Gia đình chúng tôi về quê nội. Đúng lúc có trát sức về làng tôi đã
đậu Yếu lược. Ông nội tôi đã cho mổ bò khao làng, mừng đứa cháu đích tôn được
phong là Ấm sinh.
Ba
Mạ tôi lại đưa tôi vô Huế, chuẩn bị cho ngày tựu trường niên khóa 1944-1945.
Tôi vào học lớp Nhì nhất niên (cours moyen 1) tại trường Queingec. Học nửa niên
khóa thì Nhật đảo chính Pháp. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Nam thôi là nước
thuộc địa của “mẫu quốc Đại Pháp” đô hộ.
Tính theo thời gian mà Phả ký Tộc
Nguyễn Ngọc có hiện tại thì dòng họ này đến hiện nay là 16 đời, tương ứng với
thời điểm Chúa Tiên vào đây. Làng Đại Hào có họ Nguyễn tám phái mà phái Nguyễn
Ngọc của tôi là lớn nhất. Chi của cha tôi có nhiều người đỗ đạt.
Theo Phả ký Nguyễn Tộc làng Đại Hào ghi chép từ đầu thế
kỷ 20 thì Ông nội tôi nhiều lần lều chõng vào kinh đô ứng thí. Ông đỗ vào
Trường Nhì Bạch Giáo sư trúng sĩ bổ. (theo ghi chép ở cuốn Chi phổ họ
Nguyễn Tám phái làng Đại Hào). Ra trường, ông được bổ về dạy học (thầy dạy chữ
Nho) ở làng Lâm Xuân, huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Lâm Xuân là làng nghề dệt
chiếu rất đẹp. Ở đây có một hủ tục là không cho con gái lấy chồng ngoài làng, bởi
sợ mất nghề. Cũng như ở Bắc Ninh, làng Vân có nghề nấu rượu nổi tiếng cho nên
làng không gả con gái cho nơi khác. Các bậc bô lão trong làng đề nghị ông tôi
làm thơ nói lên tác hại của hủ tục này. Ông tôi đã làm một bài vè để cho dễ nhớ.
trong đó có những câu:
…Ba mươi tuổi tác đó chừ
E lẫn thẩn mà trẻ qua già tới
Ngọc phải giá không buông còn đợi?!
Bài vè này dài, tôi chỉ trích mấy câu. Cháu ngoại của ông tên Trần
Kỳ Đại, con O Chuyển đã chép toàn văn cho tôi.
Thời gian sau, Ông thôi dạy học và trở về làng để làm lý trưởng.
Bên bờ Phước Long Giang,ngày 25/12/2018.
Noel 2018
Bài đăng lại ngày 27/6/2021
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét