Trang

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2019

286. Thơ Tứ tuyệt Đường luật của Xuân Bảo


                 
                      286.  PHẦN THƠ TỨ TUYỆT  của  NHÀ THƠ XUÂN BẢO




                  1.     NÉT XUÂN

          Ánh dương rắc hạt sáng đường trần
          Én vẽ trời xanh nét nét xuân
          Lạc bước thi nhân vào cõi mộng
           Hài in lối cũ gót giai nhân

             Lời bình của nhà thơ Hạnh Phương:

          Thơ Đường luật anh viết không nhiều, nhưng những bài anh đã cho xuất bản, 
       nhiều bài thực hay, đẹp:
       “Ánh dương rắc hạt sáng đường trần/Én vẽ trời xanh nét nét xuân/Lạc bước thi 
        nhân vào cõi mộng/ Hài in lối cũ gót giai nhân”  (Nét xuân). Hai câu đầu của 
        Nét xuân là một bức tranh xuân, mơn mởn một sức sống, rất mới. Hai câu sau
        của bài thơ thì nhà thơ đã lạc bước hoài niệm rất cổ điển, rất Đường thi…
           Thơ Đường luật để là Đường luật của Việt Nam luôn đòi hỏi những bước đột
        phá, bứt phá, vượt thoát khỏi những hệ luy hình thái tư tưởng cổ điển...để biểu
        cảm cho tròn đầy cảm xúc đương đại, hiện đại, bây giờ.
             Bước đột phá ấy đã thấp thoáng thấy trong Thơ Đường luật Xuân Bảo.
                   
                 ***


                 2.     TRĂNG GIÊNG

          Lồng lộng trăng soi khắp mọi miền
         Qua rồi bão tố bến bình yên
         Trời quang mây tạnh ngày xuân đẹp
         Vang vọng thơ Người "Nguyệt chính viên"

                 3.    KHÚC NGUYÊN TIÊU

          Ngày xuân rạng rỡ ánh thiều quang
          Một khúc Nguyên tiêu vọng núi ngàn
          Việt sử oai hùng trang tự chủ
          Giang sơn một cõi vững âu vàng

                4.     KHẤN NGUYÊN TIÊU

         Xin dâng lên một nén hương trầm
         Khấn nguyện Nguyên tiêu dạo khúc ngâm
         Thơ Bác nghìn sau vang mãi
         Non sông ngời ngợi ánh trăng rằm

               5.     THƠ VỚI NGÀY THƠ

        Trăng lên sóng dậy cuộn đôi bờ
        Non nước tưng bừng rộn tiếng tơ
         Ngọn bút thêu vần mừng Tổ quốc
         Cung đàn dệt mộng đón Ngày Thơ

              6.     THUYỀN NEO SÔNG ĐÁY

         Đôi bờ sông Đáy rợp trời xuân
         Rạng rỡ “rằm giêng” dát ánh vàng
         Việc nước bàn mưu tiêu diệt giặc
         Thuyền về bát ngát ngập tràn trăng

              7. CÓ MỘT CON TÀU

     Nhà Rồng một sáng nắng xanh trời
     Vỗ sóng con tàu lướt dặm khơi
     Ấp ủ trong tim hình đất nước
     Trăm năm in đậm dấu chân Người

             8. XUÂN THƠ

      Ta vẽ lên trời ngọn bút thần
      Chữ Thơ rạng rỡ giữa ngày xuân
      Nguyên tiêu vằng vặc trăng rằm tỏ
      Hằng nga lưu luyến với thi nhân

            9. VỊNH ANGKOR

      Lặng ngắm đền đài nhớ cố đô *
      Năm trăm năm ấy một cơ đồ
      Đá mòn Phnom Buk ** mờ sương núi
      Trăng khuyết Angkor lạnh Biển Hồ
____
*Nhớ cố đô Huế
**Đồi Bà Búk cách Xiêm Riệp 19 km, địa danh lịch sử dưới thời vua SuryaVarman II,
     nay đã thành phế tích.

             10. VỀ HUẾ

       Ta đã về đây, Huế Huế ơi!
       Mùa xuân thay lá nhuốm xanh trời
       Sông Hương trầm mặc nồng thơm gió
       Núi Ngự uy nghi bóng dáng Người

              11. DÒNG THẠCH HÃN

        Sông quê Thạch Hãn một dòng xanh
        Thơ ấu trong ta nước ngọt lành
        Đôi bờ Triệu Hải dâu xanh biếc
        Gắn bó keo sơn đậm nghĩa tình.

           12. NÚI MAI LĨNH

       Một hòn Mai Lĩnh ngất từng cao
        Biển Đông sóng dậy vỗ rì rào
        Ý chí quật cường Quảng Trị đó
         Lòng dân với Bác sáng hơn sao

          13. BẤT TỬ

         Côn Sơn mờ mịt giữa trùng khơi
         Nghĩa địa Hàng Dương đứng giữa trời
         Ngắt cánh hoa tươi cài mái tóc
         Ngàn năm Chị Sáu tuổi đôi mươi

           14. MỪNG XUÂN BÍNH THÂN

        Xuân về rồi đó hỡi thi nhân
        In đậm trời xanh nét bút thần
        Tỏa ngát làn hương bờ mộng ảo
        Rượu đào nâng chén chúc tân xuân!

            15. MỪNG GIẢI OAN lỆ CHI VIÊN

        Tôi viết bài thơ hận trần gian
         Niềm đau đau suốt sáu trăm năm
         Đất Gia Bình thôi màu tang tóc
         Trời Thăng Long giải nỗi hàm oan.

            16. HỎI NGƯỜI BÁN CHIẾU GON

      Đường về làng Hới bao xa nhỉ?
      Tân Lễ có còn dệt chiếu gon
      Văng vẳng Hồ Tây câu ướm hỏi
      Nồng nàn chiếu ấy hết hay còn?

             17. CÒN ĐÓ CHÚT TÌNH

       Còn đó chút tình buổi xế tà
       Vượt ngàn dặm ngái đến cùng ta
       Hoàng hôn tím đẫm trời Biên Trấn
       Vương vấn giọt buồn nỗi cách xa.

             18. BÚT THÊU VẦN

  Trăng lên sóng dậy cuộn đôi bờ
  Non nước tưng bừng rộn tiếng tơ
  Ngọn bút thêu vần mừng Hội mới
  Cung đàn dệt mộng đón Ngày Thơ

           19. NHỚ NHÀ

  Qụanh quẽ đêm nay ta với bóng
     Bồi hồi nhớ mẹ chốn quê nhà
         Đầu non sương lạnh trăng mờ khuất
         Eo óc thôn xa mấy tiếng gà

             20. XÒE THÁI

     Theo điệu khèn rung bước nhịp nhàng
     Môi hồng chúm chím nụ hoa ban
      Quạt mềm lúng liếng chân trời biếc
      Xòe Thái đêm nay rộn núi ngàn

            21. QUA XUÂN LỘC

Xuân Lộc quê ta đất đỏ au
Cao su xanh mướt chuối tươi màu
Ai về xin gửi niềm thương nhớ
Thắm thiết tình chung mãi có nhau

              22 .MỒ HOANG

    Lối cũ vườn xưa cỏ lấp đầy
    Mồ hoang lạnh lẽo của ai đây?
    Đạm Tiên – chủ hội Đoạn trường đó
    Phận bạc hồng nhan, đau đớn thay!

            23.TRIỆU TRINH NƯƠNG

   Đạp bằng sóng dữ xua tan bão
   Chém lũ kình ngư lặng Biển Đông
    Tỳ thiếp khom lưng nào chịu phận
    Trinh Nương đâu kém bậc anh hùng

               24. VỊNH CH1 PHÈO

    Suốt ngày nậm rượu chẳng rời tay
    Ngất ngưỡng liêu xiêu thật đến hay
    Lóng ngóng đi tìm em Thị Nở
    Chửi vung Bá Kiến tớ nào say.

                25. VỊNH THỊ NỞ

    Thương lắm cô nàng Thị Nở ơi
    Lưng trần yếm thắm thả buông lơi\
    Mắt cười mơ mộng tìm chàng Chí
    Lò gạch còn đây ấm tiếng cười

               26.. NỤ TÌNH XUÂN

Chao nghiêng cánh én liệng tầng không
Trời đất giao mùa tỏa ánh hồng
Nguyên đán trao em tình nở muộn
Hoa đào chớm nụ báo tàn đông

__________________


             Thơ của người Đại Hào, quê tôi.

Ở thế kỷ trước, nhà thơ Dương Khai - Nguyễn Xuân Thái, người làng Đại Hào, phủ Đăng Xương, sau đổi thành Triệu Phong là người cha tôi gọi bằng chú đã viết ca ngợi hai người con gái xứ Mê Linh.

        
 TRÒN NGHĨA KHÍ

     Độc lập đầu tiên Việt chiến công
     Quần thoa chi kém bậc anh hùng
     Phất cờ nương tử giành quyền nước
     Đánh bọn Tô gian rửa hận chồng
     Sông Hát gieo mình tròn nghĩa khí
     Mê Linh giết giặc dậy oai phong
     Mài gươm cứu nước em cùng chị
     Lịch sử treo gương rạng má hồng.
     *** 

     Và nhà thơ Dương Khai có 1 bài thơ ca ngợi công đức của Ngài Khai khẩn được thờ ở cả hai làng Đại Hào và làng An Cư, tổng An Cư, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Bài thơ được khắc vào bia mộ Ngài ở làng Đại Hào, nhưng không có tựa đề.


                       Vô đề
Dựng xây đô ấp đại thành công
          Muôn thưở nêu cao chí khí hùng
          Nhân vật thịnh phồn trong vũ trụ
          Hoạn khoa hiển đạt giữa non sông
          Hai làng tuy khác hai bờ cõi
          Một tổ cùng chung một giống dòng
          Cao quý công ơn bia kỷ niệm
          Khai canh hầu tước sắc ban phong.
           ***


       Ba tôi, ông Nguyễn Xuân Tập cũng có 1 bài thơ Đường luật viết năm 1933 gửi cho Mẹ tôi trước khi đi Côn Minh (Trung Quốc).
    
 Năm 1993, Mẹ tôi nhớ lại và đọc cho tôi ghi.

LIỆU CHO XONG

       Thung DUNG yên ngựa bước du xuân*
Học TẬP đắc thành sách thánh nhân
        THUẬN nẻo đá nhào cơn bão tố
        SÃI tay đánh bạt bước gian truân
        Hạ nhật duyên ưa chưa tính đưọc
        Xuân xanh phận đẹp đã tới tuần          
        Nhắn nhủ cùng em người tri kỷ         
        Yêu nhau ta phải liệu cho xong.





___________
*Câu đầu, chữ thứ hai DUNG là tên Mạ tôi Nguyễn Thị Kim Dung. Câu thứ hai, chữ thứ hai TẬP là tên Cha tôi Nguyễn Xuân Tập. Chữ đầu câu thứ ba THUẬN là chợ Thuận, quê Cha tôi. Chữ đầu thứ tư SÃI là Chợ Sãi, đối diện làng Xuân Yên là quê Mạ tôi.
Ngày xưa các Cụ thường ghép tên làng quê với tên mình, tên người yêu để làm những câu thơ tặng nhau, bày tỏ tình yêu lứa đôi nhưng không quên cội nguồn gốc gác của mình. Đó là một cử chỉ đẹp và lãng mạn. Bài thơ này tôi đã đưa vào bộ phim Bài thơ về Mẹ mà tác giả kịch bản và viết Lời bình là tôi, nhà thơ Xuân Bảo.

Bên bờ Phước Long Giang, Lập thu, Kỷ Hợi

Nhà thơ Xuân Bảo




                   



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét