Trang

Thứ Bảy, 8 tháng 4, 2017

187. Một kỷ niệm với nữ sĩ Ngân Giang

187.MỘT KỶ NIỆM VỚI LỚP HỘI VIÊN HỘI NHÀ VĂN ĐẦU TIÊN.
          (Nhân kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam 1957-2017.)
Tôi xin kể vài nét về nữ sĩ Ngân Giang đểu hầu bạn đọc.  Bà tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác Hạnh Liên, Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên sinh ngày 20/3/1916 trong một gia đình Nho học ở phố Hàng Trống Hà Nội. Quê gốc làng Hướng Dương, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm, ông nội là một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc Hà, bạn thân của Đại thi hào Nguyễn Du. Lên 6 tuổi Ngân Giang được cha dạy chữ Hán và học “ké” chữ Quốc ngữ một thày hàng xóm. Người bác gái dạy cho làm thơ Đường luật.
 Lên tám, Ngân Giang đã có bài thơ đầu tiên mang tựa đề Vịnh Kiều đăng trên báo Đông Pháp với bút danh Nguyệt Quyên..Năm 16 tuổi bà in tập thơ đầu tiên Giọt lệ xuân, ký bút danh Hạnh Liên. 20 tuổi bà viết cho Ngọ báo. 21 tuổi bà có thơ in chung trong cuốn Duyên Văn.22 tuổi bà rời Hà Nội vào Sài Gòn, viết cho các tờ Điện Tín nhật báo và báo Mai. Sau bà trở ra Hà Nội viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Đàn Bà. Năm 1939, thi phẩm Trưng nữ vương ra mắt, gây tiếng vang trên thi đàn.
Đầu năm 1944, Ngân Giang tham gia Mặt trận Việt Minh. Trong năm này, bà cho in tập thơ Tiếng vọng sông Ngân. Năm  1946, Ngân Giang phụ trách Ban Lễ tân Bộ Nội vụ, cho in cuốn Những ngày trong hiến binh Nhật. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bà ra chiến khu công tác tại Sở Tuyên truyền Liên khu I. Do hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn, năm 1949 bà hồi cư về lại Hà Nội, vẫn làm thơ đăng trên các báo Hồ Gươm, Quê hương, Tia sáng, Giang sơn…ký bút danh “Nàng Không tên”.
Hòa bình lập lại.Năm 1954 bà làm việc ở Sở Văn hóa Hà Nội. Năm 1957,thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, bà được kết nạp chính thức vào Hội. Đây là lớp hội viên đầu tiên của Hội Nhà Văn Việt Nam. Từ năm 1958 đến năm 1961 bà làm việc tại Hội Nhà văn. Chả hiểu vì sao bà về quê gốc sinh sống và hoạt động văn nghệ quần chúng???. Có một người đàn ông bị bà khước từ quan hệ nên bị ông ta thù ghét và vu cáo bà thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm. Buồn chán Ngân Giang quay về Hà Nội, để rồi ngày ngày ra bãi sông Hồng quét lá khô để bán, tối về rửa bát thuê, nhưng cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho những đứa con lay lắt sống qua ngày. Khi không còn sức lực quét lá nữa bà ra đầu đường mở quán chè chén bán nước.
Có một Vụ án từ một bài thơ. Chuyện là thế này: Sau ngày tiếp quản thủ đô (10-10-1954), luật sư, dân gian thường gọi là trạng sư hay thày cãi Nguyễn Thành Vĩnh, phó chánh án Tòa án Hà Nội nhận được đơn kiện vợ. Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Hàm, chồng. Bị đơn là bà Đỗ Thị Quế, vợ. Tang vật chứng chỉ có duy nhất một bài thơ. Nguyên văn bài thơ như sau (không có tựa đề):
          Đêm nay thôi đã mấy đêm rồi!
          Ai biết đâu rằng ai nhớ ai?
          Lất phất hoa bay vào cửa vắng
          Nghiêng nghiêng mưa hắt mái hiên ngoài
          Trăng soi đã hẳn soi hai ngả
          Gió lạnh sao đành lạnh một nơi
          Cầm bút toan đề thơ lại đặt…
          Gối nào nước mắt có rơi rơi?!
 Đây là bài thơ bà Đỗ Thị Quế viết từ những năm 1949,1950 khi bà dắt díu đàn con từ chiến khu  hồi cư Hà Nội. Bà bùi ngùi thương nhớ các anh, các chị ngoài kháng chiến gian khổ mà cũng tủi phận mình nửa đường bỏ cuộc. Bài thơ được chép trong sổ tay.Lâu ngày bà Quế cũng quên đi.Thế rồi ông Hàm vô tình nhặt được và cho là có ý ngoại tình nên ông đâm đơn ra tòa đòi ly dỵ.
        Trạng sư Nguyễn Thành Vĩnh, khi xem xét hồ sơ, cảm thấy bài thơ hay nên nổi máu nghệ sĩ làm luôn bài họa:
         Đèn rong xem đã mấy đơn rồi
                  Thao thức canh trường những xót ai!
                  Tài nức tao đàn hoa gác phượng,
                  Thân cam tù túng phận hiên ngoài,
                  Cô đơn dị mộng tuy chung gối
                  Tri kỷ tương phùng vẫn cách nơi
                  Giải phóng mới rồi vươn cánh rộng
                  Tiếng thơ dìu dặt ngọc vàng rơi.
  PhiênTòa được mở sau đó vài tháng và cũng chỉ diễn ra khoảng một giờ đồng hồ.Thay mặt Tòa, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh hỏi nguyên đơn:
 - Ông Nguyễn Văn Hàm có chấp nhận bản án ly hôn với bà Đỗ Thị Quế hay còn có khiếu nại gì không?
 - Thưa quý Tòa,tôi chấp thuận hoàn toàn.
-  Tòa hỏi bị đơn:
-  Vậy ý kiến của bà Đỗ Thị Quế?
          Bà Đỗ Thị Quế đứng dậy vừa nói vừa có vẻ như cười. Bà bình thản:
 - Thưa quý Tòa. Tôi làm thơ từ lúc 6 tuổi.Thay vì nói, tôi xin đọc mấy vần thơ tâm trạng:
         Ngày chửa sang thu đã thấy buồn
         Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn
         Thân không trời đất mà mưa gió
         Người ở đầu thôn, mộng cuối thôn
Cả phòng xử án sửng sờ và cảm phục tài thơ của bà Đỗ Thị Quế, tức nữ sĩ tài hoa Ngân Giang.
                                                                   ***
Có một thi thoại gây chấn động Sài Thành lúc bấy giờ là: Giáo sư Lâm Tấn Phát, tức nhà thơ Đông Hồ,( chồng nữ sĩ Mộng Tuyết), giảng viên Đại học Văn khoa Sài Gòn đang trên bục giảng, giảng bài thơ Trưng nữ vương của Ngân Giang, đến đoạn kết:

Ải Bắc quân thù kình vó ngựa
   Giáp vàng, khăn lạnh trở đầu voi
   Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
   Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi
Nhưng chỉ tới câu thứ ba (Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá) thì giáo sư xúc động  ngất lịm đi, và ông từ giã cuộc đời giữa cái tang của Thi Sách. Bài thơ gây xúc động mãnh liệt đến nỗi giáo sư bị đột quỵ. Ông ra đi vào ngày 25-3-1969, ở độ tuổi 63.
Nữ sĩ Ngân Giang sống hẩm hiu như vậy, trải hơn 30 năm giữa lòng Hà Nội ngàn năm văn hiến cho đến ngày 17 tháng 8 năm 2002 thì từ giã trần gian và được đưa về chôn tại quê gốc làng Hướng Dương, huyện Thường Tín, nay thuộc Hà Nội.
Những năm bà còn sống ở bãi Nghĩa Dũng, Hoàng Quốc Hải và một số văn nhân Hà Thành như Nguyễn Tuân, Hoàng Tiến, Trần Lê Văn…thường ra bãi thăm nữ sĩ, đàm đạo văn chương.
          Nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam, Hội hôm nay có đến hàng ngàn hội viên. Tự nhiên tôi thấy đau buồn và không quên nhớ đến một tài thơ của đất nước bị lãng quên trong xót xa!
Và đây là bài thơ Trưng Nữ Vương của nữ sĩ Ngân Giang:
Trưng Nữ Vương
Thù hận đôi lần chau khoé hạnh
Một trời loáng thoáng bóng sao rơi
Dồn sương vó ngựa xa non thẳm
Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi

Ngang dọc non sông đuờng kiếm mã
Huy hoàng cung điện nếp cân đai
Bốn phương gió bão dồn chân ngựa
Tám nẻo mưa ngàn táp đoá mai

Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ
Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai
Hồn người chín suối cười an ủi
Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi

Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận
Non hồng quét sạch bụi trần ai
Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận
Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời...

Ải bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi
1939
                       
(Bên bờ Phước Long Giang, đêm 12 tháng 3 Đinh Dậu)
Nhà thơ Xuân Bảo, tức Tú Sừng, Trực Ngôn  


Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

185. Thăm Thủy điện Hòa Binh

XUÂN ĐINH DẬU HÀ THÀNH DU KÝ.

 4.Thăm Thủy điện Hòa Bình.

Đà Giang hung bạo và trữ tình.

Cũng như Cụ Nguyễn, tôi không thích kiểu dịch sang tiếng Anh (black river) và sang tiếng Pháp (rivière noire), sông Đà thành sông Đen. Nước Đà Giang chẳng bao giờ là màu đen?
Hãy nghe Cụ Nguyễn tả về màu sắc của Sông Đà: …“Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội vì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ.”(Tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân – 1960.)

Sông Đà (còn gọi là sông Bờ hay Đà Giang) là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng. Sông bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông Hồng ở Phú Thọ.
Sông Đà dài gần 1000km (có tài liệu ghi 983 km), diện tích lưu vực là 52.900 km². Ở Trung Quốc, sông có tên là Lý Tiên Giang, do hai nhánh Bả Biên Giang và A Mặc Giang hợp thành.  Đoạn ở Trung Quốc dài khoảng 400 km từ núi Nguy Bảo ở huyện tự trị người Di, người Hồi Nguy Sơn phía nam châu tự trị dân tộc Bạch Đại Lý chảy theo hướng tây bắc - đông nam qua Phổ Nhĩ.
Đoạn ở Việt Nam dài 527 km. Chỉ đứng thứ 2 sau sông Đồng Nai (586 km) về độ dài của những con sông Việt Nam. Điểm đầu là biên giới Việt Nam-Trung Quốc tại huyện Mường Tè (Lai Châu). Sông chảy qua các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ (phân chia huyện Thanh Thủy, Phú Thọ với Ba Vì, Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Hồng Đà, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.
Đoạn đầu sông trên lãnh thổ Việt Nam, sông Đà còn được gọi là Nậm Tè. Các phụ lưu trên lãnh thổ Việt Nam gồm Nậm Na (ở tả ngạn), Nậm Mức (ở hữu ngạn).Nậm có nghĩ là nước.
Lê Quý Đôn viết về sông Đà như sau:"... Sông Đà ở về bên trái sông Mã, phát nguyên từ châu Ninh Viễn tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy đến bên phải chỗ ngã ba thuộc huyện Kiến Thủy, ... (Đoạn này Quý Đôn nói về sông Mê Kông và nhầm 2 sông thông với nhau) ..., về đường chính có một chi chảy xuống làm thành sông Hắc Thủy, chảy qua Tuy Phụ (Mường Tè), Hoàng Nham (Mường Tông), Khiêm Châu đến Mường Lễ thuộc Lai Châu nước ta. Về bên trái là sông Na, từ sông Kim Tử (Kim Thủy Hà, châu Quảng Lăng (Mãnh Lạp, Meng La)) chảy đến hội tụ, đấy là sông Đà, nước sông trong suốt, chảy xuống các động Phù Tây, Hảo Tế thuộc châu Quỳnh Nhai, về bên trái hợp lưu với Tề Giang chảy qua các xứ Vạn Mỏ thuộc châu Thuận, Vạn châu, Vạn Lộc thuộc châu Mai Sơn, Vạn Thụy, Vạn Giang, Hinh Miêng thuộc châu Mộc đều về bên phải. Đường sông thác ghềnh hiểm trở, gồm 83 thác có tiếng (tên), mà Vạn Bờ là thác nguy hiểm thứ nhất, bờ bên phải là Thượng Động, Hạ Động thuộc châu Mai, bờ bên trái là các động Tân An, Hào Tráng, Hiền Lương, Dĩ Lý thuộc châu Mộc. Hạ lưu, về bên trái chảy qua Vĩnh Điều, Thái Hòa, Vô Song, Sơn Bạn, Tu Vũ, Phượng Mao, Lăng Sương, Đồng Luận, Đoan Thượng, Đoan Hạ, Bảo Khang, Thượng Lạc, Đồng Lâm, La Phù, Hoa Thôn, Thạch Uyển, Quang Bị, Hạ Bì, La Thượng, La Hạ thuộc huyện Bất Bạt, đến Hoàng Cương, Hạ Nông và xứ Gót Nung thuộc huyện Tam Nông hợp lưu với sông Thao."
Lưu vực có tiềm năng tài nguyên to lớn với nhiều loại khoáng sản quý hiếm, các hệ sinh thái đặc trưng các nguồn sinh vật với mức đa dạng sinh học cao.Hiện tại đã có 10 cây cầu bắc qua sông Đà.
Sông có lưu lượng nước lớn, cung cấp 31% lượng nước cho sông Hồng và là một nguồn tài nguyên thủy điện lớn cho ngành công nghiệp điện Việt Nam. Năm 1994, khánh thành nhà máy thủy điện Hoà Bình có công suất 1.920 MW với 8 tổ máy. Năm 2005, khởi công công trình thủy điện Sơn La với công suất theo thiết kế là 2.400 MW. Đang xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu 1.200 MW, dự kiến hoàn thành tháng 12 năm 2016. Ở thượng nguồn con sông này còn thủy điện Huội Quảng – Bản Chát có công suất 740MW. Như vậy Sông Đà đã cung cấp cho đất nước với tổng công suất 5 nhà máy thủy điện này lên tới 6.260 MW.
 Thủy điện Hòa Bình được coi là công trình thế kỷ, lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ, nhưng so với Thủy điện Sơn La “con rồng thủy điện” lớn nhất của nước ta thì cũng là “đàn em” mà thôi.
                                                ***
Như vậy, có thể nói công việc “trị thủy Sông Đà” đã thành công mỹ mãn. Tinh thần lao động không mệt mỏi của hàng vạn công nhân, kỹ sư, công trình sư và hàng ngàn bộ óc của con người được trang bị những kiến thức tầm cỡ thời đại đã bắt dòng sông hung bạo này trở nên hiền hòa, trữ tình.

           Ngày nay, chúng ta và mãi mãi sau này con cháu chúng ta có thể ung dung dạo thuyền trên 5 cái lòng hồ mênh mang mà trước đây là nơi mà 83 cái thác ghềnh nổi tiếng hiểm trở, hung dữ mà Vạn Bờ là nguy hiểm nhất ngự trị. Chỗ đó, ngày xưa là thác Bờ, chợ Bờ, động Thác Bờ và ngày nay là khu du lịch Thung Nai đẹp và hấp dẫn nhất Xứ Mường! Chỗ đó, giờ đây là 2 ngôi đền thờ Bà Chúa thác Bờ - người con gái của dân tộc Dao và dân tộc Mường đã có công giúp vua Lê đánh đánh thắng lũ xâm lược phương bắc.

Thư của những người thợ điện gửi thế hệ 2100.

Tại sân Nhà truyền thống Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình chóp cụt, trên đó có tấm biển thép khắc chìm dòng chữ: "Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư sẽ được mở vào ngày 1-1-2100". "Kho lưu trữ" lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình chóp cụt tứ giác đều (4 mặt bên hình thang) có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không được "chôn" vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.
          Cuối năm 1956, trên những chiếc xe ca mang nhãn hiệu Trai-ca (tiếng Nga dịch sang tiếng Việt là Hải âu) của nhân dân Liên Xô viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đoàn cán bộ tăng cường cho Khu Tư trị Thái Mèo (sau đổi thành Khu Tự trị Tây Bắc) lên đến thị xã Hòa Bình trong một buổi sáng đẹp trời. Đoàn được Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình đón tiếp rất nồng nhiệt. Trong buổi gặp gỡ này có một số học sinh con em miền Nam cùng dự. Tôi có chụp mấy kiểu ảnh để làm kỷ niệm. Tôi nhớ có 2 em lớn nhất lớp tên là Ngọc Nữ và Lệ Thu. Lâu quá, ảnh mất mà tin người cũng vắng?!
          Đoàn chúng tôi được ra thăm Sông Đà.  Đây là đoạn sông mà sau này, Việt Nam và Liên Xô khởi công xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng và vận hành. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành thì đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á.
Công trình khởi công xây dựng ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Công suất sản sinh điện năng theo thiết kế là 1.920 megawatt, gồm 8 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 240 MW. Sản lượng điện hàng năm là 8,16 tỷ kilowatt giờ (KWh).
Ngày 12 tháng 01 năm 1983: Ngăn sông Đà đợt 1
Ngày 09 tháng 01 năm 1986: Ngăn sông Đà đợt 2
Ngày 30 tháng 12 năm 1988: Tổ máy số 1 hòa lưới điện quốc gia.
Ngày 04 tháng 04 năm 1994: Tổ máy số 8 hòa lưới điện quốc gia.
Ngày 20 tháng 12 năm 1994, sau 15 năm xây dựng công trình, trong đó có 9 năm vừa quản lý vận hành vừa giám sát thi công các tổ máy, Nhà máy thủy điện Hoà Bình đã được khánh thành. Vốn đầu tư công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình với giá trị là: 1.904.783.458.926 đồng. Số tròn gần 2.000 tỷ đồng.
. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội. Tưới tiêu, chống hạn cho nông nghiệp. Đập thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô. Điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông.
Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền nam và miền trung Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng thủy điện Hòa Bình,168 người đã hy sinh,trong đó có 11 công dân Liên Xô. Chúng ta nghiêng mình tưởng nhớ những người con của đất nước Lénin, của những đại văn hào, thi hào Lev Tolstôi, Marxim Gorki, Puskin. Maiacovski...
Bia tưởng niệm những người đã hy sinh vẫn còn ở đây.
                  
                                                ***

Khi trở về Hà Nội, chúng tôi đi qua thành phố Hòa Bình. Đây là một thành phố trẻ, đường phố rộng thênh thang, nhà cửa phần lớn là nhà xây mái bằng. Vỉa hè phong quang. Có nhiều biệt thự núp trong vườn cây ăn trái. Các công sở đều được xây mới theo kiểu kiến trúc hiện đại, (thay cho những ngôi nhà tranh tre nứa lá mà hơn 60 năm về trước (1956) khi đoàn cán bộ tăng cường cho Tây Bắc ghé lại thị xã Hòa Bình). Ngang qua trụ sở Hội Văn học-Nghệ thuật Hòa Bình, tôi bỗng nhớ về một kỷ niệm. Tôi nhớ về người bạn tâm giao-nhà văn Nguyễn Duy Thinh- vốn là kỹ sư địa chất - khi anh cùng tôi dự trại Sáng tác Đà Lạt, anh đã viết một cái truyện ngắn Hoa pensée chiều mưa Đà Lạt lấy ý tưởng từ tác phẩm Bình minh mưa của nhà văn Nga Pautovski và cốt chuyện là mối tình đầu của tôi. Truyện ngắn này được đăng tải trên tờ Văn nghệ Hòa Bình. Lúc này nhà văn Nguyễn Anh Viên làm chủ tịch Hội kiêm tổng biên tập tờ Văn nghệ Hòa Bình. (xin xem blog của tôi: xuanbaohanoi.blogspot.com.vn bài số 56 có tựa đề Tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Duy Thinh, trên đó có truyện ngắn Hoa pensée chiều mưa Đà Lạt. Lúc sinh thời, có lần nhà văn Nguyễn Duy Thinh cho tôi biết khi anh đi tìm quặng ở núi rừng Hòa Bình, anh đã quen biết và chơi thân với nhà văn Nguyễn Anh Viên.

                                                ***

Đường dây 500 kV Bắc-Nam và những tai tiếng.

Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt là người đề xướng xây dựng đường dây 500 kV Bắc Nam. Và người giúp việc đắc lực nhất cho đề án này được thành công là bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải. Tôi còn nhớ, khoảng mùa thu năm 1994, tôi được mời dự nghe báo cáo tiến độ Công trình Đường dây 500 kV tại hội trường Công ty Điện lực miền Nam. Một tấm bản đồ giăng hết sân khấu. Trên đó ghi chú những địa phương đường dây sẽ đi qua. Những số liệu về khảo sát, thiết kế và thi công…
Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 là công trình đường dây truyền tải điện năng (điện xoay chiều) siêu cao áp 500kV đầu tiên tại Việt Nam có tổng chiều dài 1.487 km, kéo dài từ Hòa Bình đến thành phố Hồ Chí Minh. Mục tiêu xây dựng công trình là nhằm truyền tải lượng điện năng dư thừa từ Miền Bắc Việt Nam (từ cụm các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà; nhiệt điện Phả Lại, Uông Bí, Ninh Bình) để cung cấp cho miền Nam Việt Nam và miền Trung Việt Nam lúc đó đang thiếu điện nghiêm trọng, đồng thời liên kết hệ thống điện cục bộ của ba Miền thành một khối thống nhất.
Đường dây 500kV Bắc - Nam, bên trái là mạch 1, bên phải là mạch 2 (mỗi mạch có 3 pha, mỗi pha có 4 dây)
Từ sau chủ trương đổi mới vào năm 1986, kinh tế Việt Nam có những bước chuyển biến tích cực. Giai đoạn 1990 – 1995, tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp bình quân đạt từ 12% đến 14%, GDP tăng từ 5,1% vào năm 1990 đến 9,5% vào năm 1995. Nhu cầu tiêu thụ điện năng cũng gia tăng hằng năm, cụ thể là 13,12% vào năm 1993; 18,43% vào năm 1994 và 20,62% vào năm 1995 (so với năm trước). Khu vực miền Nam và thành phố Hồ Chí Minh có sự phát triển tốt về kinh tế nhưng việc phát triển nguồn điện ở khu vực này không đáp ứng kịp nhu cầu tăng trưởng. Trong giai đoạn từ 1991 đến 1994 chỉ có Nhà máy Nhiệt điện Bà Rịa - 230MW được đưa vào vận hành. Công suất lắp đặt của Miền Nam chỉ đáp ứng được 89,73% (lắp đặt 1005MW, nhu cầu 1120MW) nên phải hạn chế phụ tải bằng cách cắt điện luân phiên hoặc đột xuất hầu như tất cả các ngày trong tuần.
Khu vực miền Trung được cấp điện chủ yếu qua đường dây 220kV Vinh – Đồng Hới lấy điện từ Hòa Bình, đường dây 66kV từ Nhà máy thủy điện Đa Nhim cấp cho Cam Ranh, Khánh Hòa và một số nguồn diesel nhỏ tại chỗ. Do đường dây quá dài nên công suất truyền tải bị hạn chế và chất lượng điện cuối nguồn không đảm bảo, thường xuyên bị sụp đổ điện áp ở các khu vực Quảng Nam, Quảng Ngãi. Công suất lắp đặt của miền Trung chỉ đáp ứng được 40,91% nhu cầu (lắp đặt 90MW, nhu cầu 220MW).
Việc xây dựng đường dây siêu cao áp thống nhất hệ thống điện đã được đề cập đến trong tổng sơ đồ phát triển lưới điện giai đoạn 1 (1981 – 1985) của Việt Nam được thiết lập với sự hợp tác của Liên Xô. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của công trình do Nhật Bản tài trợ thực hiện tặng cho Chính phủ Việt Nam. Đến ngày 25/2/1992, Chính phủ phê duyệt Luận chứng kinh tế – kỹ thuật với quyết định thời gian hoàn thành là 2 năm và do thời gian khẩn cấp nên cho phép thực hiện theo phương thức khảo sát, thiết kế, nhập vật tư - thiết bị và thi công thực hiện song song.
Năm 1990: Khảo sát lập Báo cáo nghiên cứu khả thi. Từ cuối năm 1991 – 1992: Khảo sát kỹ thuật và lập thiết kế kỹ thuật. Năm 1993: Khảo sát kỹ thuật từng vị trí và lập bản vẽ thi công.
Khối lượng khảo sát của công trình rất lớn với khoảng 2000 km khảo sát đo vẽ địa hình lập mặt cắt dọc, 500 km lập mặt cắt dọc pha; 200ha phục vụ đo bình đồ tỉ lệ 1/200 tại các góc lái; 5200m khoan thăm dò ở các vị trí có nguy cơ sạt lở; thí nghiệm khoảng 15000 mẫu đất đá... trên tổng chiều dài 1487 km đường dây và 5 trạm biến áp.
Thiết kế của công trình đã được phản biện bởi nhiều cơ quan trong nước như Viện Năng lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội và các nhà chuyên môn độc lập trong nước. Mô hình thiết kế về sơ đồ, dung lượng bù, chế độ vận hành và ổn định hệ thống, thông số thiết bị, sơ đồ liên động... cũng được nhiều tổ chức nước ngoài hỗ trợ kỹ thuật và kiểm chứng như Viện Thiết kế Lưới Ukraina, Viện Thiết kế Lưới Saint Peterburg (Cộng hòa Liên Bang Nga), Công ty Nippon Koei (Nhật Bản), Công ty Hydro Queebec (Canada) hỗ trợ tính toán ổn định, Công ty Tractebel (Bỉ) hỗ trợ đào tạo thí nghiệm; Công ty PPI (Pacific Power International), bang New South Wales - Úc và SECVI (State Electricity Commission of Victoria International), bang Victoria – Úc hỗ trợ tư vấn giám sát, đào tạo quản lý vận hành, an toàn... dưới sự tài trợ của Chính phủ Úc.
Mục tiêu thiết kế đường dây là để truyền tải sản lượng khoảng 2.000GWh vào Thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm với công suất đỉnh là 600MW - 800MW; độ tin cậy là 0,8 sự cố trên 100 km đường dây mỗi năm (tương đương 12 sự cố cho toàn đường dây một năm).
Đường dây 500kV Bắc – Nam có tổng chiều dài 1487 km, có 3437 cột điện tháp sắt đi qua 14 tỉnh thành: Hòa Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Sông Bé (nay là các tỉnh Bình Phước, Bình Dương), Long An, thành phố Hồ Chí Minh; trong đó qua vùng đồng bằng là 297 km (chiếm 20%), trung du – cao nguyên là 669 km (chiếm 45%), núi cao, rừng rậm là 521 km (chiếm 35%) với 8 lần vượt sông: sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông La, sông Gianh, sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn và 17 lần vượt quốc lộ.
Công trình được Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát lệnh khởi công phần đường dây vào ngày 5/4/1992 tại các vị trí móng số 54, 852, 2702 và khởi công phần trạm biếp áp vào ngày 21/01/1993 tại trạm biến áp Phú Lâm, thành phố Hồ Chí Minh.
Các đơn vị thi công chính của công trình là Tổng Công ty Xây dựng Thủy điện Sông Đà và 4 Công ty Xây lắp điện 1, 2, 3, 4 thuộc Bộ Năng lượng.
Các trạm biến áp và trạm bù do nhà thầu Merlin Gerin – Pháp cung cấp thiết bị, thiết kế phần nhị thứ; các Công ty Xây lắp điện thực hiện việc lắp đặt thiết bị, đấu nối, các Trung tâm Thí nghiệm điện kiểm tra, thí nghiệm thiết bị. Tất cả đều được đặt dưới sự giám sát của các chuyên gia từ nhà thầu Merlin Gerin, các Công ty cung cấp thiết bị và 2 đơn vị tư vấn giám sát của Úc là PPI và SECVI.
Tổng nhân lực huy động chính thức trên công trường của các đơn vị xây lắp là khoảng 8000 người sau bổ sung thêm 4000 người thi công các khối lượng chính của công trình. Các khối lượng phụ trợ như giải phóng tuyến, làm đường, vận chuyển... do các đơn vị hỗ trợ thực hiện như lực lượng quân đội gần 4000 người (gồm Binh đoàn 12, Binh đoàn 15, Quân khu 4, Quân khu 5, Quân đoàn 1, Quân đoàn 3); các đơn vị xây lắp tại 14 tỉnh thành đường dây đi qua gần 7000 người; các đơn vị chuyên ngành cầu đường như Công ty Cầu Thăng Long, Xí Nghiệp F19 của Bộ Giao thông Vận tải, các đơn vị xây dựng cầu đường địa phương hỗ trợ thiết bị đóng cọc, xay đá, trộn bêtông...; khối lượng rà phá bom mìn trải dài trên diện tích khoảng 17000ha do các đơn vị Bộ đội công binh thực hiện.
Đến tháng 4/1994, cơ bản công trình được xây dựng hoàn tất với khối lượng sơ bộ gồm lắp dựng 3437 cột tháp sắt (trong đó có 12 vị trí đảo pha); căng 1487 km dây dẫn (mỗi pha 4 dây) và dây chống sét (hai dây chống sét, trong đó 1 dây có mang dây cáp quang); xây dựng 22 trạm lặp cáp quang, 19 chốt vận hành đường dây; đổ 280.000m3 bêtông móng với 23.000 tấn cốt thép; 60.000 tấn cột điện, 23.000 tấn dây dẫn và 930 tấn dây chống sét; 6.300 tấn cách điện.
Phần trạm biến áp gồm 5 trạm Hòa Bình, Hà Tĩnh (trạm bù), Đà Nẵng, Pleiku, Phú Lâm. Giai đoạn 1 (5/1994) chỉ mới lắp đặt 1 tổ máy 550/220/35kV - 3x150MVA tại trạm Hòa Bình và 1 tổ máy 3x150MVA tại trạm Phú Lâm. Đến tháng 9/1994, lắp đặt thêm 3 tổ máy biến áp 550/220/35kV – 3x150MVA tại các trạm Hòa Bình, Phú Lâm, Đà Nẵng và đến tháng 11/1994, lắp đặt thêm 1 tổ máy biến áp 550/220/35kV – 3x150MVA tại trạm Pleiku.
Phần nhà điều hành Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia với hệ thống SCADA theo dõi thông số vận hành toàn hệ thống điện cũng được hoàn thành vào đầu năm 1994.
Lúc 19 giờ 6 phút ngày 27/5/1994, tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của nhà máy thủy điện Hòa Bình tại trạm Đà Nẵng qua đường dây 500kV, chính thức đưa hệ thống 500kV vào vận hành.
Tổng chi phí đầu tư cho công trình là 5.488,39 tỷ đồng Việt Nam (tương đương 700 triệu đô la Úc hay 544 triệu đô la Mỹ) Phần tài trợ của Chính phủ Úc có tổng giá trị 6,5184 triệu đô la Úc thông qua chương trình Private Sector Linkages do tổ chức hợp tác quốc tế AusAID điều hành, phần đóng góp chính là của tập đoàn năng lượng Austenergy,
Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu khoản tài trợ này sau khi không đạt được thỏa thuận về việc tài trợ cho gói thầu tư vấn với Chính phủ Bỉ. Do công trình đã triển khai được 3 tháng nên ngay sau khi được Chính phủ Úc chấp thuận, AusAID đã vận dụng chương trình Private Sector Linkages để kịp cấp vốn cho gói thầu tư vấn. Năm 1997, trong báo cáo tổng kết đánh giá hiệu quả nguồn vốn tài trợ, AusAID đã đánh giá cao hiệu quả của khoản tài trợ này cho cả lợi ích phía Việt Nam và Úc.
Sau khi hoàn thành, đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 được bàn giao cho các Công ty Điện lực 1, 2, 3 quản lý. Đến năm 1995, ngành điện thay đổi cơ cấu tổ chức, thành lập Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam- EVN),
Trong quá trình vận hành, đã xảy ra một số sự cố sạt lở móng cột do mưa, bão ở Phước Sơn, Đắc Lây, Đắc Nông, Krôngnô. Các sự cố trạm nghiêm trọng là sự cố cháy pha C máy biến áp 500kV tại trạm Hòa Bình vào ngày 26/4/2000 do sét đánh và sự cố cháy pha B máy biến áp 500kV tại trạm Đà Nẵng vào ngày 18/8/2007.
Công tác bảo vệ an ninh cho việc quản lý vận hành đường dây cũng đã được đặt ra ngay từ khi đóng điện vận hành dựa trên sự phối hợp giữa các Bộ Năng lượng, Bộ Nội vụ (sau này là Bộ Công an) và Bộ Quốc phòng với các Ban chỉ đạo bảo vệ đường dây tại các tỉnh có đường dây đi qua. Dọc tuyến đường dây có bố trí 342 chốt gác, mỗi chốt cách nhau từ 5 km đến 10 km tùy theo địa hình với khoảng 1500 người ở các địa phương tham gia.
Đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 được đưa vào vận hành vào tháng 5/1994, cơ bản đã giải quyết được tình trạng thiếu điện của miền Nam. Sau khi đóng điện đưa vào vận hành máy biến áp 500kV tại Đà Nẵng (9/1994) và Pleiku (11/1994), tình hình cung cấp điện cho miền Trung đã được giải quyết căn cơ.
Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 1997, công suất truyền tải chủ yếu từ Bắc vào Nam và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản lượng cung cấp của miền Nam và miền Trung. Sản lượng phát ra ở Hòa Bình: 9,170 tỷ kWh
Công trình đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 đã xảy ra một vụ tai tiếng mua bán lòng vòng 4.000 tấn sắt thép của một số đối tượng thuộc Công ty Vinapol (Hội hữu nghị Việt Nam - Ba Lan) thông đồng với Ban Quản lý Dự án đường dây 500kV để hưởng chênh lệch 3,1 tỷ đồng. Sau khi bị phát hiện, vụ việc được quy trách nhiệm cho thư "giới thiệu" của ông Vũ Ngọc Hải – Bộ trưởng Bộ Năng lượng đương thời. Ông bị kết tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, bị kết án ba năm tù giam và thụ án tại Trại giam Thanh Xuân (thuộc V26, Bộ Công an), nhưng chỉ ở tù một năm thì được ân xá. Vụ án này còn truy tố, 2 phó Tổng Giám đốc, 2 phó Giám đốc và một số nhân vật khác, thu hồi 3,1 tỷ đồng đã thất thoát. Vụ này là tai tiếng lớn nhất từ trước đến nay.
Trong thời gian thụ án, ngày 28/05/1994, một ngày sau khi đóng điện thành công, ông Hải được Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào nhà tù để gắn kỉ niệm chương vì những công trạng của ông đã đóng góp cho công trình này. Ông Vũ Ngọc Hải là nhân vật chủ xướng lập đề án và đóng vai trò quan trọng trong việc tham mưu cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt quyết định xây dựng công trình đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1.
Vụ tai tiếng thứ 2 là lúc 13h40 ngày 22/5/2013, tại đoạn đường dây 500 kV tuyến Di Linh - Tân Định, qua khu vực phường Hòa Phú, TP Thủ Dầu Một (Bình Dương), tài xế Ngô Tấn Thảo điều khiển xe cẩu, cẩu cây dầu cao hơn 10 m tại vườn ươm gần đấy. Anh Thảo để phần ngọn cây dầu đụng vào đường dây 500 KV gây ra một tiếng nổ lớn. Ngay sau đó, toàn bộ khu vực này bị mất điện.
Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 phát huy ngay tác dụng trong toàn xã hội khi ngay sau khi đóng điện vận hành, tình trạng cắt điện luân phiên ở thành phố Hồ Chí Minh chấm dứt và nguồn cung cấp điện ổn định trong nhiều năm.
Dự án đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 cũng được biết đến với thời gian xây dựng nhanh kỉ lục (2 năm). Tuy nhiên, do tiến hành khẩn trương, nên nhiều đánh giá về tác động đến môi trường, về lợi ích kinh tế, về tác động xã hội... đã bị bỏ qua. Ngoài ra, trong quá trình triển khai, dự án cũng vấp phải những ý kiến hoài nghi của nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước (trong đó có cả Ngân hàng Thế giới) nghi ngờ sự thành công của dự án. Đặc biệt, ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản cũng có ý kiến phản đối quyết liệt cho rằng chủ trương làm dường dây 500kV là chủ trương phiêu lưu, mạo hiểm, lãng phí tiền của nhà nước. Lấy tiền của nhà nước để gây thanh danh cá nhân?
Nhưng thành công của đường dây 500kV là chủ yếu, là điều không thể chối cãi! Chỉ có tấm lòng vì nước vì dân của vị đứng đầu chính phủ - cố thủ tướng Võ Văn Kiệt – một lãnh tụ xuất sắc của toàn dân nên giờ đây đã chấm dứt được tình trạng  “đói điện” cho cả nước.
Tôi có bài thơ Những nốt nhạc đường dây để ca ngợi những người thợ điện thân yêu của chúng ta:
          Một con chim sà xuống
          Hai con chim sà xuống
          Và ba, bốn, năm con chim đậu lên hàng dây điện
          Dây điện rung cùng đàn đá Bình Đa

          Mỗi con chim là một nốt nhạc
          Đồ rê mi pha son la
          In vào không gian năm dòng kẻ
          Viết lên bản nhạc Ánh sáng quê nhà

          Một người thợ, hai người thợ
          Và ba, bốn, năm người thợ
          Vai oằn dưới sức nặng đường dây
          Kéo căng cáp điện

          Lưới điện dài ra mỗi ngày
          Bóng dáng các anh, lung cong khóa nhạc
          Lơ lửng trên cao chạm vào từng mây
          Rung lên xòn là pha mí…

          Điện về sáng một vùng quê
          Sáng sách em thơ ê a học bài
          Sáng lên những chuỗi ngày tăm tối
         
          Những con chim và những người thợ
          Là những nốt nhạc vui
          Của mọi cuộc đời.




          (Còn tiếp: Phần 5 – Thăm nàng công chúa Mỵ Châu) 

186. Xuân Đinh Dậu Hà Thành du ký (Phần 5)


186.XUÂN ĐINH DẬU HÀ THÀNH DU KÝ.

     5. Thăm nàng công chúa Mỵ Châu.

Tuy tôi sống ở Hà Nội hơn 20 năm (1955-1975) nhưng hiểu biết về Cổ Loa thành còn quá sơ sài. Lần này về thủ đô, tôi quyết định đưa nhà tôi và các cháu về thăm đền Thục Phán An Dương Vương và tìm hiểu kỹ về nàng công chúa Mỵ Châu. Thục Phán An Dương Vương là người đã tìm ra thế đất để đóng đô của một vương quốc bản địa hùng mạnh trước khi nhà Hán tới. Cổ Loa có chức năng như là một thủ đô của một chính thể phân tầng của người Việt trong thế kỷ thứ III TCN.
Sáng ngày 13/02/2017, chúng tôi thăm Cổ Loa. Đây là Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ được liệt vào Di tích Quốc gia đặc biệt.
Cổ Loa cách Hà Nội non hai chục cây số, nằm ở phía nam huyện Đông Anh. Xã Cổ Loa đông giáp xã Dục Tú, nam giáp các xã Mai Lâm và Đông Hội, tây giáp các xã Xuân Canh và Vĩnh Ngọc, bắc giáp các xã Uy Nỗ và Việt Hùng. Xã Cổ Loa gồm các thôn: Cổ Loa, Cầu Cả, Mạch Tràng, Thư Cưu, Sàn Giã.
Đầu thế kỷ thứ XIX, Cổ Loa là một làng và cũng là một xã lớn thuộc tổng   Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc.
Năm 1876, tổng Cổ Loa được tách khỏi huyện Đông Ngàn, để lệ thuộc huyện Đông Anh mới được thành lập. Từ tháng 10 năm 1901, huyện Đông Anh được đưa về tỉnh Phù Lỗ mới thành lập. Từ tháng 2 năm 1904, tỉnh Phù Lỗ đổi tên thành tỉnh Phúc Yên.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), làng Cổ Loa hợp nhất với các làng bên thành xã Thục Vương thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên. Năm 1949, xã Thục Vương được hợp nhất với xã Đạt Tam thành xã Hồng Lạc, sau đó lại đổi thành xã Độc Lập. Từ năm 1950, xã thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Về sau, xã Độc Lập được chia thành hai xã, trong đó có xã Quyết Tâm gồm các thôn: Cổ Loa, Cầu Cả, Mạch Tràng, Thư Cưu, Sàn Giã và Đài Bi.
Từ tháng 6 - 1961, xã Quyết Tâm cùng 22 xã khác của huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Phúc được chuyển về Hà Nội. Năm 1965, xã Quyết Tâm được đổi tên thành Cổ Loa. Năm 1970, thôn Đài Bi được cắt sang xã Uy Nỗ.
Làng Cổ Loa xưa là một làng lớn, có 12 xóm, người dân sống trong ba vòng thành cổ. Xã Cổ Loa hiện tại có diện tích 8,02 cây số vuông với 16.514 người.
Cổ Loa có sông Hoàng Giang (còn gọi là sông Thiếp), vốn là một nhánh của sông Ngũ Huyện Khê chảy qua, có Quốc lộ số 3 Hà Nội - Thái Nguyên, nên rất thuận tiện về giao lưu thủy bộ.
Cổ Loa xưa có nông nghiệp trồng lúa trong những cánh đồng thấp trũng kết hợp trồng các loại hoa màu trên các dải đất cao. Nghề thủ công có làm bún, rèn. Làng có chợ Sa, nổi tiếng là chợ lớn ở Kinh Bắc.
Tuy đã qua Hội làng hơn một tuần. Hội làng Cổ Loa (ngày mồng sáu tháng Giêng – ngày này là ngày An Dương Vương lên ngôi hoàng đế kế nghiệp triều Hùng- 257 TCN) là một hội lớn, có 8 xã trong vùng là Cổ Loa, Mạch Tràng, Sàn Giã, Thư Cưu, Cầu Cả (đều thuộc xã Cổ Loa ngày nay), Văn Thượng, Vạn Lộc (xã Xuân Canh), Đài Bi (xã Uy Nỗ) cùng tham gia.
Ngay tại đầu làng vẫn còn cổng chào, cờ xí, phần lớn là cờ ngũ hành, pa-nô áp phích, khẩu hiệu, đỏ rực cả một vùng trời.
Tôi vào Nhà trưng bày và được các cháu là cán bộ Ban Quản lý Khu Di tích đón tiếp niềm nở. Tôi hỏi có tài liệu giới thiệu về Cổ Loa thì được các cháu mang ra biếu tôi 2 cuốn sách: Sự tích An Dương Vương xây thành ốc và cuốn Thiên tình sử Mỵ Châu-Trọng Thủy và một tập ảnh chụp các di tích Cổ Loa thành.Tôi vô cùng cảm kích.
 Chúng tôi vào thắp nhang đền Thượng thờ vua Thục Phán. Đền được dựng trên nền nội cung ngày trước. Ðền này mới được làm lại hồi đầu thế kỷ 20, có đôi rồng đá ở bậc tam cấp cửa đền là di vật đời Trần hoặc Lê sơ. Trong đền có tượng An Dương Vương bằng đồng mới đúc cùng dịp làm lại đền.

                                                ***
 Lại nói về cội nguồn của Thục Phán. Tổ phụ An Dương là họ Thục, tổ mẫu là Đào, húy là Nhàn. Mộng chiêm bao bà thấy rồng vàng phun nước bèn có thai. Ngày 11 tháng Tám năm Nhâm Thìn, bà sinh con đặt tên là Phán, hiệu An Dương. An Dương thiên tư dĩnh ngộ, thể mạo khác thường, đến tuổi trưởng thành thì văn võ toàn tài. Lớn lên, An Dương làm “bộ chủ Ai Lao” nghe tin Hùng Duệ Vương tuổi trời đã cao, sắp nhường ngôi cho con rể là Sơn Thánh, tức thì dấy binh cầu các nước láng giềng, chỉnh đốn mười vạn quân tinh nhuệ, tám nghìn ngựa chiến tiến thẳng đến miền đất Văn Lang cùng Sơn Thánh giao chiến giành ngôi báu nhưng vì Sơn Thánh có phép thần kỳ diệu của sách thần, có bí quyết niệm thần chú nên An Dương ba lần tiến đánh đều thất bại.
An Dương buồn lắm và vô cùng hối hận.An Dương liền sai sứ thần mang một trăm hốt vàng, một nghìn tấm gấm nhiễu long làm lễ dâng thư cầu hòa lên Hùng Duệ Vương.
 Thư viết: “Bộ chủ Ai Lao tôi họ Thục – An Dương vâng mệnh trời làm chúa tể một phương, vừa rồi có trót làm điều càn rỡ, không trọn kẻ bề tôi, đem phận nhỏ mà lấn át bậc lớn thật là đắc tội. Thế mà đất nước muôn phần toàn vẹn quả là nhờ hồng phúc của Hoàng đế.
Nay thiết nghĩ tôi vốn là chi phái nhà họ Hùng. Việc khai cơ sáng nghiệp cũng nhờ công đức của cha ông. Việc trị nước, giữ nhà cũng may có phúc lành, còn con còn cháu nghiệp lớn một phương phú quý được như thế.
Nay người lấy tổ làm gốc, vật lấy trời làm nguồn, thần chưa được tắm gội ơn sáng của bệ hạ, không biết lấy gì để thỏa linh hồn tiên mẫu nơi linh miếu.
Mỗi lần nghĩ đến tinh đẩu, lòng hoài cảm càng thêm trĩu nặng. Vì thế, thần không ngại bị trách mắng mạo phạm oai trời, cúi xin bệ hạ soi thấu sự tình ban ơn đến thần Thục này, chuẩn y cho được hòa thân, được phụng thờ, triều cống, may ra được ơn mưa móc của Hoàng thượng, ngõ hầu không phụ nguyện vọng lúc bình sinh của phận con cháu vậy”.
Hùng Duệ Vương xem thư, nhân có Sơn Thánh đứng hầu, hỏi Sơn Thánh rằng:
-Thục chúa vốn là dòng dõi của Tiên đế ta, trước đây buông thả làm điều ngạo ngược dám đến xâm phạm, may mà ý trời còn muốn giữ cơ nghiệp họ Hùng chưa mất, nay Thục chúa lại xin cầu hòa, trẫm muốn tướng quân hãy xem xét kỹ, rồi báo cho trẫm biết như thế nào?
  Sơn Thánh quỳ trước mặt rồng tâu rằng:
-Thục chúa đã là dòng dõi của Hoàng đế làm chúa tể một phương, vừa rồi định đến xâm chiếm khiến bệ hạ phải bận tâm, âu cũng là trời dẫn dắt quốc gia sang một bước mới sau mười tám cơ đồ họ Hùng đấy thôi, có đến nỗi gì khiến bệ hạ phải chất chứa lòng oán giận như vậy. Nay Thục Phán xin được cầu hòa, ấy là biết tiến, biết thoái, thế thì Thục chúa cũng là bậc vua hiền vậy. Tính mưu kế cho ngày nay thì chẳng gì bằng mở tấm lòng đại độ cho Thục được hòa thân, đấy là sự anh minh của bệ hạ, vả lại nếu vận nhà Hùng đã đến hồi cuối thì cũng là ý trời định sẵn rồi. Bệ hạ hãy nhân việc này gọi Thục Phán đến, nhường ngôi cho, như thế là công việc thánh minh của bệ hạ hoàn thành. Bệ hạ và thần đã có phép thuật thần tiên, còn gì bằng một cuộc nhàn du thân vượt ba cõi lặng lẽ cùng mùa xuân vĩnh cữu nơi Lãng Uyển, Bồng Hồ, lầu rồng, gác phượng không bận cõi trần chật hẹp, nước biếc non xanh, người quân tử chẳng vui lắm sao!
          Thần xin bệ hạ nghe kế đó, hãy quyết đoán ngay, đừng hồ nghi nữa.
          Hùng Duệ Vương nói:
-         Lời khanh quả đúng, quả đúng! Trẫm làm theo kế đó.
          Hùng Duệ Vương liền triệu Thục Phán An Dương đến nhường ngôi kế nghiệp triều Hùng. Một hôm Hùng Duệ Vương hạ nhàn ngâm thơ rằng:
          Nơi cửa động tiên bồng
          Sắc cỏ xanh mùa xuân đã cũ rồi
          Trước cung điện các triều vua
          Rêu đã lên màu xanh mới
Ngoảnh đầu nhìn lại bao việc xẩy ra trên đời. Hỏi cùng Trời cớ gì cứ phải khổ mãi vì đua tranh trong gió bụi? Ngâm thơ xong, Hùng Duệ Vương cùng Sơn Thánh và công chúa bay lên trời vào cõi hóa sinh bất diệt.

                                                ***
Viết đến đây, tôi lại nghĩ về nòi giống con rồng cháu tiên của người Việt. Thực ra, họ Hồng Bàng trị vì nước Văn Lang với vương hiệu Hùng Vương không phải chỉ có 18 đời (18 ông vua) mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều đời vua. Trong ngôi đền chính tại Đền Hùng tại xã Hy Cương (Phú Thọ) có một bài vị chung thờ các vị Vua Hùng, có hàng chữ “Đột Ngột Cao Sơn Cổ Hùng Thị thập bát thế thánh vương, thánh vị”. Do tục thờ cúng tổ tiên chỉ thờ vị khai sáng đầu tiên, nên chữ “thập bát thế” có thể hiểu là 18 vương hiệu của các vị Tổ đầu tiên của 18 chi Hùng Vương, đã thay nhau cầm quyền trên đất nước Văn Lang – quốc gia đầu tiên. Điều này giải thích hợp lý sự tồn tại 2.621 năm từ 2.879 đến 258 TCN.
18 chi bắt đầu từ chi Càn là Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, tức Lục Dục Vương sinh năm Nhâm Ngọ (2919 trước Tây lịch) lên ngôi năm 41 tuổi. Và những vị vua kế tiếp trong chi này không thấy ghi. Chi này ở ngôi 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây lịch) đến năm Đinh Hợi (2794 trước Tây lịch) – ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng.
Kế tiếp, chi thứ hai chi Khảm là Hùng hiền Vương tức Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, sinh năm Bính Thìn (2825 trước Tây lịch), lên ngôi lúc 33 tuổi, không rõ truyền mấy đời vua. Chi này ở ngôi 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương, từ năm Mậu Tý (2793 trước Tây lịch) đến năm Bính Thìn (2525 trước Tây lịch) – ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế (Ngũ Đế).
Chi  thứ 18 là chi cuối cùng thuộc chi Quý Hùng Duệ Vương, sinh năm Canh Thân (421 trước Tây lịch), lên ngôi khi 14 tuổi, truyền không rõ mấy đời vua (có lẽ 3 đời) vì căn cứ bài vị thờ “Tam vị Quốc chúa” ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội. Chi Quý ở ngôi 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 trước Tây lịch)  đến năm Quý Mão (258 trước Tây lịch) – ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến đời thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu, Trung Quốc.
Vua Kinh Duệ Vương cuối cùng của triều Hùng tên thật là gì thì không thấy sử ghi.
 Câu chuyện vua cùng Sơn Thánh và công chúa bay lên trời như tôi đã trích từ sách Sự tích An Dương Vương xây thành Ốc của tác giả Chu Trinh do Nhà Xuất bản Thanh Hóa, tái bản lần thứ 6 năm 2015 là nhuốm màu thần thoại. Có hay không Thư cầu hòa của An Dương gửi Kinh Duệ Vương? Có hay không Kinh Duệ Vương triệu An Dương đến để nhường ngôi báu?
Ngày nay, con cháu vua Hùng chỉ biết rằng đến năm 257 TCN thì An Dương Vương Thục Phán kế nhiệm một triều đại sụp đổ.
Nói gì thì nói, có một điều khẳng định Thục Phán An Dương Vương là lãnh đạo của người Âu Việt đóng ở phía bắc nước Văn Lang. Ông là người tiêu diệt nước Văn Lang, thống nhất 2 nhóm Âu Việt và Lạc Việt vào một quốc gia.Tên nước là Âu Lạc. Đây chính là tổ tiên của người Kinh ở Việt Nam ngày nay.
Cùng thời gian này bên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sáp nhập 6 nước sau nhiều năm hỗn chiến thời Chiến quốc. Tần tham vọng xâm chiếm Bách Việt (vùng đất đai của các bộ tộc Việt ở phía nam Trung Quốc và bắc Việt Nam ngày nay. Đạo quân xâm lược nhà Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi vào lãnh thổ Âu Lạc, quân Tần gặp phải cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân ta do Thục Phán chỉ huy.
Năm 218 (TCN), Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân chia thành 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhất phải đào con kênh nối sông Lương (vùng An Hưng – Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ đó, Đồ Thư đã vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Thục Phán được các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Quân Tần đi đến đâu, nhân dân Việt làm “vườn không, nhà trống” đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần kiệt sức là lúc quân dân Việt xung trận. Đồ Thư thống lĩnh phải bỏ mạng, quân Tần mở đường máu chạy về nước.
Còn theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 2 thì: “đạo thứ nhất của quân Tần đã đi bằng thuyền nhỏ theo sông Tả Giang, từ Ninh Minh lên Thủy Khẩu, Tà Lùng đến Cao Bình. Thục Phán sai tướng Lý Bính phục quân ở đoạn Hát Gia. Khi quân Tần tiến đến nơi này thì bị quân Thục thả gỗ, ném đá, phóng lao, bắn tên xuống thuyền làm cho giặc bị thương, bị chết vô số kể…”
Hiện thời, ở khu vực Hát Gia, người dân tình cờ phát hiện ra mũi tên đồng có một ngạnh đã han rỉ ở bãi cát Sóoc Luông hay một số kim khí ở Soóc Lấc.
 Sau gần 10 năm kháng chiến, quân dân Âu Việt, Lạc Việt giành được độc lập. Thục Phán củng cố và xây dựng lại đất nước.
Sau chiến thắng trước quân Tần, An Dương Vương quyết định giao cho tướng Cao Lỗ xây thành Cổ Loa.
Ðây là toà thành cổ vào bậc nhất Việt Nam được vua Thục An Dương Vương xây từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên để làm kinh đô nước Âu Lạc (tên nước Việt Nam thời đó).
Thành được xây dựng kiểu vòng ốc (nên gọi là Loa thành) tương truyền có tới 9 vòng, dưới thành ngoài là hào sâu ngập nước thuyền bè đi lại được. Ngày nay ở Cổ Loa còn lại 3 vòng thành đất: thành ngoài, chu vi 8km, thành giữa, hình đa giác, chu vi 6,5km và thành trong hình chữ nhật, chu vi 1,6km. Thân thành ngày nay còn lại có chiều cao trung bình từ 4-5m, có chỗ còn cao tới 12m, chân thành rộng tới 20-30m.
Các cửa của 3 vòng thành cũng được bố trí rất khéo, không hề nằm cùng trên một trục thẳng mà lệch chéo đi rất nhiều. Do đó đường nối hai cửa thành ở cùng một hướng đều là một đường quanh co, lại có ụ phòng ngự ở hai bên nên gây rất nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến đánh thành.
Ngày nay ta vẫn tìm thấy vết tích còn lại của ba vòng thành xưa bằng đất và nơi các nhà khảo cổ tìm được hàng vạn mũi tên đồng, lưỡi cày, rìu sắt, xương thú vật...
Qua cổng làng, phía tay phải cũng là cổng thành trong là tới đình làng Cổ Loa. Theo truyền thuyết thì đó là nền cũ của điện ngự triều, nơi bá quan triều hội ngày xưa, nên trong đình còn tấm hoành phi "Ngự triều di quy".
Cạnh đình là Am Bà Chúa tức là miếu thờ công chúa Mỵ Châu, nằm nép dưới gốc đa già cổ thụ. Miếu am bé bỏng như cuộc đời ngắn ngủi của nàng công chúa đáng thương! Trong am có một tảng đá hình người cụt đầu. Ai cũng bảo đó là tượng Mỵ Châu.
Có hay không cái giếng ngọc, nơi Trọng Thủy gieo mình tự tử để tạ tình nàng Mỵ Châu? Tôi hoàn toàn không tin có chuyện đó. Tôi khẳng định rằng: cuộc hôn nhân Trọng Thủy – Mỵ Châu là cuộc hôn nhân gián điệp. Trọng Thủy là một tên xảo trá, lừa lọc, một tên ăn cắp không hơn không kém.
Người đời sau sáng tác ra Chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu, một câu chuyện mang đẫm màu sắc huyền thoại của lịch sử Việt Nam trong buổi đầu dựng nước. Thế nhưng, giá trị lớn nhất của lịch sử là « ôn cố tri tân », tức để cho hậu thế xem xét mà rút ra những bài học kinh nghiệm cho cuộc sống. Trong Chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu gắn liền với lịch sử ngàn năm Bắc Thuộc của nước Đại Nam thuở trước, bởi sự kiện An Dương Vương mất nước đã bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc của lịch sử Việt Nam. Câu chuyện này được sách sử ghi lại như thế nào?
Về chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu, Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau:…“Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, như hình trôn ốc, nên gọi là Loa Thành, lại có tên là thành Tư Long (người nhà Đường gọi là thành Côn Lôn (Côn Lôn, vì thành rất cao). Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mới trai giới khấn trời đất và thần kỳ núi sông, rồi hưng công đắp lại.
Bính Ngọ, năm thứ 3 (255 TCN), (Đông Chu Quân năm thứ 1).Mùa xuân, tháng 3, bỗng có thần nhân đến cửa thành, trỏ vào thành cười mà nói rằng:  “Đắp đến bao giờ cho xong!” Vua mời vào điện hỏi. Thần nhân trả lời:  Đợi giang sứ đến sẽ biết. Rồi từ biệt đi ngay. Sáng hôm sau, vua ra cửa thành, thấy có con rùa vàng từ phía đông bơi trên sông mà đến, xưng là Giang sứ, nói được tiếng người, bàn được việc tương lai. Vua mừng lắm, để vào mâm vàng, đặt mâm lên trên điện. Vua hỏi về duyên do thành sụp. Rùa vàng trả lời rằng: Con vua trước phụ vào tinh khí núi sông của đất này để báo thù nước, nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi ấy có ma, là người con hát đời trước chết chôn ở đấy. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không, có một người con gái và một con gà trắng là dư khí của tinh, phàm người qua lại mà ngủ đêm ở đấy, đều tất chết, do ma làm hại. Chúng có thể rủ  nhau họp thành lũ, làm đổ sụp thành. Nếu giết con gà trắng để trừ tinh khí ấy đi, thì thành tự nhiên đắp xong được và bền vững. Vua đem rùa vàng đến quán ấy, giả làm người ngủ nhờ. Chủ quán nói: "Ông là quý nhân, xin đi ngay, chớ lưu lại đây mà bị họa". Vua cười nói: "Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì nổi?".Rồi ngủ lại quán. Đến đêm nghe ma từ ngoài đến gọi mở cửa. Rùa vàng thét mắng, ma không vào được. Đến gà gáy thì lũ ma chạy tan. Rùa vàng xin vua đuổi theo. Đến núi Thất Diệu thì tinh khí đi hết. Vua trở về quán. Đến sáng sớm, ông chủ quán cho là vua tất chết, sai người đến để nhặt xác đem chôn. Thấy vua vẫn cười nói như thường, mới sụp lạy rồi nói: "Ông được yên lành như thế, tất là thánh nhân! ". Vua xin con gà trắng giết để tế. Con gà ấy chết thì con gái chủ quán cũng chết. Vua liền sai người đào núi lên, thấy có nhạc khí cổ và xương người, đem đốt tán thành tro, ném xuống sông, yêu khí mất hẳn.
Từ đấy, đắp thành không quá nửa tháng thì xong. Rùa vàng cáo từ ra về. Vua cảm tạ, hỏi rằng: "Đội ơn ngài thành đắp đã vững, nếu có giặc ngoài đến, thì lấy gì mà chống giữ?” Rùa vàng bèn trút ra chiếc móng, trao cho vua và nói: "Nhà nước yên hay nguy, do tự số trời, nhưng người cũng nên phòng bị, nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì nữa. Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (có sách chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy nỏ, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.(SĐD trang 72,73,74)
 Sở dĩ tôi chép đoạn này là theo đúng nguyên văn trong quyển Đại Việt Sử ký toàn thư, tập 1 (in lần thứ hai, có sửa chữa) do Nhà Xuất bản Văn hóa – Thông tin ấn hành năm 2014, là vì có nhiều sách in không đúng bản dịch của Viện Sử học Việt Nam.
Đại Việt Sử ký toàn thư đã ghi lại câu chuyện như vậy, và các thế hệ sử gia đời sau cũng tiếp nối, ghi lại câu chuyện nhuốm màu thần thoại này một cách tương tự.
Bài học mất nước thời dựng nước và sau đó ít lâu (từ năm 548-570 Tây lịch) cũng vì chiếc móng: móng rùa và móng rồng.Và tai họa ập đến cũng vì những thằng rể “mất dạy”.
 Triệu Việt Vương – họ Triệu, húy là Quang Phục lại bại vong vì quá yêu con gái để có tai họa vì con rể!? Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng: Đàn bà lấy chồng gọi là”quy” thì nhà chồng tức là nhà mình. Con gái của vua đã gả cho Nhã Lang thì sao không cho về nhà chồng mà lại theo tục của nhà Doanh Tần (cho ở gửi rể) đến nỗi bại vong.
 Và đây cũng lại một câu chuyện về chiếc móng; móng rồng.
“Vua ở trong chằm, thấy quân Lương không lui, mới đốt hương cầu đảo, khấn vái trời đất thần kỳ. Bấy giờ được phép lạ mũ đâu mâu ngù móng rồng dùng để đánh giặc; từ đấy quân thanh lừng lẫy, đến đâu cũng không ai địch nổi. (Tục truyền rằng thần nhân trong chằm là Chử Đồng Tử thường cưỡi rồng tự trời xuống, trút móng của rồng cho vua, bảo gài lên mũ đâu mâu để đành giặc).
Chàng rể là Nhã Lang, con trai Lý Phật Tử (Sử viết là Kỷ Hậu Lý). Lý Phật Tử là tướng của Lý Nam Đế. Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương đến 5 lần giáp trận mà chưa phân thắng phụ nên xin giảng hòa. Và lại dùng cái mưu hôn nhân gián điệp để đánh vua bằng cách cầu hôn công chúa Cảo Nương cho con trai mình. Triệu Việt Vương cho Nhã Lang ở rể. Hãy nghe một đoạn thoại của Nhã Lang với vợ: “Trước vua cha chúng ta cừu thù với nhau, nay là thông gia, chẳng cũng hay lắm ư? Nhưng cha nàng (có) thuật gì mà có thể làm lui được quân của cha tôi? Cảo Nương không biết ý (xấu.XB) của chồng, lấy giấu mũ đâu mâu móng rồng cho chồng xem. Nhã Lang ngầm đổi cái móng rồng ấy. (lại thêm một thằng ăn cắp nữa.XB). Rồi bảo riêng với Cảo Nương rằng: “Tôi nghĩ ơn sâu của cha mẹ nặng hơn trời đất, vợ chồng ta yêu quý nhau không nỡ xa nhau, nhưng tôi hãy tạm dứt tình về nhà thăm cha mẹ”. Nhã Lang về cùng cha bàn mưu đánh úp vua, chiếm lấy nước!
Đau lòng biết mấy, hỡi những ông vua cả tin!

                                                          ***
Ở đây, có hai sự thực lịch sử được phơi bày: Chuyện cái nỏ của người Âu Lạc và chuyện An Dương Vương mất nước.
Bàn về « nỏ thần » của người Việt, có lẽ vì người Việt khi ấy sử dụng rất hiệu quả vũ khí tên là « nỏ », bởi thế mà kẻ thù phương Bắc có phần khiếp sợ chăng ?
Về vấn đề này, sử gia Trần Thị Mai, Phó giáo sư, tiến sỹ lịch sử Việt Nam, trưởng Phòng sau đại học Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng :
«Nỏ là vũ khí để săn bắn thú rừng làm nguồn thức ăn. Nỏ là vũ khí để tự vệ khi đi nương, đi rẫy, đi rừng. Nỏ là vũ khí để tự vệ chống xâm lăng. Trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược nhà Tần (214 - 208 TCN) và trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược của Triệu Đà (206-179 TCN), nỏ là ưu thế quân sự của người Việt. Để chống lại đội quân xâm lược của Triệu Đà, tướng sĩ Âu Lạc đã sử dụng nỏ liên châu, một loại nỏ đã được cải tiến có thể bắn được nhiều mũi tên cùng lúc. Nhờ đó, thành Cổ Loa đã được bảo vệ vững chắc trong hơn 20 năm trước sức tấn công của quận đội nhà Triệu. Kết quả khai quật khảo cổ học tại Cổ Loa bởi các nhà khảo cổ học Việt Nam vào năm 1959 đã tìm thấy lẫy nỏ và hơn 10.000 mũi tên đồng, minh chứng cho kỹ thuật chế tác nỏ và khả năng sử dụng nỏ cùng mũi tên đồng của quân dân Âu Lạc thuở ấy ».
Như vậy, câu chuyện cái nỏ là có thật, « nỏ thần » trong truyền thuyết Trọng Thủy-Mỵ Châu là để chỉ tài dùng nỏ « thần kỳ » của người Âu Lạc. Đó là một thế mạnh quân sự của người Âu Lạc làm khiếp sợ kẻ thù. Và bí quyết của sức mạnh quân sự đó đã bị kẻ thù nắm được, dẫn đến họa mất nước.
Sử gia Trần Thị Mai tổng kết bài học lịch sử đắt giá này như sau:
« Nỏ liên châu và mũi tên đồng là có thật. Trọng Thủy là nhân vật có thật, đã từng tham chiến cùng cha của ông là Triệu Đà trên chiến trường Âu Lạc. Tuy nhiên, câu chuyện Nỏ thần và chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy lại mang đậm chất hư cấu, huyền sử.
 Người xưa sáng tạo nên những câu chuyện này là muốn nhắc nhở chính mình và hậu thế không bao giờ được quên bài học cảnh giác, nhất là cảnh giác trước những âm mưu xảo quyệt của các thế lực ngoại xâm. Bài học về nàng Mỵ Châu "nỏ thần sơ ý trao tay giặc", về vua An Dương Vương mất cảnh giác nhận giặc làm con rể để “đến nỗi cơ đồ đắm biển sâu" thời nào cũng còn nguyên giá trị của nó ».
Sử gia Trần Thị Mai mong muốn người Việt Nam luôn phải xem 4 câu thơ sau đây của thi sĩ Xứ Huế Tố Hữu là «câu kinh nhật niệm» để tự nhắc nhở mình: Đừng bao giờ chủ quan để mất cảnh giác trước kẻ thù xâm lược dù chúng đến từ phương trời nào.
"Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu ".
Xuân Bảo



                                                                   (Viết xong bên bờ Phước Long Giang, nhân dịp  sắp đến Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, mùng 10 tháng 3 năm Đinh Dậu),