246. TUỔI GIÀ HOÀI CỔ
Ở vào cái tuổi trên 83, bỗng
nhiên tôi nhớ về tuổi thơ. Tôi đã sống hơn 10 năm dưới chế độ thực dân phong kiến
(1935-1945). Tôi được cắp sách đến trường học cả chữ ta (Quốc ngữ) và chữ Tây
(Francaise). Mấy tháng nghỉ vacance, tôi về quê lại được ông nội dạy cho chữ
Hán. Và ông cũng giảng giải những bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh cho tôi hiểu đạo lý
làm người.
Nay, tôi muốn truyền lại cho con cháu những
điều tốt đẹp trong những cuốn sách này.
I.Cuốn
Tứ thư.
Tứ Thư (四書) là bốn tác phẩm kinh điển của Nho học Trung Hoa, được
Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn. Chúng bao gồm:
Đại Học(大學)Trung Dung (中庸)Luận Ngữ (論語). MạnhTử (孟子).
Thông thường người ta hay nói là: Tứ
Thư Ngũ Kinh. Tứ Thư và Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo.
Các sách này còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc.
Sự học của Nho giáo có nhiều
lý tưởng cao siêu, nhưng có thể nói một cách vắn tắt là: sự học chú trọng ở
luân thường đạo lý, chủ trương biến hóa tùy thời, sự vụ thực tế nên không bàn đến
những cái viển vông ngoài sinh hoạt của con người nơi trần thế.
Đại Học
Đại học là một trong những
kinh điển trọng yếu của nho gia. Xưa, người đến tuổi 15 thì vào học bậc đại học
và được học sách này. Hai chữ "đại học" được nhà nho giải thích là
"đại nhân chi học", hiểu theo 2 nghĩa, là cái học của bậc đại nhân,
và là cái học để trở thành bậc đại nhân. Cách giải thích ấy phần nào hé lộ về nội
dung, mục đích của bộ sách. Đại học vốn chỉ là một thiên trong sách Lễ ký (Kinh
Lễ sau này), được Tăng Sâm - một học trò hạng trung của Khổng Tử chế hóa thành.
Tuy nhiên, nó chỉ thuộc bộ Tứ thư vào thời Tống, với sự xuất hiện cuốn Tứ thư tập
chú của Chu Hi. Trên đại quan, sách Đại học gồm 2 phần: Phần đầu có một thiên gọi
là Kinh, chép lại các lời nói của Khổng Tử. Phần sau là giảng giải của Tăng Tử,
gọi là Truyện, gồm 9 thiên.
Đại học đưa ra ba cương
lĩnh (gọi là tam cương lĩnh), bao gồm: Minh minh đức (làm sáng cái đức sáng của
chính mình), Tân dân (làm mới cho dân, ngụ ý sau khi tự sửa mình thành tựu lại
đứng ra giúp người cải cách, bỏ xấu theo tốt) và Chỉ ư chí thiện (an trụ ở nơi
chí thiện). Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8 điều mục nhỏ (gọi là bát
điều mục), bao gồm: cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật), trí tri (đạt tri
thức về sự vật), thành ý (làm cho ý của mình thành thực), chính tâm (làm cho
tâm của mình được trung chính), tu thân (tu sửa thân mình), tề gia (xếp đặt mọi
việc cho gia đình hài hòa), trị quốc (khiến cho nước được an trị), bình thiên hạ
(khiến cho thiên hạ được yên bình).
Minh minh đức ứng với cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm và tu
thân trong bát điều mục. Tân dân ứng
với tề gia và trị quốc. Chỉ ư chí thiện
tương ứng với bình thiên hạ. Bắt đầu từ chỗ làm sáng cái đức vốn sáng, vì có gốc
gác tiên thiên của bản thân mình, lấy đó làm khởi điểm cho sự tu đức. Kết quả
cuối cùng của quá trình này là làm cho tòa bộ thiên hạ được an trị, đó là cứu
cánh của nó. Sự tu đức, được coi là phổ dụng cho tất cả mọi người.Đó là cái gọi
là: "Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân,
nhất thị giai dĩ tu thân vi bản" (Nghĩa là: "từ vua cho đến thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa mình làm gốc").
Sách Đại học dạy người ta cách tu thân và cai trị thiên hạ theo chủ trương
"vi chính dĩ đức" của nho gia.
Trung Dung
Sách Trung Dung do Tử Tư
làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử,
cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử
Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về
cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá,
không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành
người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân. Sách Trung Dung chia làm hai phần:
Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của
Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn,
dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn
vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi.
Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến của
Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung dung.
Cả hai quyển sách Đại Học
và Trung Dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống
tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ
Thư.
Luận Ngữ
Luận Ngữ là sách sưu tập
ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời.
Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên
không có liên hệ với nhau.
Đọc sách này, người ta hiểu
được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ
ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời giảng dạy thích hợp
với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi cùng một câu hỏi mà
ông trả lời cho mỗi người một cách.
Trình Y Xuyên, một nhà Nho
đời Tống nói: Có người đọc xong Luận Ngữ mà không thấy gì cả, có người đọc xong
lại thấy thích thú một vài câu, có người đọc xong thì rất thích thú đến độ múa
tay múa chân mà không hay biết.
Bởi vậy, khi đọc Luận Ngữ,
phải đọc chậm rãi, suy nghĩ tường tận, càng suy nghĩ càng phát hiện được nhiều
điều hay.
Trình Y Xuyên lại nói: Ai
đọc xong Luận Ngữ mà vẫn còn những tính nết như trước khi chưa đọc thì người ấy
chưa hiểu được sách Luận Ngữ vậy.
Tóm lại sách Luận Ngữ dạy
đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu
mực cho người đời sau noi theo.
Mạnh Tử
Sách Mạnh Tử là bộ sách
làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như: Nhạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn
Chương v.v. ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa
Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết
khác như: học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu.
Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên,
chia làm 2 phần: Tâm học và Chính trị học.
Tâm học: Từ thời Mạnh tử, ông cảm nhận được một đấng vô hình nên hay
nhắc đến Trời. Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự
giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi
nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho
người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái
Tâm, nuôi cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẵn
trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị
mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng
nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
Phần Tâm học của Mạnh Tử rất
sâu xa, khiến học giả dù ở địa vị hay cảnh ngộ nào cũng giữ được phẩm giá tôn
quý.
Chính trị học: Mạnh Tử chủ trương: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất
mới và rất táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành.
Mạnh Tử nhìn nhận chế độ
quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân
và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được
vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc
nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ
luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành.
Chủ trương về chính trị của
Mạnh Tử thật vô cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm cho những người
chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được. Có thể đây là lý thuyết
khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
Tóm lại, bộ sách Mạnh Tử rất
có giá trị với Nho giáo. Phần Tâm học trong sách là đỉnh cao nhất trong học
thuyết Nho giáo.
Trình Y Xuyên nói: Kẻ đi học
nên lấy hai quyển sách: Luận Ngữ và Mạnh Tử làm cốt. Đã học được hai bộ sách
này rồi thì không cần học Ngũ Kinh cũng rõ thông được cái đạo của Thánh hiền.
Bộ sách Tứ Thư của Nho
giáo ra đời cách nay khoảng hơn 2.000 năm, đã trải qua bao sóng gió theo những
giai đoạn thăng trầm của lịch sử Trung Hoa. Lần thì bị Tần Thủy Hoàng đốt, lần
thì bị tiêu tan trong các cuộc nội chiến triền miên của Trung Hoa. Do vậy khó
tránh được nạn "tam sao thất bản". Đến đời nhà Tống, bộ sách này mới
được các danh Nho tu chỉnh. Đầu tiên là hai anh em họ Trình: Trình Hạo (1032-1085)
và Trình Di (1033-1107) hiệu là Y Xuyên, nghiên cứu, soạn tập và chú giải Tứ
Thư và Ngũ Kinh. Sau đó Chu Hy (1130-1200) hiệu là Hối Am, bổ cứu và sắp đặt
thành chương cú cho có thứ tự phân minh.
Ngày nay, có những bản
sách Tứ Thư và Ngũ Kinh là do công lao của hai anh em Trình Hạo, Trình Di và của
Chu Hy thời nhà Tống.
II. Ngũ kinh
Ngũ Kinh còn là cách gọi
khác của Ngũ Thư
Ngũ Kinh (五經) là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng
làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử
soạn thảo hay hiệu đính. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Năm quyển
Ngũ Kinh gồm có:
Kinh Thi (詩經): sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử,
nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi
người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong
sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con
trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết
nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
Kinh Thư (書經): ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ
có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương
các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ (禮記): ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính
lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói:
"Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
Kinh Dịch (易經): nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ
đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt
tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích
chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi
là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn
và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
Kinh Xuân Thu (春秋): ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng
Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước
nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để
giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân
Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng
Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc
xảy ra.
Ngoài ra còn có Kinh Nhạc
do Khổng Tử hiệu đính nhưng về sau bị Tần Thủy Hoàng đốt mất, chỉ còn lại một
ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy Lục kinh chỉ còn
có Ngũ kinh.
III.Tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc nổi tiếng
Tứ thư gồm: Đại Học, Trung Dung, Luận ngữ và Mạnh Tử
Ngũ kinh gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu
Tứ sử gồm: Sử ký, Hán
thư, Hậu Hán thư và Tam quốc chí
Tứ đại danh tác
gồm: Tam
quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký và Hồng lâu mộng
Tứ đại kỳ thư gồm: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký và Kim
Bình Mai
Ngũ đại truyền kỳ gồm: Kinh thoa ký, Bạch thố ký, Bái
nguyệt đình, Sát cẩu ký và Tì bà ký
Lục tài tử thư gồm: Nam
Hoa kinh, Ly tao, Thủy hử, Sử ký, Đỗ thi và Tây sương ký
Sách khác có Tam tự kinh, Nhị thập tứ sử, Nho lâm ngoại sử và Liêu
trai chí dị.
Bên bờ Phước Long Giang, tiết thu phân (14 tháng 8 Mậu Tuất),
nhằm ngày 23 tháng 9 năm 2018.
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét