141.BẮC HÀ KÝ SỰ ( Phần 1)
Xuân
Bảo
1.
VỀ
BẮC
Chiều
Sài Gòn nắng nhẹ. Cơn gió nồm nam đã xua dần đi cái nóng gay gắt ban trưa. Sân
bay Tân Sơn Nhất ầm ì máy bay lên xuống. Nhiều nhất là máy bay của Hãng Hàng
không Vietnam Airline. Kế đó là máy bay của các hãng hàng không nội địa.Có dăm
ba chiếc của các hãng hàng không nước ngoài như Asia Airline,Air Lufthansa, Air
France…
Vợ
chồng tôi cùng cháu ngoại Phạm Nguyễn Thúy Hà lên chuyến bay chiều của hãng
Hàng không JETSTAR, khởi hành lúc 15 h 35
từ sân bay Tân Sơn Nhất về tới sân bay Nội Bài lúc gần 18 h ngày 2 tháng 3 năm 2015, nhằm ngày 12 tháng
giêng Ất Mùi. Lúc máy bay hạ cánh bầu trời Hà Nội nhiều mây và có mưa phùn nhẹ.Trước
đó mấy hôm, cô em ruột nhà tôi tên là Nguyễn Thị Liên Hương, con út của ông bà
Tân Việt, ở 9 phố Thanh Hà, gần Ô Quan Chưởng đã đặt phòng ở Hostel Central Ha
Noi.Khách sạn này mới khai trương vài tháng.Giá phòng tương đối rẻ. Phòng chúng
tôi ở giá 450 ngàn đồng ngày/đêm.Xe của Hàng không chỉ đưa về số 1 phố Quang
Trung.Từ đây, chúng tôi đi taxi về nhà.Đến cuối phố Hàng Chiếu xuống xe và
chúng tôi ghé vào một quán ăn.Quán này có bán mì xủi cảo tôm tươi.Món ăn mà những ngày
Hà Nội đánh Mỹ tôi rất thích.Tôi nhớ lại hiệu mì ông Xây, người Tàu ở 92 phố Huế.Ông
Xây nấu món này rất ngon.Tiếng gõ vào cái hũ nhỏ đựng tiêu của ông cũng rất điệu
đàng.Cóc, cóc,cóc…cóc và sau đó mùi hạt tiêu lan tỏa khắp cửa hiệu, rất hấp dẫn.
Chiều hôm sau, ngày 3 tháng 3, con gái thứ hai của chúng tôi tên là Nguyễn Thúy
Ngọc sang Hàn Quốc thăm con gái Đặng Thái Thảo đang học bên đó từ trước Tết, bay
từ Séoul về. Thúy Ngọc nghỉ tại nhà cô Mai Hương, tên thường
gọi của Liên Hương.
***
2.LÀNG ƯỚC LỄ - QUÊ VỢ.
Làng
Ước Lễ thuộc tổng Tân Ước, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Cầu Đơ.Năm 1904 Cầu
Đơ mới đổi thành tỉnh Hà Đông.Nay là thôn Ước Lễ, xã Tân Ước, quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội.Đây là một làng quê nhỏ bé thuần nông, có nhiều nét đặc trưng
của một làng quê cổ đồng bằng Bắc Bộ.Câu ca xưa: “Ba làng Chảy, Bẩy làng La” là đúc kết từ những nghề truyền thống của
một vùng quê. Ba làng Chảy là cụm ba làng xưa gồm Phúc Lâm,Thượng Thụy và Ước Lễ.Phúc
Lâm và Thượng Thụy sau này sáp nhập thành làng Phúc Thụy. Còn Bảy làng La (La
là lụa) là các làng:La Cả,La Dương,La Nội,La Giang,La Phù,La Khê và La Tinh.Những
làng này cặp theo bờ sông Nhuệ, nổi tiếng trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa.
Theo
con đường liên xã đi từ thị trấn Thường Tín vào qua Cầu Chiếc,bắc ngang dòng
Nhuệ Giang,rẽ tay trái qua làng Tri Lễ là đến làng Phúc Thụy và vào đầu làng Ước
Lễ.
Tôi
nhớ lại, hồi chưa giải phóng miền Nam, mỗi lần về Ước Lễ thì có nhiều con đường
đi: Nếu đi tầu hỏa từ ga Hàng Cỏ, tức là ga Hà Nội xuống đến ga Thường Tín rồi
đi bộ về làng.Để về làng trên con đường ngắn hơn, cũng đi tầu hỏa thì xuống ga
Tía. Từ ga Tía đi dọc con đường tỉnh Phú Xuyên – Vân Đình. Tỉnh lộ 71 này còn
có tên gọi là đường Biên Hòa khi tỉnh Hà Đông kết nghĩa với tỉnh Biên Hòa trong
thời gian kháng chiến chống Mỹ. Đi một đoạn đến làng Trừ thì rẽ phải đi bộ về
làng.Còn có đến ba con đường về Ước Lễ nữa.Đó là khi qua khỏi thị xã Hà Đông đến
ngã ba Ba La-Bông Đỏ thì rẽ trái theo quốc lộ 21B, qua Thạch Bích,Bình Đà (nổi
tiếng làng pháo một thời),đến Kim Bài- huyện lỵ Thanh Oai.Khi đến làng Phương
Trung, còn gọi là làng Chuông nổi tiếng nghề chằm nón rồi rẽ trái men theo con
đường qua làng Do Động về Tri Lễ, xuống Ước Lễ.Nếu cứ thẳng hướng đi Chùa Hương
khi đến ngã tư Vác lại rẽ trái, theo con đường liên xã qua các làng Dân Hòa, An
Khoái,Quế Sơn rồi qua Tri Lễ về Ước Lễ.
***
3.THẦN TÍCH LÀNG ƯỚC LỄ.
Theo
Thần phả làng Ước Lễ còn để lại ở đình làng thì Tể tướng Lữ Gia, húy là Lữ Húy
Gia, người làng Thiên Phúc nay là Đa Phúc, Phúc Yên.Ngài Lữ Gia làm tể tướng ba
đời của Nhà Triệu, đến đời thứ tư Triệu Ai Vương- năm 111 trước công nguyên thì
tịch.Trong cơn cuồng chiến của lũ giặc Nam Hán, Ngài bị giặc vây và bị chém đứt
đầu.Khi Ngài phi ngựa về đến Bãi Gấu trước cổng làng Ước Lễ thì hóa.Ngựa của
Ngài lồng chạy được dân bảy làng La bắt về nuôi.Dân làng Phúc Lâm lượm được đầu
Ngài đem về táng ở thềm đình.Dân làng Minh Thụy lượm được thân Ngài mang về
chôn ở nền Miếu Minh.Còn dân làng Ước Lễ đến sau nên chỉ thấy còn lại những vệt
máu của Ngài, bèn lấy lông gà vét những giọt máu của Ngài đem về vẽ thành tranh
chân dung Ngài thờ ở hậu cung đình làng Ước Lễ, tôn làm Thành hoàng.
Theo
truyền thuyết: Vào những ngày lễ hội rước Thánh Thành Hoàng, dân Ước Lễ rước kiệu
bài vị Thánh Thành Hoàng sang đình làng Phúc Lâm để trình, rồi lại hồi cung vế
đình làng mình làm lễ tế tự.Dân làng Phúc Lâm được tôn làm Dân Anh, còn dân
làng Ước Lễ tự nhận mình là Dân Em.Tục lệ này đã có từ hàng ngàn năm qua.
Người
anh hùng dân tộc Tể tướng Lữ Gia hy sinh vào ngày 12 tháng 9 năm Canh Ngọ. Nếu
tính theo lịch Công giáo thì đúng vào ngày Thứ Hai, 29 tháng 10 năm 111 trước
Công nguyên, cách đây đúng 2126 năm (tính đến thời điểm tôi viết Bắc Hà ký sự
này).Để tưởng nhớ công lao đó có tới 72 làng tôn Ngài là Đức Thánh Thành hoàng
làng.Trước đây,do công việc ngày mùa bận rộn (thu hoạch vụ mùa) nên dân làng nhất
trí dời ngày Việc làng giỗ Thánh trước 1 tháng, tức là ngày 12 tháng 8 âm lịch.
4. SỰ TÍCH CÁI CỔNG LÀNG
Cổng
làng nhìn từ ngoài có ba chữ Hán đề Ước Lễ Môn.Hai bên tả hữu là hai câu đối bằng
chữ Hán.Phiên âm sang Quốc ngữ là:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường thượng
cổ nguyện tàng kỳ thị;
Xôn xao trước thầy sau tớ mã xa phục
quá thử kiều.
Dịch
nghĩa:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường bán
buôn nguyện tàng chợ búa;
Xôn xao trước thày sau tớ ngựa xe
qua lại cầu này
Cầu
này xây từ lâu lắm rồi.Cầu xây bằng gạch đặc, cong cong hình bán nguyệt.Hai bên
lan can cầu, mỗi bên có bốn trụ.Cầu rộng hơn hai mét,dài khoảng mười mét, bắc
sang một con hào.Con hào này xưa kia là thành lũy theo truyền thống “thành cao
hào sâu” để bảo vệ dân làng khỏi bọn trộm cướp.Thành cao được thay thế bằng lũy
tre gai dày đặc, một con chim sẻ khó bay lọt.Phía tả có một cái cột bằng đá
xanh có khắc hai chữ Hán: Hạ Mã (tức
là Xuống ngựa) Thời phong kiến các
quan bất kể là ai từ lý trưởng,chánh tổng, tri huyện, tri phủ, lãnh binh, án
sát, tuần vũ, tổng đốc, kể cả các vị đại thần của triều đình khi về đến làng là
phải xuống ngựa đi bộ.Lâu ngày cái trụ Hạ mã không còn nữa.Trên gác cổng có bức
đại tự cũng bằng chữ Hán: Mỹ Tục Khả
Phong, nghĩa là Phong tục tốt đẹp được
ban tặng.Đây là sắc phong của vua Tự Đức, ban vào năm Tự Đức thứ 33 nhằm
vào năm Canh Thìn 1880.Năm đó,nhà vua đi kinh lý qua nhiều nơi ở Bắc Hà, nhận
thấy nhiều làng có phong tục hay cần phổ biến rộng cho thần dân noi theo.Ước Lễ
là một trong sáu làng được vua Tự Đức ra chiếu sắc phong cho danh hiệu đẹp đó.Qua
khỏi cổng làng, phía tay phải là Đình Ước Lễ, phía tay trái là chợ. Cái chợ này
thời trước là chợ lớn nhất vùng. Cứ 5 ngày chợ phiên nhóm một lần,thu hút nhiều
mặt hàng các nơi tụ về.Chợ họp ở dưới gốc đa to, ngày nay cây đa vẫn còn,tỏa
bóng khắp một vùng và giờ chỉ còn lại một cái chợ xép thôn quê.
5. NGHỀ
TRUYỀN THỐNG: THỢ MAY VÀ GIÒ CHẢ.
Làng
này có hai nghề truyền thống. Đó là nghề thợ may và nghề làm giò chả.Nhưng nghề
làm giò chả là nổi tiếng nhất.Từ xa xưa, những con dân của làng đã tìm về thủ
đô ngàn năm văn vật để mưu sinh bằng nghề truyền thống của cha ông.Ước Lễ chỉ
cách Hà Nội không đầy hai mươi cột số lô mét.Nếu tính theo đường chim bay thì
chỉ hơn 10 kilômet.
Giò
chả có nhiều loại như giò thủ, giò hoa, giò bì,nem chua,chả lụa, chả quế mà đặc
biệt là cái giò lụa.
Giò
chả Ước Lễ đã góp phần vào nền văn minh lúa nước của đồng bằng Sông Hồng và làm
phong phú nền văn hóa ẩm thực của Hà Thành.
Những
năm thập kỷ 60 thế kỷ trước tôi có may mắn được làm giai tế làng Ước Lễ, làm
con rể của ông bà Nguyễn Viết Điền và Nguyễn Thị Tỵ. Ông bà có cửa hiệu Cơm tám
giò chà Tân Việt nổi tiếng ở số nhà 60A phố Huế.Dân Hà Nội quen gọi tên ông bà
là ông bà Tân Việt, ít khi gọi đúng tên cúng cơm của ông bà.
Nơi
đây, tôi đã được thực mục sở thị cách làm giò chả.Bắt đầu là cái cối giã giò. Cối
làm bằng đá xanh, một loại đá có rất nhiều ở núi rừng nước ta.Và đôi chày tay
làm bằng gỗ mít hay gỗ nghiến không có mùn và có trọng lượng đủ để giã thịt lợn
nhuyển ra. Chày có hình dạng như một quả tạ tập tay, hai đầu hình thành hai
khúc , ở đoạn giữa khoét lõm vào làm tay cầm đủ cho một bàn tay nắm.Phải là những
người có sức khỏe tốt mới nhấc nổi cái chày tay này.Nhất là khi thịt trong cối
bắt đầu nhuyễn.Thịt dính chặt vào đầu chảy. Người giã phải lấy một miếng mo cau
bằng bàn tay để gạt thịt xuống lòng cối. Giã giò là một nghệ thuật.Và thợ giã
giò phải là người tinh thông, nhìn miếng thịt nào là có thể gói giò, miếng thịt
nào phải loại ra. Giã không ngơi tay và
nhất thiết không để thịt lợn rời rạc, không quánh dẻo.
Đầu
thế kỷ trước, bác Xuyên của vợ chồng chúng tôi mang cái văn minh giò chả Ước Lễ
về tận đất cảng Hải Phòng để kiếm sống.Cũng như cụ Đoàn Văn Ty, hiệu Chả cá Lã
Vọng, rời bỏ Xứ Đoài Sơn Tây ra bến Sáu Kho lập nghiệp và làm nên món chả cá lừng
danh.Bốn giờ sáng khi cả thành phố hoa phượng đỏ còn đang ngủ yên là cả nhà bác
Xuyên đã thức dậy. Bác Xuyên gái ra thịt, lọc loại nào ra loại đó.Bác Xuyên
trai lót dạ bằng một tẩu thuốc phiện nhỏ,
chiêu vài ngụm nước chè Tân Cương và bắt đầu ngồi vào chiếc ghế gỗ,gần kề miệng
cối.Tiếng chày nện đều đều, không nhanh cũng không chậm. Nghe tiếng giã giò,
người sáng tác bài hát có thể có nhiều cảm hứng để viết nên một khúc nhạc trầm.Dù
bác không phải là người tráng kiện cho lắm nhưng bác vẫn làm giò năm này qua năm
khác.Cho đến những năm Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, giò chả
của bác Xuyên vẫn có mặt trên các sạp chợ Thành Tô.Bác ít khi ốm đau. Có lẽ nhờ
vào cái khói của ả phù dung ấy chăng mà bác có được sức khỏe dẻo dai lạ thường?
Người trong nghề và có lương tâm nghề nghiệp không bao giờ dùng thịt bã để gói
giò.
Thịt
lợn nạc là nguyên liệu chính.Phải là thịt lợn mới mổ, thớ thịt còn nhảy, sờ vào
miếng thịt còn hơi nong nóng.Miếng thịt tuyền nạc là miếng thịt không còn một
tý mỡ, không còn gân bầy nhầy bạc nhạc.Cái lá chuối tươi là thứ không thể thiếu
để bó một cái giò lụa. Bởi vì cái mùi và mầu đặc trưng của lá chuối: mùi thơm
chát ngậy và và mầu lá xanh non bao quanh khúc giò mới hấp dẫn làm sao! Thiếu
mùi và mầu của lá chuối tươi thì không còn là cài giò lụa Ước Lễ nữa!
Đề
bó giò phải có lạt giang. Cây giang thuộc họ tre, có rất nhiều ở mạn rừng tỉnh
Hòa Bình.Giang được chẻ mỏng, to bản.Khi bó bao giờ cũng phải chừa một đoạn lạt
để xoắn cái dây treo giò lên con sào cho ráo nước.Ở hai đầu cái giò lụa được
các cụ tổ đặt cho cái tên nghe hay hay: đầu dày! Người sành ăn thích thưởng thức
cái đầu dày phía trên, nơi có sợi lạt buộc treo giò.Lát đầu dày này vừa khô, vừa
giòn. Câu ca xưa: “thanh lan chị không bằng bánh dày em”. Thanh lan là cái đầu
dày giò lụa đó.Thanh lan đầu dày ngon bởi vì nó tụ hết hương vị lá chuối và gia
vị vào. Gia vị là loại nước mắm ngon mà chỉ có Hãng nước mắm Vạn Vân ở phố Trần Nhật Duật,nhìn ra
cột đồng hồ, gần chân cầu Long Biên mới là thứ chính hiệu.Nước mắm Vạn Vân vừa
thơm vừa đủ độ đạm.Nước mắm Vạn Vân không dùng chai nhựa và thủy tinh mà dùng
cái chĩnh bằng gốm. Miệng chĩnh rộng chừng năm phân nhô lên trên bầu chĩnh to
tròn gấp đôi quả bóng đá. Nước mắm rót vào chĩnh và được khằng lại bằng thứ xi,
chắc và bền hơn cả xi-măng.Hà Nội có phố Hàng Chĩnh là nói về cái chĩnh nước mắm
này.Hồi đó không ai đem bột mì chính pha làm giò chả. Khúc giò lụa, khi cắt ra
theo chiều ngang, không ai bổ dọc,có ít lỗ bằng hạt ngô sót lại trên bề mặt thì
mới thực ngon.Các cụ ta xưa thường dùng chiếc tăm tre xiên qua miếng giò để
nhâm nhi với loại rượu ngang Đỗ Động, Tốt Động hay là rượu Trương Xá hay Nàng
Vân.
***
6..ĐI BÁN RONG GIÒ CHẢ.
Nhạc
mẫu của tôi, bà Nguyễn Thị Tỵ được sinh ra tại Hà Nội.Nhà các cụ ngoại ở đầu ô
Cầu Dền, số nhà 11 phố Bạch Mai. Hà Nội xưa có năm cửa ô: Ô Cầu Dền,ô Chợ Dừa,
ô Quan Chưởng,ô Cầu giấy và ô Đống Mác.
Cửa Ô Đống Mác từ ngả Hà Đông vào, ghi dấu chiến
công hiển hách của Hoàng đế Quang Trung, kết thúc bằng trận Ngọc Hồi Đống Đa,
đánh tan 20 vạn quân Thanh vào đầu năm 1789.Nơi đây còn lưu lại câu chuyện tình
tuyệt đẹp giữa công chúa Ngọc Hân với nhà vua. Khi chiếm lại được Hà Thành vào
sáng mùng 5 Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung sai ngay cận thần tức tốc phi mã mang
cành đào Nhật Tân vào Phú Xuân tặng Ngọc Hân.Đây là cành đào báo tiệp mừng thắng
lợi toàn vẹn non sông.Một cử chỉ rất lãng mạn của người anh hùng áo vải.Và Ngọc
Hân cũng đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một giai phẩm văn chương tuyệt
cú.Đó là tác phẩm Ai Tư Vãn.
Cửa
Ô Cầu Giấy, từ phía Sơn Tây xuống. Nơi còn đó cái mả không đầu của tên quan Năm
Tây Hạm trưởng Henri Laurent Rivière bị quân Cờ Đen của tướng Lưu Vĩnh Phúc
chém chết khi hắn cố tình đánh chiếm Hà Thành.Trong bài hát Tiến về Hà Nội của
nhạc sĩ Văn Cao khi khởi nghĩa Cách mạng thành công, có những câu:
Trùng trùng quân đi như sóng/Lớp lớp
đoàn quân tiến về/…Năm Cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về/Như đài hoa đón mừng nở
năm cánh đào/… Hà Nội bừng Tiến quân ca…
Khi
còn là một thiếu nữ, bà nhạc tôi theo bố mẹ làm nghề giò chả.Có lần bà kể cho
con cháu nghe cái thời bà đi bán rong giò chả khắp 36 phố phường.Bước chân của
bà thông thuộc mọi đường ngang ngõ tắt.Cũng như nhiều người bán rong giò chả
khác, không bao giờ nghe tiếng rao của họ như những người bán rong các mặt hàng
khác.Hồi đó, Hà Nội ít tiếng ầm ầm, ồn ả của động cơ ô tô, bình bịch.Những tiếng
rao đêm đã thấm vào từng viên đá lát, từng mái ngói rêu phong và hằn sâu vào ký
ức mọi người. Tôi có ý định viết cái tùy bút “Tiếng rao đêm” của Hà Thành.Này
đây tiếng rao: “Phơ ơ ơ ơ”kéo rền con ngõ nhỏ Phất Lộc. Gánh phở này sau này
làm ăn khấm khá đã trở thành một hiệu phở đắt khách. Này đây tiếng rao “lục tào
xá…á a!”,”bánh khúc đê…ê ê”,”lạc rang húng lìu đê…ê”…Lại có chú Tiều chuyên bán
cái thứ quà trẻ con rất thích với tiếng rao như một khúc nhạc: “bi doong doong,
bi dòong dòong”. Tiếng rao đi kèm cái lục
lạc reng reng nghe rất vui tai.Người Hà Nội ít ai quên bóng dáng ông xẩm mù với
chiếc chiếu đơn kẹp nách,một cái chuông đồng nho nhỏ và chiệc gậy dò đường.Gần
nửa đêm ông mới lò dò đi từ đầu phố Hàng Đào lên chợ Đồng Xuân. Lúc này các bà
chủ hiệu tơ lụa Hàng Đào, Hàng Ngang và các bà chủ các cửa hàng bánh kẹo Hàng
Đường và các bà tiểu thương chợ Đồng Xuân đã ổn định việc buôn bán tất bật
trong ngày, cần thư giãn gân cốt, cần đấm bóp cho lưu thông mạch máu nên phải nhờ
đến cái món tẩm quất. Đầu tiên người ta nghe rao tiếng “tẩm” cùng với tiếng
chuông nhỏ kéo dài đến một chục bước chân mới buông tiếng “quất” ra, nghe rất
buồn. Tiếng rao “tẩm…quất”.vang lên trong đêm Hà Nội sao nghe da diết quá!
Trong
cái thúng đội trên đầu của bà nhạc tôi có đủ các loại giò và chả.Giò gương to bảy
phân, mười hai phân, có những khoanh chả quế vàng ươm, thơm phức và những cái
bánh dày còn thơm mùi nếp cái hoa vàng của làng Nhị Khê, Thường Tín – nơi có
câu chuyện “Rắn báo oán” huyễn hoặc – đã làm cho gia tộc Ức Trai tiên sinh chịu
cái án oan tru di tam tộc do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh gây nên. Vụ án Lệ Chi
Viên mãi gần đây (tức là 600 năm sau mới được giải oan).Đền thờ nữ học sĩ Nguyễn
Thị Lộ được nhân dân Hà Nội dựng tại làng Khương Thượng, bên cạnh lăng Nguyễn
Trãi.Ở tỉnh Thái Bình, tại làng Tân Lễ, còn gọi là làng Hới, quê hương của Nguyễn
Thị Lộ cũng đã xây đền thờ thờ Bà.
Nhạc
phụ của tôi là ông Nguyễn Viết Điền, người cùng làng với nhạc mẫu tôi ra Hà Nội
làm ăn từ đầu thế kỷ 20.Ông rất giỏi nghề thợ may Tây, có cửa hiệu ở phố Tràng
Tiền mang tên Hiệu may Cát Thịnh. Tràng Tiền trước đây còn mang tên tên toàn
quyền Paul Bert (rue Paul Bert)là con phố sang trọng nhất, đi thẳng từ bờ hồ
Hoàn Kiếm đến Nhà hát lớn.Trên dãy phố này còn có một ngôi nhà 6 tầng, cao nhất
Hà Nội lúc bấy giờ. Đó là nhà in IDEO, sau này là nhà in báo Nhân Dân.Góc phố
ngã tư phía Hàng Bài, thời Pháp thuộc có tên là Boulevard Dong Khanh. Cửa hàng
mang tên Gô – Đa chiếm cả ba mặt tiền: Tràng Tiền, Hàng Bài và phố Hai Bà Trưng.
Sau giải phóng thủ đô, Thương xá Gô – Đa được Sở Thương nghiệp Hà Nội bố trí làm
cửa hàng Bách hóa tổng hợp to nhất Hà Nội.
Ông
nhạc tôi trông coi hiệu may Cát Thịnh.Hà Nội còn có những hiệu may âu phục nổi
tiếng như Tiến Thành phố Lê Thái Tổ, Anh Quân, Bùi Huy Nhượng… ở phố Hàng Trống
và các hiệu may áo dài, áo cánh ta, áo bông chần hạt lựu…thì nằm rải rác ở phố
Lương Văn Can và phố Hàng Quạt.
Bà nhạc tôi thì quản lý hiệu Cơm tám giò chả ở
108 phố Huế, đối diện với rạp cinéma Đại Nam bên kia đường.Ngôi nhà này thông
sang phố Mai Hắc Đế.Nhà được nhượng lại cho Bà Anh Phương và bà đã mở hiệu sách
Anh Phương. Ông bà Tân Việt tậu ngôi nhà
60A phố Huế và mở hiệu ăn Cơm tám giò chả Tân Việt, vừa sản xuất giò chả vừa
bán hàng cơm.Cũng chính vì ông bà Tân Việt có hai cửa hàng lớn nằm ở vị trí đắc
địa của trung tâm Hà Nội nên Ban Cải tạo đã đưa vào danh sách cần cải tạo nhà
tư sản dân tộc Nguyễn Viết Điền Nguyện Thị Tỵ.Cho đến lúc tiến hành cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh (thời gian từ năm 1956-1960) thì đưa vào
công tư hợp doanh với lợi tức thường niên được chia lãi là 3 đồng 3 hào tiền
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa! Cái tên Cơm tám giò chả Tân Việt
được thay tên mới là Cửa hàng ăn uống 60 phố Huế (thuộc công ty Ăn uống khu Hai Bà).
***
7. CHUYỆN CÂY ĐA BÀ TỀ.
Tôi còn nhớ như in, khoảng giữa năm 1961 vợ chồng
chúng tôi về Ước Lễ dự Hội Chùa Sổ.Từ phía làng Trừ lên,khi ngang qua cánh đồng
ta bắt gặp một cây đa to mọc đơn độc giữa đồng,có tên là cây đa Bà Tề, rồi vào
làng. Gọi là cây đa Bà Tề vì quán nước Bà Tề dựng tựa vào gốc đa này.Tôi đã tò
mò hỏi chuyện và giờ đây xin kể lại để hầu bạn đọc.Vợ chồng chúng tôi đi bộ thấm
mệt. Lúc này nhà tôi có mang đứa con đầu lòng.Đó là cháu Nguyễn Triệu Quang.Người
đàn bà bụng mang dạ chửa mà phải đi bộ một quãng đường khá xa, gần 4 kilômet là
điều không nên. Chúng tôi bèn vào nghỉ một lúc ở quán Bà Tề, ngồi trên một chiếc
ghế băng làm bằng những đoạn tre ghép lại.Trên chõng có cái ấm giỏ đựng nước vối
và vài ba chiếc bát ăn cơm Bát Tràng để rót nước cho khách.Phía bên trong là một
cái giường tre, ngăn với bên ngoài là một chiếc chiếu rách thủng nhiều chỗ. Có
đến năm sáu đứa trẻ tuổi chừng một hai cho tới sáu bảy tuổi.Mặt mũi đầy rãi nhớt,
đen nhẻm.Có đứa khóc, có đứa cãi nhau chí chóe. Ông Tề, khoảng trên 30 tuổi
nhưng trông già như gần 50.Người gầy nhong nhỏng cao, nước da sạm nắng, rót nước
cho chúng tôi. Tôi tò mò hỏi: -Hai bác có mấy cháu?.-Dạ sáu đứa.-Làm sao mà đẻ
lắm thế? - Không dấu gì anh chị.Nhà chúng tôi nghèo nên phải tất bật làm ăn.Tôi
thì đi làm thuê.Ai thuê làm gì thì tôi làm việc đó. Gánh phân, làm cỏ, bổ củi
và nhiều việc không tên khác.Nhà tôi trông coi cái quán nước này, thu nhập
không đáng kể.Thằng nhớn hiện đi mò cua bắt ốc ngoài đồng chưa về.Tuy cháu mới
7 tuổi nhưng cũng đã đỡ đần cho bố mẹ được nhiều việc.Có nhiều đêm trằn trọc
mãi không sao ngủ được.Cái để chóng quên đi cuộc đời nghèo khó này là rượu
nhưng tôi lại không uống được rượu. Vậy nên vỡ kế hoạch triền miên, liên tiếp
ba năm đôi!Tuy nghèo nhưng vợ chồng chúng tôi vẫn yêu thương nhau.Đói no có
nhau.Chúng tôi cũng không trách trời cao đất dày. Cái số mình nghèo thì đành chịu
vậy!
Nghe
ông Tề kể mà lòng chúng tôi thấy xót xa, ngậm ngùi.Tôi thật không sao hiểu nổi
hoàn cảnh của ông bà Tề. Hình như họ không có liên hệ gì với thế giới văn minh
của loài người.Không những ông bà Tề không biết chữ. Đến như các cháu đáng lẽ
phải vào mẫu giáo hoặc cắp sách đến trường thế mà chúng chỉ quẩn quanh gốc đa.Lớn
lên một chút thì làm bạn với con cua, con ốc!!!
Giờ
đây cây đa và quán nước Bà Tề không còn nữa.Con đường đất xưa thay thế bằng con
đường bê-tông thẳng vào cuối làng. Một khu đất rộng cạnh cổng cuối làng là bãi
đậu xe hơi.Có tới hơn mấy trăm chiếc xe cùa những người con xa quê ở khắp mọi
miền đất nước và cả ỏ hải ngoại tìm về quê cha đất tổ trong những ngày đầu xuân
này.Nhìn dòng người tấp nập ra viếng chùa và đặt hương hoa lên các ngôi mộ, bất
giác tôi nghĩ đến mấy câu thơ của Đỗ Trung Quân:
Quê hương mỗi người chỉ một/Như là
chỉ một Mẹ thôi/Quê hương nếu ai không nhớ/Sẽ không lớn nổi thành người…
***
8.THẮP HƯƠNG NHÀ THỜ TỔ PHỤ
Xe
dừng trước cổng nhà của vợ chồng cô Mai Hương.Chồng Mai Hương là cựu chiến binh
Đặng Chí Hòa, con trai thứ của cụ Đặng Gia Xá, người làng Ước Lễ. Cụ Đặng Gia Xá
ra Hà Nội lập nghiệp bằng nghề thợ may Tây từ những năm đầu thế kỷ 20, ở tại phố
Lý Quốc Sư gần Nhà thờ lớn Hà Nội.Hòa không may bị bệnh nặng, qua đời lúc 55 tuổi
cách đây ba năm. Cơ ngơi của vợ chồng Hòa Hương
khá rộng, chừng hơn 1000 mét
vuông, có ngôi nhà 2 tầng thoáng mát, có khoảng sân rộng đủ chỗ đỗ cho 4 chiếc
xe con và một bức vườn trồng những loại cây ăn quả: bưởi,na,khế…Một cái ao cá to,
mỗi mùa tháo khoán cũng được hơn tấn cá các loại.
Từ
đây,tất cả chúng tôi đi bộ vào nhà thờ tổ phụ để dâng hương. Ngôi từ đường này
là nhà của các cụ tổ sinh sống từ đời này qua đời khác của dòng họ Nguyễn Viết.Trong
khuôn viên từ đường hiện có nhà của người con bác Cả Nguyễn Viết Sửu tên là
Nguyễn Viết Toàn ở để tiện bề hương khói thờ phụng. Chúng tôi qua nhà người em
tên là Nguyễn Viết Phong, con ông chú ruột thắp nhang cho cô chú Vân rồi mới đi
ra chùa Sổ. Nghĩa địa làng tọa lạc ngay
trước mặt chùa.
Bên
cạnh cổng cuối làng, phía tay phải là Đài tưởng niệm, nơi thờ các anh hùng liệt
sĩ của làng. Làng Ước Lễ tuy nhỏ, dân số ít nhưng đã cống hiến cho hai cuộc chiến
tranh vệ quốc đánh Pháp và đuổi Mỹ những người con thân yêu của mình. Trên tấm
bia lớn đặt trang trọng chính giũa đền ghi rõ tên tuổi hai Bà mẹ Việt Nam anh
hùng Nguyễn Thị Lượng và Nguyễn Thị Cát. Tiếp đó là danh sách 70 liệt sĩ với đầy
đủ ngày tháng năm sinh, ngày hy sinh.Khuôn viên tuy nhỏ nhưng người dân Ước Lễ
cũng trang trí nhiều cây cảnh đẹp, có ghế đá cho khách nghỉ chân. Đứng trước
anh linh các liệt sĩ, lòng mình tự nhiên thấy rưng rưng, bồi hồi xúc động nhớ về
những năm tháng chiến tranh khốc liệt. Và dù đã qua đi gần 40 năm, những ký ức
cuộc chiến vẫn hiện về rõ mồn một trong tôi.Tự hào biết mấy mình cũng đã từng
được làm anh lính “Bộ đội Cụ Hồ”!
Lễ
hội Chùa Sổ năm nay không tổ chức lớn vì chùa đang được trùng tu.Mọi người dâng hương trước tượng Phật
Bà Quan âm và cúng dường vào hòm công đức ngay trước cổng chùa.Chúng tôi ra
nghĩa địa và thắp nhang mộ tổ, mộ các cụ nội ngoại và bố mẹ cùng những người
thân thích trong dòng tộc đã về cõi vĩnh hằng.
Một
nét rất đặc biệt của làng Ước Lễ là ngay sau khi ở chùa, ở nghĩa trang về.Bữa
tiệc của nhiều gia đình, ngoài các món giò chả, thịt gà, trên mâm cơm đều có
món thịt cầy dựa mận.Nếu gia đình nào không mổ cầy thì ra chợ nhỏ đầu làng mua
về.Chợ vẫn là trên nền chợ ngày xưa. Cây đa tỏa bóng trùm lên một khoảnh đất rộng.
Gốc đa nhiều rễ và dưới gốc ngày trước có rất nhiều ông bình vôi.Con đường
chính xuyên qua làng Ước Lễ từ đầu làng đến cuối làng khá rộng, đã được bê-tông
hóa. Ôtô
con có thể lưu thông dễ dàng.
Hà Nội,
Nguyên tiêu Ất Mùi(5-3-2015)
Biên
Hòa,Ngày 22 tháng Giêng,Ất Mùi -Ngày giỗ Mẹ-Bà Nguyễn Thị Kim Dung lần thứ 7.(12-3-2015)
Xuân
Bảo