218.MỘT KỶ NIỆM NHỎ VỚI ĐIỆN ẢNH
VIỆT NAM.
Hồi
ức của nhà thơ Xuân Bảo
Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 147/SL.
Ngày
15/3/1953, giữa Thủ đô Gió ngàn, tại khu Đồi Cọ, bản Bắc thuộc xã Điềm Mặc, huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 147/SL đặt Phòng Điện nhiếp ảnh trong Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thành “Doanh nghiệp Quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh
Việt Nam” - tiền thân của Điện ảnh cách mạng Việt Nam. Từ đó, ngành Điện ảnh
Cách mạng Việt Nam chính thức ra đời và từng bước phát triển.
Trên hành trình bôn ba khắp
năm Châu để tìm đường cứu nước, vào những năm hai mươi của thế kỷ XX, Bác Hồ đã
được tiếp cận với nền điện ảnh thế giới. Bác đã hiểu rất sâu sắc vai trò và sự
tác động mạnh mẽ, trực tiếp, sâu rộng và phổ cập của loại hình nghệ thuật điện ảnh.
Bên cạnh tư duy mẫn tiệp, sự nhìn xa trông rộng của một nhà chiến lược văn hóa
kiệt xuất, Bác còn là “bạn đồng nghiệp” rất thân thiết và gần gũi đối với các
nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam ngay từ những bước đi chập chững đầu tiên.
Năm 1953, thời điểm này,
cuộc “kháng chiến trường kỳ chống Pháp” của nhân dân ta vào giai đoạn quyết liệt
nhất. Quân dân ta chuyển giai đoạn từ “phòng ngự” sang “tổng phản công”. Trên
toàn chiến trường Đông Dương, tướng Henri Navarre co cụm lại và xây dựng cứ điểm Điện
Biên Phủ. Nhưng rồi “kế hoạch Navarre” cũng tan thành mây khói!
Nhân dân Liên Xô đặc biệt quan tâm và viện trợ
vô điều kiện cho Việt Nam. Trong lĩnh vực điện ảnh Việt Nam được đón tiếp nhà đạo
diễn và quay phim nổi tiếng Roman Lazarevich Karmen.
Đối với nền điện ảnh cách
mạng Việt Nam non trẻ, R. L. Karmen như người thầy, người anh, người bạn lớn. Bộ
phim "Việt Nam" của ông đã để l1 lợiại dấu ấn và những kinh nghiệm
sâu sắc cho nền điện ảnh Việt Nam.Sau này đổi thành “Việt Nam trên đường thắng
lợi”.Đây là bộ phim màu đầu tiên.
Ngày 18-7-1955, đạo diễn Roman Karmen vinh dự
được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất.
Roman Karmen (1906 - 1978) là một
trong những nhà làm phim tài liệu vĩ đại nhất thế kỷ XX. Cuộc đời nghệ thuật của
ông rất đa dạng trong các vai trò: Đạo diễn, biên kịch, quay phim, nhà báo, nhà
sư phạm điện ảnh. Những thước phim tư liệu mà Karmen để lại thật sự là những
thiên anh hùng ca huyền thoại. Ông
là người viết sử bằng máy quay.
Đạo diễn Roman Karmen cùng hai đồng sự
Xôviết Evghenhi Mukhin và Vladimia Echurin được Nhà nước Liên Xô giao nhiệm vụ
sang Việt Nam làm phim tài liệu vào những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện
Biên Phủ. Được sự chỉ dẫn của Bác Hồ, sự giúp đỡ tận tình của các đồng nghiệp
và nhân dân Việt Nam, Karmen đã miệt mài lao động, hoàn thành xuất sắc bộ phim
màu "Việt Nam" (1954) ghi lại những giây phút hào hùng nhất của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và những năm tháng hòa bình đầu tiên ở miền Bắc
Việt Nam.
Tháng 10/1954, từ chiến khu Việt Bắc,
Roman Karmen về Hà Nội để chứng kiến giờ phút bộ đội ta tiếp quản Thủ đô. Theo
lời kể của ông Lưu Phúc Thái, sĩ quan liên lạc dẫn đường cho đạo diễn Roman
Karmen ở Hà Nội, đoàn làm phim đi trên 3 chiếc xe Commăngca, xuất phát từ làng
Vòng lúc 5h30 sáng ngày 9/10, tiến vào trung tâm thành phố. Đường phố Hà Nội vắng
vẻ, chỉ có những người lính Pháp chuẩn bị cho cuộc ra đi vĩnh viễn... Chợt
Karmen muốn được quay cảnh bối rối của lính Pháp trước giờ rút khỏi Hà Nội nên
đoàn làm phim tiến vào khu Cột Cờ, điểm không có trong kịch bản. Đến 16h30 cùng
ngày, khi những chiếc xe cuối cùng của quân Pháp rút qua cầu Long Biên, Karmen
quay cảnh nhân dân Hà Nội đổ ra đường với ngập tràn cờ hoa. Người người rộn
ràng theo đoàn quân giải phóng tiến về Bờ Hồ. Đoàn xe của Karmen đi đầu, ông đứng
trên xe, hiên ngang giữa rừng cờ hoa. Nhân dân reo hò và vị đạo diễn đã hướng ống
kính máy quay ghi lại những hình ảnh cảm động ấy.
Sau bộ phim "Việt Nam",
Karmen còn viết 2 cuốn sách về những kỷ niệm ở Việt Nam "Ánh sáng trong rừng sâu" (1957) và "Việt Nam chiến đấu" (1958)
với nhiều câu chuyện hay và cảm động. Ông cho biết, hình ảnh đoàn quân giải
phóng tiến vào tiếp quản Thủ đô trong sự chào đón nồng nhiệt của đông đảo người
dân Hà Nội là cảnh quay đẹp. Ông đã chuẩn bị cho những cảnh quay này rất kỹ với
một niềm ưu ái và cảm hứng vô bờ. Karmen viết: "Bảy tháng ở Việt Nam, thời gian trôi nhanh đến mức không kịp nhận
ra những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh đã qua, những ngày hòa bình đầu
tiên đã đến. Trong tôi không thể nào phai mờ được những kỷ niệm về các cuộc gặp
gỡ với nhân dân Việt Nam, những trẻ em, bộ đội, du kích, những bộ trưởng, thầy
giáo, công nhân, nông dân… Lần đầu tiên trong đời, tôi đến đất nước và suốt đời tôi còn yêu mến nó".
Tôi
thi vào Trường Điện ảnh đầu tiên.
Đầu năm 1958, tôi đang thực
tập tại nhà Máy xay Đáp Cầu (Băc Ninh) thì nhận được Giấy báo dự tuyển vào Trường
Điện ảnh Việt Nam, khóa đào tạo đạo diễn và diễn viên đầu tiên. Tôi xin được
nghỉ phép năm và tức tốc về Hà Nội. Tôi về ở tại nhà ba me nuôi của tôi là ông
bà Vũ Văn Thư tại 20 ngõ Yên Ninh (Ba Đình).
Ngày
hôm sau (tôi không nhớ rõ là ngày nào) tôi đến nơi khảo thí. Ngôi nhà này nằm
trên đoạn đầu đường Trần Phú, gần đường xe lửa. Phía sau là ngôi biệt thự 24 Cột
Cờ, nơi ở của 2 nhà thơ lớn Cù Huy Cận và Xuân Diệu.
Xuân Diệu có câu thơ nhắc nhở thiên
hạ: “Nhà
tôi 24 Cột Cờ/Ai yêu thì đến hững hờ thì thôi’. Tại đây tôi có vinh dự
được làm quen với “ông phán finance Mỹ Tho Ngô Xuân Diệu” * và được nhà thơ tặng
2 tập thơ vừa mới xuất bản. Đó là tập Một
Khối Hồng và tập Riêng Chung.Thời
gian này tôi cũng chập chững bước vào Làng Thơ. Có lần tôi rụt rè đưa bài thơ mới
làm cho thi sĩ. Ông xem xong, vò nát vứt vào sọt giấy loại! Tôi không tự ái mà
2 năm sau, tôi lại tới “24 Cột Cờ” đưa cho ông xem bài thơ của tôi đăng trên
Người Hà Nội. Lần này, khi xem xong, ông chỉ phán có hai từ “Được đấy”!
.
Cùng lớp đi thi đầu tiên này tôi có quen biết với Huy Phương, Lâm Tới, Tuệ
Minh, Ngọc Lan, Minh Châu, Thượng Soạn, Bích Được và rất nhiều người khác, tôi
không biết hết. Người thầy chấm thi là nghệ sĩ Huân công
Mônakhov của Liên Xô. Tôi thi đến vòng “tiểu phẩm” thì bị loại.
*Nhà thơ Xuân Diệu có thời
làm công chức “tài chính, thường gọi là ông phán finance tỉnh Mỹ Tho”.
Tôi
đi đóng phim truyện “Lối rẽ trái trên đường mòn”.
Năm
1985, sau 27 năm thi hỏng vào ngành điện ảnh thì đột nhiên tôi được nhà đạo diễn
- nghệ sĩ nhân dân Huy Phương cất công từ Hà Nội vào mời tôi tham gia đóng phim
“Lối rẽ trái trên đường mòn”.
Đây
là bộ phim nói về đề chủ đề công nghiệp hóa. Kịch bản văn học của nhà văn Nguyễn
Mạnh Tuấn. Nguyễn Mạnh Tuấn trước đó đã có kịch bản phim Đứng trước biển, chuyển thể từ tiểu thuyết Cù lao Chàm của cùng tác giả.
Trên bảng giới thiệu phim có đạo diễn Huy Thành, phó đạo diễn Nhật Ninh,
quay phim Lê Đình Ấn, âm nhạc Hồng Đăng. Các vai chính: Lâm Tới. Kim Chi, Kim
Thành. Các vai khác có Lê Cung Bắc, Xuân Bảo, Ngọc Bích…Tôi được giao vai Chánh
Thanh tra Bộ (Công nghiệp Nặng). Thời lượng là 97 phút. Con gái thứ hai của tôi
Nguyễn Thúy Ngọc được phân công đóng vai quần chúng - công nhân của nhà máy Luyện
Cán thép. Bối cảnh và phim trường được
chọn là Nhà máy Luyện Cán thép Vicasa nằm trong Khu Công nghiệp Biên Hòa.
Hiện
tại trên Trang Phim hay Điện ảnh có Phim Lối rẽ trái trên
đường mòn dược xếp vào danh mục “Phim Việt Nam cũ hay nhất”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét