Trang

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2018

249. Đi tìm mộ cha.


                                               249.   ĐI TÌM MỘ CHA

NHÂN NGÀY GIỖ LẦN THỨ 70 CỦA CHA TÔI, CỤ ÔNG NGUYỄN XUÂN TẬP.
            Ngày 12 tháng 9 Mậu Tý (1948) – Ngày 12 tháng 9 Mậu Tuất (2018)
            Đi tìm mộ Cha là tác phẩm tôi ấp ủ từ lâu. Nay nhân ngày Giỗ lần thứ 70 ( 1948 - 2018) và cũng là kỷ niệm 110 năm Năm sinh của bố tôi (1908 – 2018), tôi đưa lên MXH bài viết này.

                                                ĐI TÌM MỘ CHA
                                                                   Bút ký
          
             Năm 1948 là năm kinh hoàng nhất của gia đình chúng tôi. Trong Văn ai khóc mẹ tôi có viết:
Có ngờ đâu
Độc lập chưa được bao ngày
Giặc Pháp mưu đồ gây hấn…
Đất nước muôn người như một, đứng lên kháng chiến trường kỳ
Trị Thiên một khối trường thành, lao vào mịt mù khói lửa
Ba ra đi theo bước trung đoàn
Mẹ ở nhà tảo tần lam lũ
Xót thay!
Năm (19)48 bao nỗi kinh hoàng
Tháng 11 dập dồn tin dữ
Ông Nội bị Tây bắn thả xác xuống ao
Chú Tịch hy sinh gần làng Da Độ
Còn Ba, trung đoàn báo tử
Xuân Lộc em con thiếu thuốc đói cơm
Giã từ dương thế lúc tuổi còn nhỏ
Năm này Mẹ đẻ song sinh
Tháng ấy vào tuần ở cữ
Nguyễn Vô Danh tử tại phúc trung*…
                                                            ***
Hè năm 1944, mãn hạn lính, Ba Mạ tôi dắt díu đàn con về quê. Làng Đại Hào là một làng nằm ở đồng bằng Triệu Hải, người dân chủ yếu làm nông, song ruộng đất ít, người đông cho nên nghèo vẫn hoàn nghèo. Ba Mạ tôi xin Ông Mệ nội về quê ngoại ở Phường Sãi, thuộc làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Dù sao, nơi đây còn có nhiều đất đồi chưa khai phá hết.
Tiền hưu của Ba tôi bị mất do thực dân Pháp bị Nhật đảo chính ngày 9/3/1945. Tôi còn nhớ hình ảnh người cha còng lưng gánh gánh củi sim từ làng xuống chợ tỉnh bán để lấy tiền nuôi con. Đoạn đường này dài trên dưới 5 cây số!  Hình ảnh này tương phản với bức ảnh Ba tôi chụp chung với các sĩ quan ở État Major 5è Brigate ở Huế. Ba tôi mặc quân phục của quân đội viễn chinh Pháp với quân hàm Sergent chef, có ngù vai, có biểu trưng chữ V ở cầu vai và tay áo.
Sau cách mạng Tháng 8, Mạ tôi gom các thứ của thời thực dân, phong kiến như Thẻ ngà (dân thường gọi là Bài ngà) đi kèm với sắc phong Lục phẩm của triều đình Huế; bằng Sơ học yếu lược của tôi và các bức ảnh có hình Ba tôi mặc quân phục Pháp đều được Mạ tôi đốt đi kẻo sợ Việt Minh!
Mạ tôi thì đi làm thuê, mùa nào việc nấy: cấy lúa, nhổ cỏ, gặt thuê…Tôi thì đi ở chăn trâu cho một nhà giàu làng Thượng Phước với tiền công một năm là 5 thúng lúa và 2 bộ áo quần cộc bằng vải to (một loại vải do người dân quê tôi tự trồng lấy cây bông vải, kéo thành sợi và dệt trên khung cửi thủ công).
Tôi còn nhớ lúc 9 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, một cuộc mitting lớn được tổ chức trước cổng tòa công sứ Pháp (lúc này do bọn Nhật chiếm đóng). Và sau này là trụ sở của Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị. Thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa, ông Trần Hữu Dực trịnh trọng tuyên bố thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh, xóa bỏ chính quyền cũ. Sự thực thì cái gọi là “chính quyền bù nhìn” của thủ tướng Trần Trọng Kim đã tự xóa tên mình cũng trong ngày 23 tháng 8, chấm dứt Đế quốc Việt Nam, khởi đầu ngày 11 tháng 3 và kết thúc vào ngày 23 tháng 8 năm 1945, sau 5 tháng 6 ngày.
Trong ngày này (23-8-1945), Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị đã ra 2 Quân lệnh. Quân lệnh số 1 phát đi lúc 10 giờ sáng, có nội dung: “Tất cả lực lượng vũ trang chiếm đóng hoặc dự bị, kể cả lực lượng hỗn hợp giữ nguyên tại chỗ. Người và vũ khí không được thay đổi, di chuyển cho đến khi có lệnh mới”. Và sau 2 tiếng, tức lúc 12 giờ trưa, Quân lệnh số 2 đước phát đi với nội dung: “Mở cuộc đăng ký tuyển quân, cấp tốc thành lập Chi đội Giải phóng quân với tổng số 1.500 chiến sĩ, kể cả một số đơn vị trực thuộc như thông tin, quân y, quân nhu”.
Khởi nghĩa thành công không một tiếng súng!
***
Ba tôi là một trong số cán bộ đại đội, tiểu đoàn vốn là cai, đội lính khố xanh, khố đỏ, có tinh thần yêu nước, tự nguyện tham gia vào Chi đội Giải phóng quân. Ngày 9 tháng 9 năm 1945, Chi đội chuyển đổi thành Chi đội Thiện Thuật. Theo Sắc lệnh số 71, ngày 22 tháng 5 năm 1946 của Chính phủ về tổ chức Quân đội Quốc gia Việt Nam, Chi đội Thiện Thuật đổi thành Trung đoàn 95. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn 13, 14 và 15 và 1 tiểu đoàn lính nữ. Song song với lực lượng chủ lực, tỉnh chú ý xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, gọi là Tỉnh đội Dân quân.
Buổi sơ khai này Quân đội nhân dân Việt Nam có rất nhiều tên gọi: Giải phóng quân, Vệ quốc quân, Vệ quốc đoàn. Đầu năm 1946, Ba tôi được Ban Chỉ huy Trung đoàn cử về xã Phong Sơn (trước đó có tên là xã Công Ái) với chức danh là Phái viên Quân sự, có nhiệm vụ trực tiếp huấn luyện quân sự cho dân quân và du kích ở các thôn Thượng Phước, An Đôn, Nhan Biều.
Tôi thường được ông cho đi theo vào bãi tập, sau mới gọi là thao trường tại nương mít Mụ Hểu. Đây là một cái trảng rất rộng, bằng phẳng. Chữ làng, sau này mới đổi thành thôn. Chương trình huấn luyện bắt đầu từ các động tác tập họp đội hình, nghiêm nghỉ, bước đi một hai, một hai rồi tiến tới lăn lê bò toài. Súng chỉ có hai khẩu: súng trường mút-cờ-tông (mousqueton) và một khẩu tiểu liên mi-tờ-ray-dét (mitraillètte). Dân quân được trang bị quân phục. Áo quần may bằng vải to, một loại vải do người nông dân quê tôi tự trồng lấy cây bông vải, tự kéo thành sợi và dệt trên khung cửi thủ công. Chị Thản tôi là người phụ nữ đầu tiên mặc bộ đồ quân sự cũa người lính Giải phóng quân. Chị mặc áo sơ-mi ngắn tay, hai túi trên có nắp, có cầu vai và quần soóc toàn màu trắng, trông rất đẹp. Vì không có đủ súng nên phải đẽo cây theo hình dạng khẩu súng để tập động tác bồng súng lên và bỏ súng xuống. Có những buổi tối, tôi thấy Ba tôi ngồi giữa sân của Ông Ngoại, trước mặt là một cái nống. Ba tôi tháo rời khẩu súng trường ra và giảng giải cho dân quân nghe: đây là cái cơ bẫm, đây là nòng, đây là đầu ruồi…Ba tôi có một giọng nói rất âm vang, hùng hồn và hấp dẫn. Trong những cuộc mitting, ngoài việc điều khiển hành lễ, ông còn được phân công đọc các bài văn tế làm sục sôi ý chí chiến đấu cho mọi người. Tôi còn nhớ được mấy câu:
“Hỡi ôi!
Hoàng Thiên chốn thấu thương lũ xâm lăng
Tạo hóa vô tình ghét người chí sĩ
Đoàn dân tộc ra tay gầy dựng,
Đem lòng thân ái nâng niu
Lũ dã man lên mặt hung tàn,
Một phút anh em ly dị
Bâng khuâng kẻ mất người còn
Tưởng tượng lòng ghi nghĩa để…”
***
Vai trò phái viên quân sự của Ba tôi chấm dứt khi tiếng súng quân Pháp bắt đầu tấn công nống chiếm Quảng Trị. Tôi còn nhớ rõ, khi Hà Nội bước vào Ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, thì trước đó, quân Pháp được quân Anh Ấn giúp sức đã gây hấn ở Sải Gòn vào ngày 23 tháng 9 năm 1945 và sau đó chúng đổ bộ lên cửa biển Tư Hiền và cửa biển Thuận An, chiếm lại kinh thành Huế. Ngày 10 tháng 2 năm 1947, chúng chia thành 2 cánh quân, nống ra Quảng Trị. Hướng nam, quân Pháp đã sử dụng 1.500 binh lính, có xe tăng đi cùng và dưới sự yểm trợ của pháo binh và không quân tiến chiếm Mỹ Chánh, Diên Sanh… Cùng ngày, từ hướng tây, chúng xua 500 quân, từ Sa-vằn-na-khẹt (Trung Lào), đánh chiếm Lao Bảo rồi tiến về Đông Hà, hợp quân hướng nam vào thị xã Quảng Trị. Hồi 3 giờ 30 phút sáng ngày 16 tháng 2 năm 1947, quân Pháp chiếm hoàn toàn thị xã Quảng Trị.
Ba tôi trở lại Trung đoàn và ông được phân công làm tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn chủ lực của tỉnh. Chú ruột tôi, thầy giáo Nguyễn Xuân Tịch được bố trí làm quản trị trưởng tiểu đoàn 13 và o ruột tôi tên là Nguyễn Thị Nghiễn, bí danh là Thanh Tâm được điều về Ban Chính trị Trung đoàn 95. Chú Tịch của tôi hy sinh năm 1949 và được công nhận là liệt sĩ. O Nghiễn thì bị bệnh cảm nặng khi bơi qua sông tránh giặc và sau đó hy sinh.
Sau một thời gian Ba tôi được điều về làm trưởng phòng quân nhu Trung đoàn.
Tin đau đớn đối với mấy mẹ con tôi là khoảng tháng 11 năm 1948, có tin báo Ba tôi đã chết. Còn chết như thế nào thì không được nói rõ. Trong khi đó Mạ tôi chuẩn bị sinh đôi. Nguyễn Thị Kim Cúc và Nguyễn Vô Danh (chết trong bụng mẹ). Như vậy Kim Cúc khi sinh ra không được nhìn thấy mặt cha! Có đau buồn nào hơn đau buồn này chăng?
Như thế, Mạ tôi trở thành góa phụ khi tuổi đời mới trên ba mươi. Còn chúng tôi trở thành những đứa trẻ bồ côi cha!  Một mình Mạ tôi lam lũ làm thuê làm mướn nuôi 5 anh em chúng tôi. Cuộc sống vô cùng chật vật khó khăn. Còn đâu những ngày tháng sống trong nhung lụa ở đất Thần kinh Huế!
Sinh thời, trong những năm kháng chiến chống Pháp, không bao giờ Mạ tôi khóc vì thương nhớ Ba tôi trước mặt các con. Chỉ khi đêm về, Mạ tôi ngồi lặng lẽ khóc thầm bên bếp lửa. Lúc này tôi đã 13 tuổi, đã biết suy nghĩ về vai trò người con lớn trong gia đình. Tôi muốn giúp Mạ tôi một công việc gì đó để đỡ vất vả vật lộn với cuộc sống hàng ngày. Tôi xin Mạ tôi đi ở đợ! Câu ca:

 Còn cha gót đỏ như son
Mất cha gót mẹ gót con đen sì”.
 Là như vậy đó!
                                                            ***
Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết. Tôi gia nhập bộ đội địa phương Quảng Trị tập kết ra Bắc. Đằng đẵng 21 năm trời xa quê hương yêu dấu, xa người mẹ hiền vô vàn thương quý và đàn em côi cút, xa họ hàng tông tộc, tôi trở về tìm Mạ tôi. May thay! Mạ tôi và các em vẫn còn sống đầy đủ. Gia đình Mạ tôi bị chính quyền Sài Gòn xúc tát vào Xuân Lộc trong những ngày hè đỏ lưả năm 1972.
Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam. 30/4/1975 tôi gặp lại Mạ và các em tôi ở xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai. Vui mừng khôn xiết!
Mạ tôi thường bảo với tôi: Làm cách nào con cũng phải đi tìm cho được hài cốt Ba con về, không để Ba con nằm hiu quạnh một nơi nào đó! Vâng lời dạy của Mạ tôi, tôi đã tìm cách liên hệ với Ty Lao động Thương binh Xã hội tỉnh Quảng Tri, viết thư hỏi Ban Chỉ huy Trung đoàn 95, thậm chí khi còn công tác ở Hà Nội tôi đã trực tiếp đến Cục Quân lực, Bộ Quốc phòng để hỏi về Ba tôi.
Nhưng tất cả đều là sự vô vọng!

2.      CÓ HAY KHÔNG MỘT THẾ GIỚI TÂM LINH?

Trong những năm đầu của Thiên niên kỷ thứ III, đất nước ta rộ lên phong trao “Khả năng tìm mộ” của nhiều nhà ngoại cảm. Nổi tiếng nhất có Phan Thị Bích Hằng, người tìm ra mộ nhà văn liệt sĩ Nam Cao và là người tìm ra mộ em gái nguyên phó thủ tướng, giáo sư Trần Phương. Cô tên là Vũ Thị Kính, sinh năm 1929, tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 16 tuổi với bí danh Trần Thị Khang. Năm 1950 cô là huyện ủy viên của Đảng bộ Phù Cừ, bí thư phụ nữ Cứu quốc huyện. Tháng 6 năm đó, địch bắt được cô từ hầm bí mật, đưa về bốt La Tiến - một bốt khét tiếng tàn ác, một đồn binh lớn án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Thái Bình và phía tây tỉnh Hải Dương.
Giáo sư Trần Phương nói: 
Mười năm lại đây, nghe tin nhiều người tìm được hài cốt bằng gọi hồn, bằng ngoại cảm, bằng thấu thị... Tôi vốn được đào tạo theo tinh thần của khoa học thực nghiệm, cái gì chứng minh được mới tin là có, cái gì chưa chứng minh được thì dứt khoát không tin. Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ tin có linh hồn, thần thánh, ma quỷ. Ngay cả những ngày giỗ bố mẹ, tôi cũng không làm cơm cúng, không thắp hương, chỉ sửa một lọ hoa tươi để tưởng nhớ. Vậy mà khi nghe những tin trên, trong tôi vẫn lóe lên niềm hy vọng mong manh: Biết đâu đấy. Nếu bằng phương pháp thần bí mà tìm được hài cốt em tôi thì có gì đâu phải câu nệ?”.
Nhà Xuất bản Hải Phòng có hẳn một cuốn sách Còn mãi một tình thương” (Forever Remains a Love) của tác giả Nguyễn Đình Phúc. Sách dày gần 500 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm, có 4 phần và 1 Kết luận. Phần Kết luận, tác giả viết:
Tìm mộ thất lạc bằng nhiều khả năng tiếp nhận thông tin ngoài 5 giác quan bình thường là một hiện tượng mang nhiều ý nghĩa nhân văn và khoa học.
Còn mãi một tình thương là cuốn sách tập hợp những bài viết của nhiều tác giả nhằm phát hiện những gương Người tốt, Việc tốt, những nét đẹp văn hóa ứng xử không chỉ một vài người mà là của cả một dân tộc với thế hệ trước đó. Chúng ta đã và đang phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, nhớ các Anh hùng Liệt sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc!...
                                                            ***
Những năm đó, ở xã Xuân Tâm có 2 sự kiện đặc biệt. Một là, nhà ông Phùng H. cứ đêm đến là quần áo mắc trong nhà tắm và WC tự dưng bay cả ra ngoài sân?! Hai là, phía sau bức vườn của chú em tôi Nguyễn Xuân Bổng, cứ đêm đến là nghe văng vẳng như có tiếng khóc nỉ non. Thắp đèn lên đi tìm tiếng khóc đó thì cứ đến gần hàng rào giáp ranh thì đèn lại phụt tắt?
Từ 2 hiện tượng đó, Mạ tôi cho gọi tôi lên để tìm người đã tìm ra 2 sự việc đó. Vâng lời Mạ, tôi tổ chức một chuyến đi La Gi, tìm nhà ngoại cảm. Ông tên là Nguyễn Bá Kh. ở đường Thống Nhất, phường Tân An 2, Hàm Tân, Bình Thuận (nhà Uốn tóc Phượng). Điện thọai bàn số 062.870.9.. Xe riêng của tôi do Phạm Hoàng Thanh lái, trên xe có Mạ tôi, chú Xuân Bổng, chú Xuân Đức và tôi.
Đến nơi, không khó để tìm ra nhà thầy Kh. Lên lầu 1, tôi thấy có một ban thờ chúa Jésu, trên đó có một bình hoa tươi. Mạ tôi bỏ vào chiếc khay một cái phong bì.
Thầy Kh. Quê ở Nghệ An, tuổi chừng gần 60, là một giáo hữu tín đồ Kitô giáo.
Thầy Kh.  Hỏi: Ai là người đại diện chủ chốt việc đi tìm mộ ông Nguyễn Xuân Tập?
 Tôi trả lời đầy đủ các câu hỏi của thầy: Con trai cả, sinh năm Ất Hợi, 1935, hiện ở tại phường Quyết Thắng, Biên Hòa, Đồng Nai, có vợ vả 3 con.
Thầy mời tôi ra chỗ gần cửa sổ có nhiều ánh sáng. Thầy lấy một cái kim bằng inox giống như chiếc trâm cài đầu và thầy vạch đúng đường rẽ ngôi giữa trán. Thầy tìm một hồi lâu rồi nói: Đi Quảng Bình về mệt quá! Rồi thầy bảo có ai đó lấy giấy bút ra ghi. Đây là nguyên văn lời thấy phán và Xuân Đức ghi:
“Tờ 1.
Người thân của chúng ta sau khi rời khỏi quê nhà và cư ngụ ở tỉnh Q.Bình một thời gian khá lâu mới mất. Huyện Tuyên Hóa là vùng giải phóng thời chống Pháp. Năm 1948, người thân của chúng ta đã cư ngụ tại huyện Tuyên Hóa. Chúng ta có thể liên lạc với phòng Lao động-Thương binh và Xã hội huyện Tuyên Hóa để biết thêm tin tức của người thân tại đây.
Từ Ba Đồn, huyện Bố Trạch (thực ra đây là huyện Quảng Trạch mới đúng. XB) QB có đường QL đi Tuyên Hóa. Con đường này đi song song với bờ sông Rào Nậy đổ về sông Gianh. Ta qua khỏi những địa danh khoảng cách từ Ba Đồn lên Tuyên Hóa trên 35 km. Gần tới huyện Tuyên Hóa ta gặp một đập nước khá lớn nằm ở bên tay phải đường. Đập thủy lợi này nằm ở giữa 2 ngọn núi. Con đường lên Tuyên Hóa gần sát bờ sông Rào Nậy, phía nam đập nước. Nếu chúng ta vượt…
“Tờ 2.
…cầu, ở bên tay trái là trại tù thời chống Pháp. Ở bên này cầu là khu vực đóng quân của Vệ quốc đoàn. Đây là cứ điểm tiền tiêu bảo vệ Tuyên Hóa thời đó.
Người thân của chúng ta đã mất và chôn tại khu vực này. Nay phần mộ vẫn được người dân chăm sóc.
Cách cầu khoảng 150 mét ta gặp một ngã tư đường đất này là ranh giới tiền tiêu, nằm bên tay trái. Ta xác định được nhờ bờ lũy của đồn vẫn còn. Nay khu vực này trồng toàn cây bạch đàn, của lô đất nhà dân, nằm sát ngã tư. Khu vực phía sau lô đất nhà dân có 3 phần mộ còn lại. Nằm áp sát…
“Tờ 3.
…bờ hồ Rào Nam. Trong 3 phần mộ, ngôi mộ lớn nhất là ngôi mộ của ba. 3 phần mộ không nằm thẳng hàng. Số 1 nằm hướng đông. Đây là ngôi mộ của ba. Đầu của ba cách bờ lũy 1 mét về hướng tây. Đây là điểm bờ lũy cuối cùng. Ở điểm bờ lũy cuối cùng người ta trồng một cây khá lớn lên thẳng mới có nhánh. Dưới chân của ba có 3 viên đá nhỏ làm dấu chân. Đường chân cách bờ Rào Nam 2 mét, cách góc bờ Rào Nam 6 mét. Bờ Rào Nam là một con đường mòn về phía trong. Đây là một ngôi mộ cực kỳ linh thiêng, sẽ có nhiều huyền thoại về ngôi mộ này. Khi di dời ở độ sâu 1 mét 20,…
“Tờ 4
…không có hòm nhưng được bao bọc khi chôn. Hái cốt còn nhận ra rõ ràng, giống như một ngôi mộ kết. Đây là 1 ngôi mộ không được vun đắp nhiều, nhưng càng ngày càng to. Phía tây ngôi mộ là 1 mộ nằm sát bên.
Bản ghi lại đến đây là kết thúc.
Thầy Kh. đứng lên, lại gần tấm bảng. Thầy lấy phấn kéo một đường thẳng từ trên xuống và nói: Đây là đường Quốc lộ 1 từ bắc vào nam. Giữa lưng chừng tấm bảng, thấy kẻ một đường ngang kéo từ bờ bắc sông Gianh lên phía tây. Rồi thầy nói: từ Quốc lộ 1 đi lên chừng vài cây số sẽ gặp thị trấn Ba Đồn và đi thêm hơn 30 cây số nữa thì gặp huyện Tuyên Hóa. Đây là công đường của huyện Tuyên Hóa. Mộ của ông Nguyễn Xuân Tập được chôn tại một góc thành của huyện đường này.
Tôi nghĩ: Thầy Kh. sinh sau năm 1948 tại Nghệ An, sao thầy lại biết rành rẽ địa dư cũng như tình hình quân sự địa phương Quảng Bình như vậy?
Cũng như cố giáo sư Trần Phương, tôi là người vô thần, ít tin những gì hoang đường, dị đoan. Tuy nhiên, tôi chỉ để bụng không nói ra và tổ chức một chuyến ra Tuyên Hóa để kiểm chứng lại những điều thầy Kh. nói.
  
3.TÔI ĐI TUYÊN HÓA

Lần đi này có tôi, chú Xuân Đức và một đứa con của chú Xuân Bổng. Theo sơ đồ thầy Kh, chỉ dẫn, chúng tôi đến đúng con đường từ quốc lộ 1 dẫn lên Tuyên Hóa. Đây là quốc lộ 12 đi Cha Lo, miền Tây Quảng Bình. Chỉ đi một đoạn thì gặp ngay thị trấn Ba Đồn. Ở đây có làng Thổ Ngọa nổi tiếng có nghề chằm nón lá đẹp và bền. Có câu đồng dao: Nón Ba Đồn, lờ…Thổ Ngọa. Gái Thổ Ngọa đẹp, béo mập và trắng nõn nà vì suốt ngày ngồi nhà chằm nón. Trước đây, trong thời đánh Mỹ, ai đi công tác Khu Bốn về thường ghé Ba Đồn mua nón lá về làm quà. Tôi còn nhớ anh Lê Anh Kim, lúc này là Cục trưởng Cục Vận tải đi “vùng cán soong” (địa danh bọn giặc trời Mỹ mệnh danh cho các tỉnh bắc Trung Bộ từ Thanh Hóa vào đến Đặc khu Vĩnh Linh để tự do đánh phá trong chiến tranh phá hoại) về có mua biếu nhà tôi và chị Ngọc Bích, mỗi người 1 chiếc nón Ba Đồn.
Chúng tôi dùng xong bữa, ra chợ mua mấy thứ: nhang đèn…tiếp tục hành trình. Gần trưa thì đến xã Minh Hóa. Chúng tôi vào làng và xin ở nhờ ông bà Trần Bá Ban, một gia đình nghèo. Gia đình này từ bọ (bố) mạ (mẹ) đến các con, dâu, rể đều là những người nông dân chất phác, thuần hậu. Nhà ông Ban cách sông Rào Nậy khoảng 3, 4 trăm mét. Nương vườn có nhiều loại cây ăn trái, nhất là mít và chuối. Chung quanh có lũy tre bao bọc.
Tôi hỏi dò ông Ban, xã Minh Hóa ngày kháng chiến 9 năm có bị Tây chiếm không? Có nhiều người đi bộ đội không và có bao nhiêu liệt sĩ, tử sĩ? Ông nói rằng đây là vùng giáp ranh, Tây đi lùng ruồng bố mới đến đánh phá đốt nhà cướp của rồi rút. Chính quyền vẫn là của ta.
Sau này tôi có dịp tìm hiểu những người cao tuổi và Cựu chiến binh mới biết thêm. Bên kia rào (tiếng địa phương như sông) là làng Cao Mại, nơi có con đường rừng từ chiến khu kháng chiến Dương Hòa của Thừa Thiên, chiến khu Ba Lòng của Quảng Trị ra . Có những địa danh đã trở thành lịch sử như Ba Rền, U Bò…Đây là con đường mà ngày trước những người lãnh đạo cao cấp như ông Lê Duẩn, tướng Nguyễn Chí Thanh…đã từng đặt chân lên.
Chiều đến, tôi và Xuân Đức đi ra nghĩa trang liệt sĩ xã Minh Hóa. Tôi tìm trong những hàng bia mộ không thấy tên Ba tôi; lại đến khu trồng bạch đàn cũng không thấy như hình vẽ của thầy Kh. chỉ dẫn.
Sáng hôm sau, chúng tôi chuẩn bị trở về thì có một người khoảng hơn bốn chục tuổi, đi xe đạp tới và hỏi chúng tôi có phải là người thân đi tìm mộ của ông Nguyễn Xuân Tập không? Người đó cho biết bên Minh Cầm ngoại có nhiều người biết và nơi chôn cất ông Tập, trong đó có những cố (tiếng địa phương chỉ người cao tuổi) biết rất rõ. Tôi và Xuân Đức vội sang Minh Cầm ngoại.
Ở đây, chúng tôi đã gặp ông Hà Văn Đoài, 73 tuổi, là Cựu chiến binh. Ông Đoài là con của cụ Hà Lộc, đầu bếp của tri huyện Tuyên Hóa Tôn Thất Quỳ. Gặp ông Hà Minh Tấn, 67 tuổi, Cựu chiến binh; gặp ông Hà Xuân Tứ, 62 tuổi, nguyên là cán bộ kiểm lâm. Em ruột ông Tấn; ông Trần Trọng Bình, 52 tuổi ở gần nhà ông Đoài.
Trong cuộc gặp mặt này, các vị cho biết Ba tôi bị sốt rét ác tính và mất tại Minh Cầm. Và có ông Hà Biển, năm nay đã 83 tuổi là người cùng với một số anh em trong đơn vị tự tay trực tiếp chôn cất ông Tập.
Đây là bức thư ông Trần Bá Ban viết cho tôi. Tôi coi đây là chúng cứ tin tưởng tuyệt đối, Thư viết:
“…Ông Hà Biển ở cùng đơn vị với ông Nguyễn Xuân Tập, Trung đoàn 95. Sau khi ở Nghệ An vào, đóng quân tại Tuyên Hóa, ở vùng Minh Cầm nội. Sau ông Nguyễn Xuân Tập bị 5 ngày liền bị sốt rét ác tính nên đã bị chết.
Chính tay ông Biển đã cùng một số anh em trong đơn vị chôn cất…”
***
Như thế là đã rõ. Thầy Kh. nói không sai. Chúng tôi chưa tìm ra vị trí ngôi mộ là vì nhận định sai. Tôi bàn với Xuân Đức ta về lại La Gi gặp thầy Kh. và định ngày lên đường trở lại Tuyên Hóa để khai quật mộ.
Trước khi đi Tuyên Hóa, tôi được Mạ tôi gọi ra nhà ở khu Gia Viên, Biên Hòa để Mạ gặp. Mạ nói rằng đây là duyên may Trời định. Mạ tin tưởng con sẽ đưa được Ba con về quê nhà. Mạ đưa cho tôi một gói giấy báo, trong đó có những tờ bạc mệnh giá từ 2000 đồng đến 100.000 đồng, được bao bọc kỹ càng. Mạ nói: Mạ chỉ có từng này tiền, con mang theo mà chi dùng trong những ngày đi tìm mộ Ba. Tôi cũng cần nói rõ thêm. Vì sao Mạ đang ở nhà cô Oanh, tôi lại nói nhà của Mạ. Nguyên do là như thế này, khi qua Mỹ Nguyễn Thị Kim Cúc được chính phủ Mỹ cho một số tiền. Kim Cúc dành dụm gửi về cho cô Oanh. Khi đủ tiền Kim Cúc nhờ cô Oanh mua đất cất nhà cho Mạ ở để dưỡng già. Ngôi nhà ở Gia Viên là tiền của Kim Cúc. Đất thì của mẹ chồng cô Oanh chia cho con trai. Như vậy, Mạ tôi sẽ có nhà ở, không như bao bà mẹ khác: “Sống vô gia cư, thác vô địa táng”! Vợ chồng tôi rất biết ơn Kim Cúc đã lo chu toàn cho Mạ tôi, khỏi mang tiếng đi ở nhờ!
***
Tôi ra Hàm Tân gặp thầy Kh. và cảm ơn thầy đã chỉ đúng nơi chôn cất Ba tôi ở Tuyên Hóa. Thầy Kh. nói: Sắp tới có những gia đình cùng về Thừa Thiên và Quảng Trị tìm mộ. Tôi (tức thầy Kh,) sẽ cử 2 người cùng đi để phụ giúp việc khai quật. Đó là thầy Vịnh và một thanh niên lực lưỡng. Thầy hẹn đúng 5 giờ sáng một ngày đầu tháng 8 năm 2002 sẽ có chiếc xe 12 chỗ ngồi đến đón tôi trước cổng khách sạn Vĩnh An. Lần này, tôi đi một mình vì đã hẹn với anh Nguyễn Hậu, con cậu ruột tôi ở Quảng Trị, khi ra đến nơi tôi sẽ cùng anh Hậu đi Tuyên Hóa.
Xe được thầy Kh. sắp xếp. Đó là xe của cậu Phúc, một giáo hữu ở giáo xứ Bắc Sơn, (Hố Nai 3). Khi lên xe, tôi đã thấy có người ngồi. Đó là, ông Quang, ở tại thị trấn Vĩnh An và người chị tên Hoa, ở tận Bưng Riềng, Xuyên Mộc. Xe chạy tới chợ Xuân Đà, xã Xuân Tâm thì có thêm ông Phùng H., chủ ngôi nhà mà cứ đêm đến là áo quần trong nhà tắm bay cả ra ngoài sân. Người mà tôi đã nói tới phần đầu tác phẩm Đi tìm mộ cha này.
Tôi không hiểu vì sao bà Hoa cởi hết đồ tư trang trên người, gói vào chiếc mùi xoa nhỏ rồi đưa cho tôi bảo: anh giữ giùm em kẻo đi đường đêm hôm sợ gặp cướp! Tôi nhận và cho vào túi áo khoác. Ra đến Huế thì ông Quang và bà Hoa xuống xe để về quê ở huyện Phú Vang. Tôi đưa lại gói đồ tư trang cho bà Hoa. Theo ông Quang kể: đi lần này là để tìm mộ người cha bị Mỹ Diệm bắn chết. Theo thầy Kh. thì xác người thân hiện ở một doi cát ven làng, có những lùm dứa dại mọc trùm lên,  thân nằm úp, lưng nằm choãi ra ở phía đông, đầu hướng về phương bắc và chân ở đạp vào dãy núi hơi chếch về phía tây nam. Sau này, khi xong việc chôn cất hài cốt Ba tôi, tôi có đến thăm ông Quang và hỏi: có tìm được hài cốt người thân không? Thì ông trả lời là có.
Đến thị xã Quảng Trị, chúng tôi lại vào Nhà khách của Thị ủy. Chị Hồng, chủ nhiệm bận đưa cháu vào Đà Nẵng thi đại học. Chị giao chìa khóa phòng cho tôi và dặn khi nào đi thì trả chìa khóa cho tiếp tân. Tiền lưu trú thì được miễn. Ông Phùng H. chia tay tôi để về quê Do Linh.
Chiều hôm đó, tại Thánh đường La Vang có rất đông tín đồ, giáo hữu, linh mục khắp các nơi trong nước và nước ngoài về dự nhân Ngày lễ Đức Mẹ hiện về. Thầy Vịnh, cậu Phúc và chàng thanh niên xin phép được đi dự lễ.
Đêm hôm đó anh Nguyễn Hậu từ làng xuống ở lại Nhà khách và bàn chuyện ngày mai đi Tuyên Hóa. 5 giờ sáng xuất phát, trên xe lúc này chỉ có tôi, anh Hậu, thầy Vịnh và cậu thanh niên và Phúc lái xe. Đoạn đường sẽ đi là Quảng Trị - Đồng Hới 112 km. Đồng Hới tới ngã ba rẽ lên quốc lộ 12 là 40 km. Ba Đồn lên Tuyên Hóa (Minh Cầm) là hơn 30 km. Gần trưa thì đến thị trấn Ba Đồn. Chúng tôi ghé quán cơm ăn vội rồi ra chợ mua hoa, nhang đèn, giấy điều, cuốc, rựa, bay. Quá ngọ thì chúng tôi đến Minh Hóa, vào nhà ông Trần Bá Ban. Ông Ban rất vui là chúng tôi đã ra tìm mộ. Ông và con dâu cùng sang nơi khai quật. May mắn, lúc này chúng tôi gặp được ông Thuần là thôn trưởng. Ông Thuần dẫn chúng tôi đến Minh Cầm và chỉ cho chúng tôi nơi này là khu đất trước đây là công đường của huyện Tuyên Hóa. Trước Cách mạng Tháng 8, có một ông trong hoàng phái tên là Tôn Thất Quỳ trị nhậm.
Đúng như chỉ dẫn của thầy Kh. Ở một cạnh thành, có cây bạch đàn mọc lên cao mới ra cành. Đúng là cách bờ Rào Nam chừng trăm mét có một đám đất nhô cao. Người dân trồng chuối. Tôi xin phép trưởng thôn chặt bụi chuối. Thầy Vịnh bày hoa, nhang và thắp nến lên.  Thầy khấn những gì thì tôi không được biết vì tiếng nói nhỏ quá. Tôi bổ nhát cuốc đầu tiên. Chàng thanh niên lực lưỡng tiếp tục công việc. Đến khoảng hơn 1 mét thì đã thấy hiện ra một tấm gỗ bìa (chắc là để ghi tên người nằm dưới mộ). Tấm gỗ chỉ mục phần giác, còn phần lõi thì vẫn y nguyên, nhưng chữ thì không còn. Tôi đoán chắc có lẽ gỗ ngâm lâu ngày nó sẽ bền chắc lại. Cẩn thận, thầy Vịnh lấy bay khều nhẹ các lớp đất và xúc đổ lên bờ huyệt. Một hình thù giống như hình người hiện ra. Thầy Vịnh nói: hài cốt của Ba tôi đã hoàn thổ, trở về cát bụi! Tôi đưa chiếc va-li (của Nguyễn Triệu Quang, con trai cả của tôi mang từ Tiệp Khắc về)  đã được lót giấy điều, để thầy Vịnh xúc toàn bộ chỗ đất màu nâu thẫm, có hình người vào va-li. Con dâu của ông Trần Bá Ban đã vào chợ Minh Cầm mua bánh ướt. Tôi bảo mọi người ngừng tay và ăn lót dạ bánh ướt. Xong việc khai quật, cậu thanh niên lực lưỡng cuốc đất lấp lại hố huyệt mộ. Để tranh thủ về làng kịp trước giờ Tý, chúng tôi cảm ơn ông bà và các con cháu ông Trần Bá Ban và lên đường.
Xe qua cầu Gianh, đến thị trấn Hoàn Lão thì dừng lại. Chúng tôi vào quán ăn tối và sau đó vào một cửa hàng đồ gốm mua một cái tiểu sành. 10 giờ đêm thì xe chúng tôi về tới làng. Thầy Vịnh, cậu thanh niên lực lưỡng cùng chủ xe Phúc xin phép được tạm biệt chúng tôi và về Nam trước.
Tôi và anh Hậu khiêng chiếc va-li và cái tiểu sanh đi ra lăng gia đình. Trăng thuợng tuần đã lặn từ lâu. Nghĩa địa chỉ còn ánh sáng lờ mờ của dải Ngân hà rọi xuống và gió thì miên man không ngừng thổi. Tôi thắp nhang khấn với tổ tiên ông bà là tôi đã đưa Ba tôi về với quê hương bản quán. Tôi đưa va-li hài cốt vào để trước tấm bia lớn trong lăng. Trời còn lâu mới sáng, cho nên tôi nằm tạm xuống chiếc ghế băng dài do cậu em, con bà cô ruột tôi đưa ra lăng từ chiều. Anh Hậu nằm tạm lên thành lăng. Tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nằm chung với những người đã khuất. Dưới những ngôi mộ kia là các cụ sơ, cụ cố, ông bà nội, các chú, cô và các em tôi. Đến gần 4 giờ sáng, tôi chợt thức giấc thì những ngọn đèn và hương đều đã tắt. Tôi sợ quá, gọi anh Hậu dậy và hai anh em thức cho tới sáng luôn.
  
3.     BA TÔI ĐÃ VỀ ĐẾN QUÊ NHÀ

            Tôi điện thoại cho Mạ và các em tôi, báo rằng đã tìm được mộ Ba. Mạ và các em ra ngay Quảng Trị để viếng Ba và dự lễ truy điệu.
Trước đó, em con chú Tịch tôi là Nguyễn Thị Túy đã làm đơn gửi Trưởng thôn trình xin mai táng hài cốt (bác ruột). Đơn viết:
Tên tôi là Nguyễn Thị Túy hiện ở Đội 4, thôn Đại Hào là cháu của bác Nguyễn Xuân Tập,
Kính trình xin quý cấp một việc như sau: Bác tôi đã từ trần thời kỳ chống Pháp tại Quảng Bình. Nay chúng tôi đưa về mai táng tại Lăng mộ (gia đình) xứ Bề Miếu. Gia đình chúng tôi kính trình xin Ban thôn lễ hạ huyệt hài cốt. Xin 1 ông chấp lễ (lạy), 3 ông chấp lệnh (tiểu cổ, chiêng, trống), 2 ông Văn lễ.
Chương trình lễ
Vào …giờ…ngày…tháng…năm 2002
Lễ hạ huyệt, Tạ Thổ thầ, lễ Thành phần.
Trong thời gian Lễ mai táng, gia quyến kính mời Ban dự sự lễ, văn tế. Sau lễ kính mời Ban thôn dùng chén rượu lạt với gia quyến.
Gia đình chúng tôi rất mong được sự quan tâm của quý cấp.
Còn tôi, ngay sáng hôm sau ở Tuyên Hóa về, tôi bàn với anh Hậu và các em ở làng là nên hạ huyệt ngay, không để hài cốt Ba tôi lưu lại dương gian. Tôi chạy đi mời bác Trưởng tộc Nguyễn Ngọc Duệ, chú Trưởng chi Nguyễn Ngọc Hoát và dượng Ngô Xuân Duy, chồng o ruột tôi Nguyễn Thị Bút ra lăng để tiến hành lễ hạ huyệt.
 Mâm lễ chỉ có hương hoa và rượu. Ông Trưởng tộc Nguyễn Ngọc Duệ đọc bài Văn cúng tạ Thổ thần. Các cụ khấn vái xong cho người hạ huyệt cái tiểu sành đựng hài cốt xuống. Huyệt đã được chuẩn bị sẵn từ mấy ngày trước.
Bài Văn cúng tạ Thổ Thần mộ địa như sau:
Cung duy thổ thần!
Việt Nam tuế thứ Quý Mùi niên, chính nguyệt kiến Giáp Dần, sóc Ất Tỵ việt thập tứ nhật Mậu Ngọ. Quảng Trị tỉnh, Triệu Phong huyện, Triệu Đại xã, Đại Hào thôn, hiện cư ngụ tại miền Nam về quê quán.
Tự tôn hiếu chủ Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Ngọc Bổng, Nguyễn Thị Túy đồng hiếu quyến nữ hôn, tôn, tế, điệt nam nữ nội ngoại tâm thành cẩn dĩ phẩm vật phỉ nghi cẩn diệu cáo vu.
Bổn thôn Bài Miếu xứ Thổ địa chính thần vị tiền.
Long mạch thần quan
Tiền châu tước, hậu huyền võ, tả thanh long, hữu bạch hổ, tứ đại thần tướng, ngũ phương liệt vị thổ thần. Thị tòng bộ hạ, hộ vệ thân tín liệt vị.
Viết:
Cung duy thổ thần
Kim vì hiếu quyến Tằng tổ khảo Nguyễn Văn Doãn tịnh bà
                               Hiển tổ khảo Nguyễn Xuân Lạn tịnh bà
                                Hiển khảo Nguyễn Xuân Tập
                                Hiển thúc Nguyễn Xuân Tịch
                                Bào cô Nguyễn Thị Nghiện
                                Nội thân huynh đệ tỷ muội tảo vong sa sảo.
            Yêm khí trần thế, kép sinh an táng vu bổn xứ lăng nội chi nguyên thiết địa táng cát hung, sự quan họa phúc, nguyên khắc tướng, ký tư ư thần lực, nguyên tòng tâm hoạch toại ư nhâm mưu, ngu lâu thường tình, bất thăng cảm hạ. Tư nhàn mộ phần ký định, lăng bia tân tạo hoàn hảo huy hoàng, mộ phần tu trúc cao nấm ấm mồ như ý cẩn trạch, nhật bái tạ tôn thần giáng phúc phò hộ!
Phục vọng: Đức đại tải trì, mặc thùy giám cách, tỷ liệt hương linh, vĩnh vô hậu gian, đồng tộc khương an, trường diên phúc khánh.
 Cẩn cáo văn
Hiếu quyến đồng phụng bái!
Cung hiệp mẫu
Tự tôn: Hiếu chủ Nguyễn Xuân Bảo
                            Nguyễn Xuân Bổng
                            Cung kính bách bái!
Bài văn, bác Nguyễn Ngọc Duệ viết dùng nhiều chữ Nho. Bác Duệ là một nhà giáo dạy chữ Hán. Dân làng thường gọi là ông Giáo Duệ. Bác rất được dân làng quý trọng.
Ở nhà, cô Túy cùng các em con các mụ o tôi lo bày biện lễ cúng. Tiệc được thuê nhà hàng nấu và đưa tới, kể cả phần rạp. Mạ và các em tôi từ Biên Hòa ra kịp giờ dự lễ truy điệu. Khách khứa, bà con trong làng và các làng lân cận như Quảng Lượng, Mỹ Lộc đã tề tựu đông đủ.
 Được phép của Mạ tôi, tôi thay mặt gia đình đọc bài Văn điếu như sau:

VĂN ĐIẾU
Lễ Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập
Ngày 10 tháng 7 năm Nhâm Ngọ - 18/8/2002.
Sau 54 năm thất lạc, nay đã tìm thấy hài cốt của chồng, cha, ông chúng tôi là ông Nguyễn Xuân Tập, sinh năm 1908 (Mậu Thân). Quê quán: làng Đại Hào, tổng An Cư, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nay là thôn Đại Hào, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Đó là một hạnh phúc lớn của gia đình chúng tôi!
Tháng 8 năm 1945 ông Nguyễn Xuân Tập tham gia cướp chính quyền tại phủ Triệu Phong. Ngay từ những ngày đầu cách mạng thành công, ông gia nhập Vệ Quốc đoàn, vào Chi đội Nguyễn Thiện Thuật, tiền thân của Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 của Bình Trị Thiên. Ông đã kinh qua các chức cụ: Phái viên quân sự phụ trách huấn luyện dân quân du kích; tiểu đoàn trưởng; tổng đội ban trưởng và trưởng phòng quân nhu Trung đoàn.
Trong suốt những năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp, nhất là từ năm 1948 đến ngày ký Hiệp định Genève (1954), gia đình chúng tôi không nhận được tin tức gì về ông. Chỉ biết rằng ông từ giã gia đình vào ngày 10/10/1948 (nhằm ngày 12 tháng 9 âm lịch). Sau này gia đình chúng tôi lấy ngày ra đi đó của ông làm ngày Kỵ (Giỗ). Cái chết của ông được coi là mất tích trong chiến tranh.
Nhiều năm qua, gia đình chúng tôi đã ra sức dò hỏi, tìm kiếm nhưng đều vô vọng!
Năm 2002 này gia đình chúng tôi may mắn được người mách bảo chỉ dẫn và tìm được mộ phần của ông và biết được một số thông tin về ông. Ông Nguyễn Xuân Tập đã từng đóng quân ở huyện Tuyên Hóa. Ông bị bệnh mà chết và được đồng đội chôn cất tại thôn Minh Cầm Ngoại, xã Phong Hóa, tỉnh Quảng Bình.
Ngày 14 /8/2002, gia đình chúng tôi đã tổ chức di dời hài cốt ông về làng Đại Hào, cát táng trong lăng cùng những người thân quá cố.
Ngày 18/8/2002, gia đình chúng tôi mời chính quyền địa phương và bà con thân tộc nội ngoại và bạn bè gần xa đến dự lễ Tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập tại nhà thờ tổ tiên, vốn là nơi đã sinh ra ông.
Bài Văn ai do ông Nguyễn Ngọc Duệ, trưởng tộc họ Nguyễn tám phái, làng Đại Hào đọc trong buổi lễ tưởng niệm ông Nguyễn Xuân Tập.
                                                                        Trưởng nam Nguyễn Xuân Bảo
Kính cáo
                                                                        ***
            Tiếp theo chương trình, bác Giáo Duệ đã phụng độc bài Chín chữ cù lao – Công cao đức đại, (Thập thủ liên hoàn). Toàn văn như sau:
                        Ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Ngọ
            Tiết phụ, hiếu tử, từ tôn, đồng hiếu quyến
Cẩn cáo vu
Nghiêm phụ tánh Nguyễn Ngọc, húy Xuân Tập, thụy Trung Dũng
 chi hương linh tọa tiền
Kính thưa:
Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã. Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiếu thiên vọng cực, tận tâm ý thức
Cửu tự cù lao – Công cao đức đại. Tam xuân nhụ bổ, nghĩa trọng ân thâm.

Thiết niệm:
                                     I
Ân cha như biển cả tày non
Sực nhớ chin chìu ruột héo hon
Gia đạo nghiêm minh lo dạy vợ
Sinh nhai lam lũ liệu nuôi con
Ẳm bồng tay mẹ khi thơ ấu
Dạy dỗ công cha lúc lớn khôn
Vời vợi ơn sâu tròn chin chữ
Tác thành nữ giá với nam hôn
                        II
Nam hôn nữ giá gái cùng trai
Định liệu cho con vẹn cả hai
Xây dựng cửa nhà yên hiện tại
Kinh doanh sự nghiệp vững tương lai
Mong con mạnh khỏe không tai bệnh
Muốn cháu làm ăn có lợi tài
Hiếu trọng tình thâm đâu dễ trả
Tấm lòng chi xiết nỗi bi ai!
                        III
Bi ai gan ruột tựa như dầu
Châu lệ đôi hàng giọt ướt bâu
Cúc dục chưa đền ơn chin chữ
Sinh thành khốn trả hiếu nghìn câu
Trước bàn hương ngát dâng đôi nén
Trên án rượu ngon tiến một bầu
Trời biển công cha cao rộng lớn
Nghìn vàng chưa dễ trả ơn sâu

                        IV
Ơn trả chưa xong ruột rối bời
Cha về vui thú cảnh bồng lai
Màn loan nệm gấm còn đây mãi
Phách quế hồn hoa vẫn nhớ hoài
Gậy trúc đứng bên bàn sảnh tọa
Mũ rơm lạy trước án quan tài
Thương cha con biết lòng đau đớn
Khốn nỗi tang thương cuộc đổi dời

                        V
Đổi dời bể thẳm hóa cồn dâu
Riêng để cho con một mối sầu
Thảm bấy vùi hoa ngoài địa phủ
Giận thay chấm sổ đấng thiên tào
Chơi mây rong ruổi xe hoàng hạc
Qua cửa lẹ làng bóng bạch câu
Thấm thoắt đời người như ánh chớp
Nhớ thương con cháu ruột gan bào
                        VI
Gan bào ruột thắt nhớ cha xưa
Gian khổ lòng đau quặn gió mưa
Giữ mực sớm cần cùng tối kiệm
Mặc ai khuya rượu với mai trà
Xóm làng tông tộc lòng hâm mộ
Con cháu xa gần tiếng ngợi ca
Những tưởng cha già còn mạnh khỏe
Dâu ngờ vội tắt bóng ngày qua


                        VII
Ngày qua giấc mộng tịt mù trông
Chỉ thấy gò hoang giữa cánh đồng
Nhạn đậu hồng bay bao tuế nguyệt
Thỏ tà ác lặn mấy thu đông
Thành sầu dế đắp đầy phần mộ
Lưới thẳm nhện giăng khắp cánh thung
Tối viếng sáng thăm nào có thấy
Con ngồi nhớ bố cháu trông ông
                        VIII
Con ngồi nhớ bố cháu trông ông
Sực nhớ nhà thung lệ ứa hồng
Lầu hạc tiêu diêu bao nắng hạ
Canh gà xao xác mấy mưa đông
Loan xa phượng cách mơ hình bóng
Yến rẽ oanh chia tưởng dáng dong
Núi Hỗ trông cha nào có thấy
Kêu trời khôn thấu giữa thinh không
                        IX
Thinh không vắn thở với dài than
Cha đã xa chơi mấy dặm ngàn
Cõi Phật cửa hoa nơi cực lạc
Non Bồng nước Nhược chốn thanh nhàn
Buồn tình muôn hộc đong nào hết
Thảm lệ đôi hàng chảy khó ngăn
Cảnh có vui đâu phiền não chuốc
Hoa tàn cỏ úa nỗi sầu chan



                        X
Sầu chan cảnh vật ngắm buồn tênh
Đau xót bồi hồi cuộc tử sanh
Lễ bạc kính dâng ly rượu ngọt
Lòng thành xin rót chén trà thanh
Nhớ ghi cúc dục bao công đức
Báo đáp quyên ai bấy hiếu tình
Phủ phục kính thành quỳ trước án
Nguyện cầu siêu thoát chốn u minh!

            Phục vọng thân sinh
Lục nga thi vịnh lệ triêm khâm
Báo bổ vô cùng hiếu tử tâm
Mộc bổn thủy nguyên, ân mạc trắc
Càn sinh, khôn dục, đức vưu thâm
Huân hao trở đậu thành lai cách
Phưỡng phất âm dung tựa hữu lâm
Đạo đại đức hoằng nhân cảm mộ
Hiếu tư duy tắc cổ như kim
                        Tử
                        Nữ
                        Hôn
                        Tế
                        Tôn
                                    Điệt nội ngoại
                                    Cung hiệp mẫu
đồng ai bái!



Kính thưa hương hồn Mạ!
            Như vậy là con đã hoàn thành sứ mệnh Mạ giao cho: Đưa được Ba con về với quê hương bản quán; được sum vầy cùng những người thân quá cố trong Lăng gia đình; thỏa mãn được lòng mong đợi tiếc thương người chồng vô cùng kính yêu của Mạ; thỏa lòng chúng con khỏi băn khoăn áy náy bấy lâu nay!
            Nhân đây, thay mặt gia đình tôi tỏ lòng biết ơn thầy Nguyễn Bá Khai, người đã giúp chúng tôi tìm ra mộ Ba tôi; cảm ơn chính quyền thôn Minh Cầm; cảm ơn gia đình ông Trần Bá Ban; cảm ơn họ hàng thân bằng  quyến thuộc và bè bạn đã đến dự Lễ Tưởng niệm Ba tôi!
            Tôi cũng xin thành thật hoan nghênh Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người (UIA) được thành lập và đặt dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Trung ương Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, đã giúp nhiều nhà ngoại cảm tìm ra mộ liệt sĩ đã ngả xuống vì nước Việt thân yêu!
Bên bờ Phước Long Giang, sáng ngày 19/9 Mậu Tuất, nhằm ngày 27/10/2008
Nhà thơ Mai Lĩnh Sơn Xuân Bảo.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét