Trang

Thứ Bảy, 11 tháng 8, 2018

230. CHÙM THƠ VĂN VIẾT VỀ MÙA THU 2018


230. CHÙM THƠ VĂN VIẾT VỀ MÙA THU 2018

1. THÁNG TÁM RỒI ĐÓ.
Hôm nay đã bước sang ngày thứ nhất của tháng 8, Nhìn lại 7 tháng qua, thế giới cô biết bao biển động. Vui ít, buồn nhiều. Vui vì cuộc gặp mặt của hai lãnh đạo Mỹ và Triều Tiên đã bước đầu đem lại hòa bình cho nhân loại.
Buồn thì nhiều:
1.Lũ, lụt Tây Bắc và cả Hà Nội kéo theo sụt lở đất ở Hòa Bình.
2.Vỡ đập ở Lào, mang lũ đến sớm cho đồng bằng Củu Long.
3.Khảo thí thi PTTH ở Hà Giang ,Sơn La và vài nơi khác có chảnh phó chủ khảo vào nhà đá.
4.Tai nạn giao thông ngày càng nhiều và nghiêm trọng. Điển hình vụ 13 người chết trong ngày Vu quy biến ngày Đại hỷ thành Đại tang.
5. Có đến hơn chục tướng lĩnh của CA và QĐ vướng vòng lao lý.
6.Núi lửa phun trào ở Indonesia. Hỏa hoạn ở California.
Vui sao nổi?!

2. THU SANG EM ƠI.
Hôm qua 26/6 lịch âm, đã bước sang mùa Thu (tiết Lập thu). Trời đất vẫn vần vũ âm u. Lụt lội, hỏa họa, làm lòng người dân không yên.
Tuy nhiên, bao giờ mùa thu cũng đẹp. Vậy tôi muốn nhắc lại mấy câu thơ kết trong tác phẩm Hà Nội cơn lốc tháng 7, lấy từ bài thơ Màu thu của tôi (đã in sách Mấy nhanh hoa tím, xuất bản 1997) để nhớ về một mùa thu Hà Thành yên ấm ngày xưa:
Màu thu
Gửi Thu Hiền
Ơi ngọn gió thu lành
Mang mảnh trời thu xanh biếc
Mang mây chiều pha ráng bạc
Manh tình anh bay tới phương em.

Giữa mây chiều cánh chim cháy đỏ
Giữa bầu trời cánh chim say gió
Bay giữa khung trời, bay giữa cuộc đời
Là tình anh gửi về em đó

Ngoài kia, bên ngoài khung cửa sổ
Dập dìu cò trắng, lấp loáng trời xa
Ngọt ngào trong mỗi điệu dân ca
Anh gửi về em mênh mang nỗi nhớ

Ơi mùa thu xanh
Mùa của yêu đương vương vấn
Đôi mắt em in màu trời thu vành vạnh
Mùa thu sao đành vắng em
Anh nhìn đời qua cánh cửa phòng vuông vắn
Vẳng đâu đây khúc nhạc Su-be
Mùa thu ơi! Lòng ta bồi hồi
Em xa rồi…

Trong mây mùa thu em có thấy
Trong gió mùa thu em có nghe
Cánh chim bay trời thu đọng nắng
Mùa thu này cho anh gửi gắm
Tiếng lòng tìm tới phương em
                             Hà Nội - 1968
Bên bờ Phước Long Giang sáng 8/8/2018.
Xuân Bảo.


3. NẮNG THÁNG TÁM (LIGHT IN AUGUST).
Đầu tháng 8 năm nay, tôi may mắn được nhà văn Trần Nhã Thụy, Trưởng Chi nhánh Nhà Xuất bản Hội Nhà văn miền Nam biếu cuốn sách Nắng tháng Tám (Light in August). Đây là một tác phẩm lớn của nền văn học Hoa Kỳ. Tác giả là William Faulkner, (1897 – 1962) đã được tặng giải Nobel Văn học năm 1949. Và 2 giải Pulitzer năm 1955 và năm 1963. Ông là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế kỷ 20. Những sáng tác của Faulkner gây ảnh hưởng sâu rộng lên văn chương châu Mỹ La-tinh, Pháp, Nga…nếu không muốn nói là toàn cầu.
Hào quang của Faulkner
(Trích theo nhà văn Nhật Chiêu trong bài Hào quang của Faulkner nhân Kỷ niệm 50 năm ngày mất của W. Faulkner và Kỷ niệm 80 năm ngày phát hành Nắng tháng Tám).
 Nắng tháng Tám ra đời năm 1932 là tác phẩm trọng đại của W. Faulkner vào thời kỳ mà ông ném ra toàn kiệt tác, sau Âm thanh và cuồng nộ (1929), Khi tôi nằm chết (1930) và Absalom, Absalom! (1936).
Chen giữa những tác phẩm tân kỳ và phức tạp ấy, Nắng Tháng Tám dường như dễ đọc hơn, cho dù nó dài hơn 20 vạn từ! Nghệ thuật kể chuyện qua nhiều điểm nhìn, qua những làn sóng ý thức ở những kiệt tác trước đã lắng đi ở Nắng tháng Tám.
Nhưng không phải vì vậy mà tiểu thuyết này đơn giản hơn những bộ kia. Đây là hào quang của những gương mặt người. Và bao nhiêu chân dung là bấy nhiêu tính cách. Vẫn là những đối thoại đa thanh, những đối truyện đa thể, những độc thoại nội tâm đa đoan, những đảo chuyển thời gian đa tuyến và vô số suy tưởng đa nghĩa.
Màu da, giới tính, thiên nhiên, thành phố, tôn giáo, thế tục, cá nhân, cộng đồng va chạm và tương tác liên tục trong ánh sáng và bóng tối được Faulkner thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ giàu hình ảnh, vừa rực rỡ vừa thâm u, đầy ẩn nghĩa và sinh khí. Như thứ ánh sáng đầu thu kỳ diệu ở Mississippi. Như sự hoài thai và sinh nở.
Tám mươi năm nay, trong lòng độc giả, Nắng tháng Tám chính là hào quang của William Faulkner…
Các lời bình:
“Nói rằng Nắng tháng Tám là một màn trình diễn ấn tượng thật chẳng phải nói quá chút nào…Faulkner không chỉ tích hợp trong cuốn sách này thứ văn phong quyến rũ của sức mạnh và cái đẹp; ông còn cho phép một vài nhân vật của mình nếu không phải là nhân vật chính, thỉnh thoảng được quyền hành động vô cớ,  nằm ngoài những khuôn mẫu xã hội…Nghĩa là, Faulkner tự cho mình lý lẽ và sự thương cảm đối với hệ thống trong thế giới của ông”.
                                                          (Spectator)
“Quyển sách như rực lửa với sự phẫn nộ dữ dội trước bạo lực, sự ngu ngốc và lòng kiêu hãnh – một quyển sách tuyệt vời”.
                                                          (Arnold Bennett)
“Faulkner có một sức sáng tạo không mệt mỏi, trí tưởng tượng phong phú, và ông thường viết như một thiên thần”.
                                                          (Nhà văn Nhật Chiêu)
Nắng tháng Tám của William Faulkner thực sự là tinh hoa văn học của nhân loại. Trong đó số phận của CON NGƯỜI thật là vĩ đại. Macxim Gorki đã đề cập đến CON NGƯỜI trong lời tựa 27 mẩu chuyện nước Ý. “Chúng ta trìu mến chăm sóc hoa cỏ. Chúng ta yêu say mê nhiều thứ khác như hoa, nhưng chúng ta chưa chú ý đầy đủ đến việc săn sóc tâm hồn, săn sóc trái tim CON NGƯỜI. Chúng ta phải tập làm việc đó, vì dù cho cái xấu xa bề ngoài đó, CON NGƯỜI chẳng phải vẫn là cái gì vĩ đại nhất trên trái đất này hay sao?”.
Ở Faulkner, chúng ta lại thấy nhà văn đề cập đến CON NGƯỜI, ông nói: Con người bất tử, không vì giữa muôn loài, nó có tiếng nói không bao giờ tắt, mà chính vì nó có một tâm hồn, một tinh thần biết đồng cảm, hy sinh và chịu đựng. Bổn phận của nhà thơ, nhà văn là viết về những điều đó.
                                                                   (Nhà thơ Xuân Bảo)





                                                ***
Biệt lệ. W. Faulkner được chọn cho giải năm 1949, nhưng Ủy ban Nobel chỉ loan báo vào tháng 11 năm 1950. Ông đã đọc một bài diễn từ khi nhận giải vào tháng 12 cùng năm. Còn giải Nobel văn chương năm 1950 thì được trao cho triết gia người Anh, huân tước Bertrand Russell. Như vậy trong năm 1950 có 2 nhà văn nhận gỉaỉ cùng lúc cho 2 năm khác nhau.
Diễn từ nhận giải Nobel của W. Faulkner
(đọc tại Stockhom ngày 10 – 12 – 1950) Nhà văn Nhật Chiêu dịch
“Tôi cảm thấy rằng giải thưởng này không cho tôi như một con người mà trao cho tác phẩm của tôi – tác phẩm của một đoạn trường và mồ hôi của tinh thần con người, chẳng phải vì danh vọng, chẳng phải vì lợi nhuận mà chỉ dùng những chất liệu của tinh thần con người sáng tạo ra một cái gì mà chưa từng thấy trước đây. Thế nên giải thưởng này chỉ là  của tôi trong một sự ủy thác mà thôi. Cung hiến phần tiền thưởng sao cho xứng đáng với mục đích và ý nghĩa có từ ban đầu của nó thì có khác gì đâu – nhưng tôi muốn theo đó mà dùng giây phút được khen tặng này như một đỉnh cao mà từ đây tôi được các bạn trẻ nam nữ lắng nghe, những người sẵn sàng hiến mình cho niềm xao xuyến và lao khổ tương tự, thế nào trong đó cũng có một người một ngày kia sẽ đứng nơi tôi đứng hiện giờ.
 Bi kịch của chúng ta hôm nay là cùng chung nỗi lo sợ cụ thể, phổ biến kéo dài lâu rồi mà giờ đây chúng ta vẫn còn mang chịu. Không còn những vấn đề tinh thần nữa. Chỉ còn nghi vấn này: Khi nào chúng ta sẽ nổ tan tác đây. Do đó mà các bạn trẻ nam nữ cầm bút hôm nay đã lãng quên những vấn đề của tâm hồn con người đang giao chiến với chính mình, chỉ duy có điều ấy mới làm ra tác phẩm hay, bởi vì chỉ điều ấy mới đáng viết, xứng đáng với lao khổ và mồ hôi.
Phải học lại, phải tự nhủ rằng điều tệ hại nhất trong tất cả mọi người chính là sự sợ hãi; và tự nhủ rằng hãy vĩnh viễn quên đi niềm lo sợ, trong phòng viết chớ có dành chỗ cho điều gì khác ngoài những chân lý và niềm tin muôn đời của tâm hồn, những sự thật phổ quát nghìn xưa mà thiếu chúng thì mọi câu chuyện đều phù phiếm và tiêu ma. Đó chính là tình yêu và danh dự, trắc ẩn và tự hào, đồng cảm và hy sinh. Không như thế thì ta chỉ làm việc trong sự nguyền rủa mà thôi. Và chỉ còn viết về tình dục chứ không phải tình yêu, về những chiến bại mà chẳng ai mất mát chút ít giá trị nào, về những chiến công không có niềm hy vọng, càng không có trắc ẩn tình thương, những băn khoăn không gây nổi ngấn tích nào trên nhân loại, không để lại một vết sẹo nhỏ. Không còn viết về trái tim nữa mà về những hạch tuyến chẳng ra chi.
Chưa ôn lại những điều ấy thì chỉ viết như thể đang đứng lẫn đâu đó chờ đợi sự cùng tận của con người. Tôi quyết không chấp nhận sự cùng tận của con người. Rất dễ nói rằng con người bất tử chỉ vì giỏi chịu đựng, rằng khi tiếng chuông tận thế đã ngân tàn từ mỏm đá cuối cùng vô nghĩa, giữa hoàng hôn đỏ úa cuối cùng không có thủy triều lên, rằng ngay cả khi ấy vẫn còn âm thanh là tiếng nói yếu ớt không tắt của con người. Tôi quyết không chấp nhận điều ấy. Tôi tin rằng con người không chỉ chịu đựng mà hơn nữa sẽ vượt qua. Con người bất tử, không vì giữa muôn loài, nó có tiếng nói không bao giờ tắt, mà chính vì nó có một tâm hồn, một tinh thần biết đồng cảm, hy sinh và chịu đựng. Bổn phận của nhà thơ, nhà văn là viết về những điều đó. Có sứ mệnh giúp con người chịu đựng bằng cách nâng dậy tâm hồn con người, gợi nhớ lòng can trường và danh dự, hy sinh và tự hào, đồng cảm và trắc ẩn, cùng với sự hy sinh đã làm nên vinh quang trong quá khứ của con người. Tiếng nói của thi nhân không chỉ là tấm bia ghi công con người, mà còn là cột trụ giúp con người chịu đựng và vượt qua ”. ( Xuân Bảo nhấn mạnh đoạn kết).
                             Bên bờ Phước Long Giang,ngày 11/8/2018

               
         

                                                                                                                               


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét