252. Chuyện nhỏ làng quê. Câu chuyện thứ 9.
Kiếm sống bằng đánh bắt thủy sản trên sông.
Sông
Thạch Hãn còn có một tên khác là Nguồn Hàn với câu ca dao:
“Không thơm, cũng thể hương đàn
Không trong cũng
nước Nguồn Hàn chảy ra
Ở Quảng Trị, tên Thạch Hãn còn đặt cho
một làng quê và gọi theo dân dã là làng Đá Hàn, làng Thạch Hãn nằm
trên đoạn đường sắt chạy qua thị xã Quảng Trị. Chữ Hàn cũng có
nghĩa là cản lại. Sông Thạch Hãn là dòng sông dài nhất của tỉnh,
nước trong vắt bốn mùa. Vì chảy qua rất nhiều lèn đá, núi đá. Chả
thế mà cụ Tam Nguyên Yên Đỗ khi đi qua sông đã để lại:
“Tây
Phong hà xứ xuy trần khởi
Bất trợ
niên tiền triệt để thanh
Dịch
thơ:
“Gió Tây đâu cuốn bụi dồn
Nước
trong thấu đáy nay còn nữa đâu”
Thi sĩ xứ Huế Khiêm Trai, tức
Tương An Công Miên Bửu, trong bài thơ “Dạ túc Quảng Trị tân thứ” (Đêm
nghỉ tại bến sông Quảng Trị) thì xúc cảm:
“Danh cao lan xạ Kim Lung tửu
Sắc
tự thanh trừng Thạch Hãn than…
Dịch thơ:
Chén rượu
Kim Long hương ngát đậm
Bãi sông Thạch Hãn nước trong veo…”
Ngoài rào, vùng quê tôi không gọi sông
Thạch Hãn mà nói là rào Thạch Hãn. Rào có nghĩa như con sông (tiếng Pháp phân biệt danh từ chỉ sông
lớn như sông Hồng Hà là fleuve, còn sông nhỏ như sông Thạch Hãn là
rivière, nếu là sông con, ngòi, lạch thì là rivièrète). Nơi bến
Phường Sãi có một cái hà (giống như một cái lạch nước lấn vào
bờ), chỗ nước sâu nhất chừng quá ngực một chút.
Bọn trẻ thường xuống tắm ở đó.
Hà có rất nhiều cá mương. Chúng không sợ người mà còn xông vào rỉa
ráy. Dọc theo cái hà này, dài chừng ba bốn trăm mét, cậu Diêu Xoan
thường hay đổ bổi khi mùa lũ về. Cậu đặt khoảng 20 bó bổi. Bổi
được làm bằng những cành lá duối, nếu thiếu thì có thể bó thêm ít
cành sim, cành nè hóp không gai và nhiều loại cây có cành khác, có
chiều dài khoảng trên một mét, được bó thành từng bó, có dây buộc
vào cái cọc trên bờ để nước không cuốn trôi. Tôm cá chui vào nấp
hoặc tìm mồi trong đó. Người đổ bổi dùng một cái rổ sảo, đường
kính to bằng cái nống phơi lúa. Cứ mỗi buổi sáng cậu Diêu và anh
Vọng nhẹ nhàng lội xuống nước, nhẹ nhàng chúi cái rổ sảo ấy xuống
bụng bó bổi rồi từ từ nâng lên. Cá rô, cá giếc, tôm và nhiều loài
thủy sản khác, có khi được cả chạch lấu, cá hanh hoặc con hôn (một
loại ba ba). Đổ hết những bó bổi thu hoạch cũng được vài ba ký lô,
đủ cải thiện bữa ăn gia đình và người làm trong ngày.
Đoạn sông này có lợi thế
là có bậc lên xuống, không như những đoạn bãi bồi toàn cát. Con sông
nào cũng có một bên lở thì bên kia là bồi. Vậy nên cứ đến mùa lụt
Mạ tôi thường ngồi gần như sáng đêm để vợt tép. Để chuẩn bị cho
việc vợt tép, trước đó những ngày hè Mạ đã vào rú chặt những cây
sặt, một loại họ sậy, đem về phơi khô, bó thành từng bó nhỏ có
đường kính khoảng một tấc tây để dùng làm đuốc đốt vợt tép. Khi
nước lũ tràn về thì đêm đến Mạ mang một cái thúng, một cái vợt tự
chế bằng vải mùng và thanh tre vót nhẵn bẻ cong lại, giống y như cái
vợt cầu lông hiện nay, mấy bó đuốc. Hồi đó chưa có đập thủy lợi,
thủy điện nên nước lụt dù có lên nhanh nhưng rút cũng nhanh, mà nó
còn không hung hãn như bây giớ cho nên bọn trẻ rất thích có lụt để
được đi vớt củi rều và đi bắt cá rô đẻ.
Trời tối, đuốc đốt lên không cháy thành lửa ngọn mà chỉ đỏ
lửa than. Những bầy tép đi thành đàn cặp mép sông, bơi ngược dòng.
Nước chảy xuôi nhưng tôm tép thì bơi ngược. Ngồi sáng đêm Mạ tôi xúc
được bộn tép, có khi được cả thúng. Ngoài số tép dùng cho các bữa
ăn, số còn lại Mạ tôi muối làm mắm để ăn dần. Dì Mão đã bắc sẵn
lên bếp một nồi cháo gạo ít khoai nhiều. Dì xuống bến đến chỗ Mạ
đang xúc tép và lấy một mớ tép. Dì vợt những con tép đang nhảy tưng
tưng trên mặt thúng cho vào thúng nhỏ đem lên, chỉ dội lại một lần
nước và cho vào nồi cháo, chỉ cần nêm thêm vài muỗng muối là có
món cháo rất ngọt ngon. Tôi múc một đọi to mang xuống bến cho Mạ.
Nhìn Mạ sùm sụp trong chiếc áo tơi rách với cái nón mê trên đầu mải
mê vợt tép để nuôi đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn, trong khi Ba tôi còn
đi chiến đấu bảo vệ quê hương. Tôi thấy thương Mạ vô ngần!
Trừ
những khi có lụt, còn lại là những đêm trời trong, Mạ thường đi soi
cá. Soi cá cũng dùng đuốc bằng cây sậy hoặc cây hóp chẻ nhỏ, phơi
khô bó thành từng bó bằng cái cột nhà tre, dài chừng 2 mét. Tối
đến đuốc được đốt ở bến nước, rồi lội xuống mép sông, một tay giữ
cây đuốc trên vai, một tay cầm cái nơm, khi thấy cá đóng đèn, tức là
đóng ánh sáng đuốc. Chúng đứng im một chỗ thì dùng nơm úp lên con
cá, bó đuốc tạm thời bỏ lên bờ, thò tay vào nơm bắt cá, thường là
loại cá chép, cá trôi, cá mè…có con nặng cả ký lô. Khi không dùng
nơm thì dùng dao thái chuối, thấy cá đóng đèn thì lấy dao chém. Có
con bị chém dứt làm đôi. Đi soi cá thường đi vào đầu hôm, cháy hết
hai cây đuốc thì về nhà. Số cá thu được cũng kha khá, chừng vài ba
ký, đủ dùng cho vài ngày.
Trong
thời 9 năm, Dì Mão sang ở với Mạ tôi. Dì là con gái cả của ông Thợ
Trì, người làm vè nổi tiếng cả tổng An Đôn. Vì nhà quá nghèo nên
ông thợ phải cho người con trai tên là Nguyễn Văn Loan, em Dì đi ở chăn
trâu cho cậu Diêu Xoan của tôi. Còn Dì thì được Mạ tôi cưu mang trong
những năm đầu chống Pháp cực kỳ khó khăn. Có lần Dì đang lúi húi
xúc cá bống thì bọn giặc Pháp lên lùng bên làng Như Lệ. Chúng trông
thấy Dì và xả súng bắn. Dì bị chúng bắn bị thương ở đùi. Hồi đó
không có thuốc kháng sinh nên chỉ rửa vết thương bằng lá cây rừng.
Nhưng rồi cũng qua khỏi. Một thời gian sau, Dì Mão được Dượng Lê Trường
Tôn cưới làm vợ. Và họ sinh được sáu người con ba trai và ba gái.
Người con trai thứ hai Lê Trường
Quyền đi bộ đội và hy sinh tại chiến trường Bình Trị Thiên,
được truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Hai người con trai của Dì là Lê Trường
Cận và Lê Trường Kỳ cùng người con gái thứ ba Lê Thị Hoàng hiện sinh
sống tại quê nhà. Sau giải phóng miền Nam, hai người con của Dì
(Hoàng và Cận), được chính quyền cấp đất làm nhà ngay trên bức nương
của Mạ tôi.
Dọc
theo bờ sông, thỉnh thoảng bọn trẻ chúng tôi đào thấy những ổ trứng
hôn (con ba ba), có ổ có đến hơn hai chục trứng, nhưng không hiểu vì
sao hồi đó, người dân không ăn trứng hôn và trứng rùa?
Muốn
qua rào chính thì phải qua một cồn cát. Cồn cát này, trong những năm
đánh Pháp, theo lời kêu gọi “Tăng gia sản xuất” đã tận dụng để trồng
khoai lang. Sau ba tháng thì nhổ lên, củ chỉ to bằng ngón chân cái
người lớn, nhưng rất nhiều củ và ăn rất ngon, thơm và bùi. Tắm ở
ngoài dòng chính rất nguy hiểm vì nước chảy xiết. Đã có lần tôi
suýt bị chết đuối do nước cuốn, may mà tôi kịp thời bơi ngửa, chân
đạp mấy cái mới vào được chỗ nông.
Giữa rào, trên cao thường có mấy
chú diều hâu. Chúng bay lượn rất mềm mại, sà đôi cánh như múa trong
không trung. Nhưng đôi mắt thì rất tinh. Từ trên cao, chim diều hâu nhìn
thấu đáy sông. Và khi đã phát hiện được cá thì chúng lao mình xuống
nước như một mũi tên và hai chân của chúng quắp một con cá to. Diều
đáp xuống giữa cồn cát ăn con cá ngon lành.
Bên bờ Phước Long
Giang, ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2018
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét