286. PHẦN THƠ TỨ TUYỆT của NHÀ THƠ XUÂN BẢO
1. NÉT XUÂN
Ánh
dương rắc hạt sáng đường trần
Én
vẽ trời xanh nét nét xuân
Lạc
bước thi nhân vào cõi mộng
Hài
in lối cũ gót giai nhân
Lời
bình của nhà thơ Hạnh Phương:
Thơ Đường luật anh viết không
nhiều, nhưng những bài anh đã cho xuất bản,
nhiều bài thực hay, đẹp:
“Ánh dương rắc hạt sáng đường trần/Én vẽ trời xanh nét nét xuân/Lạc bước
thi
nhân vào cõi mộng/ Hài in lối cũ gót giai nhân” (Nét xuân). Hai câu đầu của
Nét xuân là một bức tranh xuân, mơn mởn một sức sống, rất mới. Hai câu sau
của
bài thơ thì nhà thơ đã lạc bước hoài niệm rất cổ điển, rất Đường thi…
Thơ Đường luật để là Đường luật của Việt Nam luôn đòi hỏi những bước đột
phá, bứt phá, vượt thoát khỏi những hệ luy hình thái tư tưởng cổ điển...để biểu
cảm cho tròn đầy cảm xúc đương đại, hiện đại, bây giờ.
Bước đột phá ấy đã thấp thoáng thấy trong Thơ Đường luật Xuân Bảo.
***
2. TRĂNG GIÊNG
Lồng lộng trăng soi khắp mọi miền
Qua rồi bão tố bến bình yên
Trời quang mây tạnh ngày xuân đẹp
Vang vọng thơ Người "Nguyệt chính
viên"
Ngày xuân rạng rỡ ánh thiều quang
Một khúc Nguyên tiêu vọng núi ngàn
Việt sử oai hùng trang tự chủ
Giang sơn một cõi vững âu vàng
Xin dâng lên một nén hương trầm
Khấn nguyện Nguyên tiêu dạo khúc ngâm
Thơ Bác nghìn sau vang mãi
Non sông ngời ngợi ánh trăng rằm
Trăng lên sóng dậy cuộn đôi bờ
Non nước tưng bừng rộn tiếng tơ
Ngọn bút thêu vần mừng Tổ quốc
Cung đàn dệt mộng đón Ngày Thơ
6. THUYỀN NEO SÔNG ĐÁY
Đôi bờ sông Đáy rợp trời xuân
Rạng rỡ “rằm giêng” dát ánh vàng
Việc nước bàn mưu tiêu diệt giặc
Thuyền về bát ngát ngập tràn trăng
Nhà Rồng một sáng nắng xanh trời
Vỗ sóng con tàu lướt dặm khơi
Ấp ủ trong tim hình đất nước
Trăm năm in đậm dấu chân Người
Ta vẽ lên trời ngọn bút thần
Chữ Thơ rạng rỡ giữa ngày xuân
Nguyên tiêu vằng vặc trăng rằm tỏ
Hằng nga lưu luyến với thi nhân
Lặng ngắm đền đài nhớ cố đô *
Năm trăm năm ấy một cơ đồ
Đá mòn Phnom Buk ** mờ sương núi
Trăng khuyết Angkor lạnh Biển Hồ
____
*Nhớ cố đô Huế
**Đồi Bà Búk cách Xiêm Riệp 19 km, địa danh lịch sử dưới thời vua SuryaVarman
II,
nay đã thành phế tích.
Ta đã về đây, Huế Huế ơi!
Mùa xuân thay lá nhuốm xanh trời
Sông Hương trầm mặc nồng thơm gió
Núi Ngự uy nghi bóng dáng Người
Sông quê Thạch Hãn một dòng xanh
Thơ ấu trong ta nước ngọt lành
Đôi bờ Triệu Hải dâu xanh biếc
Gắn bó keo sơn đậm nghĩa tình.
Một hòn Mai Lĩnh ngất từng cao
Biển Đông sóng dậy vỗ rì rào
Ý chí quật cường Quảng Trị đó
Lòng dân với Bác sáng hơn sao
Côn Sơn mờ mịt giữa trùng khơi
Nghĩa địa Hàng Dương đứng giữa trời
Ngắt cánh hoa tươi cài mái tóc
Ngàn năm Chị Sáu tuổi đôi mươi
Xuân về rồi đó hỡi thi nhân
In đậm trời xanh nét bút thần
Tỏa ngát làn hương bờ mộng ảo
Rượu đào nâng chén chúc tân xuân!
Tôi viết bài thơ hận trần gian
Niềm đau đau suốt sáu trăm năm
Đất Gia Bình thôi màu tang tóc
Trời Thăng Long giải nỗi hàm oan.
Đường về làng Hới bao xa nhỉ?
Tân Lễ có còn dệt chiếu gon
Văng vẳng Hồ Tây câu ướm hỏi
Nồng nàn chiếu ấy hết hay còn?
Còn đó chút tình buổi xế tà
Vượt ngàn dặm ngái đến cùng ta
Hoàng hôn tím đẫm trời Biên Trấn
Vương vấn giọt buồn nỗi cách xa.
Trăng lên sóng dậy cuộn đôi bờ
Non nước tưng bừng rộn tiếng tơ
Ngọn bút thêu vần mừng Hội mới
Cung đàn dệt mộng đón Ngày Thơ
19. NHỚ NHÀ
Qụanh quẽ đêm
nay ta với bóng
Bồi hồi nhớ mẹ chốn quê nhà
Đầu non
sương lạnh trăng mờ khuất
Eo óc
thôn xa mấy tiếng gà
Theo điệu khèn rung bước nhịp nhàng
Môi hồng chúm chím nụ hoa ban
Quạt mềm lúng liếng chân trời biếc
Xòe Thái đêm nay rộn núi ngàn
Xuân Lộc quê ta đất đỏ au
Cao su xanh mướt chuối tươi màu
Ai về xin gửi niềm thương nhớ
Thắm thiết tình chung mãi có nhau
Lối cũ vườn xưa cỏ lấp đầy
Mồ hoang lạnh lẽo của ai đây?
Đạm Tiên – chủ hội Đoạn trường đó
Phận bạc hồng nhan, đau đớn thay!
Đạp bằng sóng dữ xua tan bão
Chém lũ kình ngư lặng Biển Đông
Tỳ thiếp khom lưng nào chịu phận
Trinh Nương đâu kém bậc anh hùng
Suốt ngày nậm rượu chẳng rời tay
Ngất ngưỡng liêu xiêu thật đến hay
Lóng ngóng đi tìm em Thị Nở
Chửi vung Bá Kiến tớ nào say.
25. VỊNH THỊ NỞ
Thương lắm cô nàng Thị Nở ơi
Lưng trần yếm thắm thả buông lơi\
Mắt cười mơ mộng tìm chàng Chí
Lò gạch còn đây ấm tiếng cười
Chao nghiêng cánh én liệng tầng không
Trời đất giao mùa tỏa ánh hồng
Nguyên đán trao em tình nở muộn
Hoa đào chớm nụ báo tàn đông
__________________
Thơ của người Đại Hào, quê
tôi.
Ở thế kỷ trước, nhà thơ Dương Khai - Nguyễn Xuân Thái, người làng Đại
Hào, phủ Đăng Xương, sau đổi thành Triệu Phong là người cha tôi gọi bằng chú đã
viết ca ngợi hai người con gái xứ Mê Linh.
TRÒN NGHĨA KHÍ
Độc lập đầu tiên Việt chiến công
Quần thoa chi kém bậc anh hùng
Phất cờ nương tử giành quyền nước
Đánh bọn Tô gian rửa hận chồng
Sông Hát gieo mình tròn nghĩa khí
Mê Linh giết giặc dậy oai phong
Mài gươm cứu nước em cùng chị
Lịch sử treo gương rạng má hồng.
Và nhà thơ Dương Khai có 1 bài thơ ca ngợi
công đức của Ngài Khai khẩn được thờ ở cả hai làng Đại Hào và làng An Cư, tổng
An Cư, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Bài thơ được khắc vào bia mộ Ngài ở
làng Đại Hào, nhưng không có tựa đề.
Vô đề
Dựng xây đô ấp đại thành công
Muôn
thưở nêu cao chí khí hùng
Nhân
vật thịnh phồn trong vũ trụ
Hoạn khoa hiển đạt giữa non sông
Hai làng tuy khác hai bờ cõi
Một tổ cùng chung một giống dòng
Cao quý công ơn bia kỷ
niệm
Khai
canh hầu tước sắc ban phong.
***
Ba tôi, ông Nguyễn Xuân Tập cũng có 1 bài
thơ Đường luật viết năm 1933 gửi cho Mẹ tôi trước khi đi Côn Minh (Trung Quốc).
Năm 1993, Mẹ tôi nhớ lại và đọc
cho tôi ghi.
LIỆU CHO XONG
Thung
DUNG yên ngựa bước du xuân*
Học TẬP đắc thành sách thánh nhân
THUẬN nẻo đá nhào cơn bão tố
SÃI tay đánh bạt bước gian truân
Hạ nhật duyên ưa chưa tính đưọc
Xuân xanh phận đẹp đã tới tuần
Nhắn nhủ cùng em người tri kỷ
Yêu nhau ta phải liệu cho xong.
___________
*Câu đầu, chữ thứ hai DUNG là tên Mạ tôi Nguyễn Thị Kim Dung. Câu thứ hai, chữ thứ hai TẬP là tên Cha tôi Nguyễn Xuân Tập. Chữ
đầu câu thứ ba THUẬN là chợ Thuận,
quê Cha tôi. Chữ đầu thứ tư SÃI là
Chợ Sãi, đối diện làng Xuân Yên là quê Mạ tôi.
Ngày xưa các Cụ thường ghép tên làng quê với
tên mình, tên người yêu để làm những câu thơ tặng nhau, bày tỏ tình yêu lứa đôi
nhưng không quên cội nguồn gốc gác của mình. Đó là một cử chỉ đẹp và lãng mạn.
Bài thơ này tôi đã đưa vào bộ phim Bài
thơ về Mẹ mà tác giả kịch bản và viết Lời bình là tôi, nhà thơ Xuân Bảo.
Bên bờ Phước Long Giang, Lập thu, Kỷ Hợi
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét