234.3.CHÙM THƠ VĂN VIẾT
VỀ MÙA THU 2018
13. NGÀY TỔNG KHỞI
NGHĨA
.
Hồi ức của nhà
thơ Xuân Bảo
Sự
thực, sau ngày 23 tháng 8, khi chính phủ Trần Trọng Kim tan rã thì các cơ quan
công quyền từ triều đình cho đến làng xã, tổng, huyện, phủ, tỉnh như rắn mất đầu,
không có ai đến nhiệm sở. Hơn nữa, hệ thống thông tin liên lạc, chủ yếu chạy
công văn giấy tờ (trát, sức…) đều chạy bằng đôi chân. Từ trên triều đình xuống
làng xã hầu như đứt đoạn. Làng Thượng Phước lúc này trên danh nghĩa vẫn còn lý
trưởng. Ông tên là Bùi Hữu Đạt, vì kiêng húy nên dân làng thường gọi là ông xạ
Đợt (xã: tiếng Quảng Trị nói thành xạ). Tôi còn nhớ rõ hình ảnh mụ Khả, em gái
ông Bụi, cầm lá cờ đỏ sao vàng. Cờ được mắc trên một cây hóp dài, dẫn đầu đoàn
người trong thôn đi biểu tình, vòng quanh làng qua các kiệt. Bọn trẻ chúng tôi
chạy theo đoàn và cũng hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chí Minh muôn
năm!” Đoàn người theo ông Việt Minh Bùi Hồng Sa đến nhà ông Bùi Hữu Đạt, thường
gọi là xạ Đợt. Ông xạ Đợt bình tĩnh giao cái triện lại cho ông Bùi Hồng Sa. Còn
các huyện đường, phủ đường thì Việt Minh ung dung vào chiếm giữ. Và quần chúng
được huy động tham gia biểu tình thị uy, biểu dương thanh thế cách mạng trong
ôn hòa.
Tôi
còn nhớ rõ hình ảnh mụ Khả, em ông Bụi cầm lá cờ đỏ sao vàng. Cờ được mắc trên
một cây hóp dài, dẫn đầu đoàn người trong thôn đi biểu tình, vòng quanh làng
qua các kiệt. Bọn trẻ chúng tôi chạy theo đoàn và cũng hô vang “Việt Nam độc lập
muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!”
Ba
chiến sĩ tiền khởi nghĩa là những người cộng sản đầu tiên gồm Bùi Hồng Sa, Lê
Luyện và Nguyễn Minh Tự chính thức ra mắt dân làng. Chính quyền mới do Ban Chủ
nhiệm Việt Minh điều hành.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945, một
cuộc mitting lớn được tổ chức trước cổng tòa công sứ Pháp (lúc này do bọn Nhật
chiếm đóng). Và sau này là trụ sở của Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh
Quảng Trị. Thay mặt Ủy ban Khởi nghĩa, ông Trần Hữu Dực trịnh trọng tuyên bố
thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh, xóa bỏ chính quyền cũ. Sự thực
thì cái gọi là “chính quyền bù nhìn” của thủ tướng Trần Trọng Kim đã tự xóa tên
mình cũng trong ngày 23 tháng 8, chấm dứt Đế quốc Việt Nam, khởi đầu ngày 11
tháng 3 và kết thúc vào ngày 23 tháng 8 năm 1945, sau 5 tháng 6 ngày.
Trong
ngày này (23-8-1945), Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị đã ra 2
Quân lệnh. Quân lệnh số 1 phát đi lúc 10 giờ sáng, có nội dung: “Tất cả lực lượng
vũ trang chiếm đóng hoặc dự bị, kể cả lực lượng hỗn hợp giữ nguyên tại chỗ. Người
và vũ khí không được thay đổi, di chuyển cho đến khi có lệnh mới”. Và sau 2 tiếng,
tức lúc 12 giờ trưa, Quân lệnh số 2 đước phát đi với nội dung: “Mở cuộc đăng ký
tuyển quân, cấp tốc thành lập Chi đội Giải phóng quân với tổng số 1.500 chiến
sĩ, kể cả một số đơn vị trực thuộc như thông tin, quân y, quân nhu”.
Khởi
nghĩa thành công không một tiếng súng!
***
Ba
tôi là một trong số cán bộ đại đội, tiểu đoàn vốn là cai, đội lính khố xanh, khố
đỏ, có tinh thần yêu nước, tự nguyện tham gia vào Chi đội Giải phóng quân. Ngày
9 tháng 9 năm 1945, Chi đội chuyển đổi thành Chi đội Thiện Thuật. Theo Sắc lệnh
số 71, ngày 22 tháng 5 năm 1946 của Chính phủ về tổ chức Quân đội Quốc gia Việt
Nam, Chi đội Thiện Thuật đổi thành Trung đoàn 95. Trung đoàn có 3 tiểu đoàn 13,
14 và 15 và 1 tiểu đoàn lính nữ. Song song với lực lượng chủ lực, tỉnh chú ý
xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, gọi là Tỉnh đội Dân quân.
Buổi
sơ khai này Quân đội nhân dân Việt Nam có rất nhiều tên gọi: Giải
phóng quân, Vệ quốc quân, Vệ quốc đoàn. Đầu năm 1946, Ba tôi được Ban
Chỉ huy Trung đoàn cử về xã Phong Sơn (trước đó có tên là xã Công Ái) với
chức danh là Phái viên Quân sự, có nhiệm vụ trực tiếp huấn luyện
quân sự cho dân quân và du kích ở các thôn Thượng Phước, An Đôn, Nhan Biều.
Mỗi
thôn được thành lập một Ban Dân quân. Thôn Thượng Phước có 2 tiểu đội dân quân.
Một tiểu đội nam và một tiểu đội nữ. Trong tiểu đội nữ này có các chị Bùi Thị
Thản (con bà Nguyễn Thị Lý, dì ruột của tôi), chị Trần Thị Dàn, chị Lê Thị Phụ
và nhiều chị khác.
Tôi
thường được ông cho đi theo vào bãi tập, sau mới gọi là thao trường
tại nương mít Mụ Hểu. Đây là một cái trảng rất rộng, bằng phẳng. Chữ
làng, sau này mới đổi thành thôn. Chương trình huấn luyện bắt đầu từ
các động tác tập họp đội hình, nghiêm nghỉ, bước đi một hai, một hai
rồi tiến tới lăn lê bò toài. Súng chỉ có hai khẩu: súng trường
mút-cờ-tông (mousqueton) và một khẩu tiểu liên mi-tờ-ray-dét
(mitraillètte). Dân quân được trang bị quân phục. Áo quần may bằng vải to,
một loại vải do người nông dân quê tôi tự trồng lấy cây bông vải, tự
kéo thành sợi và dệt trên khung cửi thủ công. Chị Thản tôi là người
phụ nữ đầu tiên mặc bộ đồ quân sự cũa người lính Giải phóng quân.
Chị mặc áo sơ-mi ngắn tay, hai túi trên có nắp, có cầu vai và quần
soóc toàn màu trắng, trông rất đẹp. Vì không có đủ súng nên phải
đẽo cây theo hình dạng khẩu súng để tập động tác bồng súng lên và
bỏ súng xuống. Có những buổi tối, tôi thấy Ba tôi ngồi giữa sân của
Ông Ngoại, trước mặt là một cái nống. Ba tôi tháo rời khẩu súng
trường ra và giảng giải cho dân quân nghe: đây là cái cơ bẫm, đây là
nòng, đây là đầu ruồi…Ba tôi có một giọng nói rất âm vang, hùng hồn
và hấp dẫn. Trong những cuộc mitting, ngoài việc điều khiển hành lễ,
ông còn được phân công đọc các bài văn tế làm sục sôi ý chí chiến
đấu cho mọi người. Tôi còn nhớ được mấy câu:
“Hỡi ôi!
Hoàng Thiên chốn
thấu thương lũ xâm lăng
Tạo hóa vô tình
ghét người chí sĩ
Đoàn dân tộc ra tay
gầy dựng,
Đem lòng thân ái nâng
niu
Lũ dã man lên mặt
hung tàn,
Một phút anh em ly
dị
Bâng khuâng kẻ mất
người còn
Tưởng tượng lòng ghi
nghĩa để…”
***
Vai
trò phái viên quân sự của Ba tôi chấm dứt khi tiếng súng quân Pháp bắt
đầu tấn công nống chiếm Quảng Trị. Tôi còn nhớ rõ, khi Hà Nội bước vào
Ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, thì trước đó, quân Pháp được quân Anh Ấn
giúp sức đã gây hấn ở Sải Gòn vào ngày 23 tháng 9 năm 1945 và sau đó chúng đổ bộ
lên cửa biển Tư Hiền và cửa biển Thuận An, chiếm lại kinh thành Huế.
Ngày
10 tháng 2 năm 1947, chúng chia thành 2 cánh quân, nống ra Quảng Trị. Hướng
nam, quân Pháp đã sử dụng 1.500 binh lính, có xe tăng đi cùng và dưới sự yểm trợ
của pháo binh và không quân tiến chiếm Mỹ Chánh, Diên Sanh… Cùng ngày, từ hướng
tây, chúng xua 500 quân, từ Sa-vằn-na-khẹt (Trung Lào), đánh chiếm Lao Bảo rồi
tiến về Đông Hà, hợp quân hướng nam vào thị xã Quảng Trị. Hồi 3 giờ 30 phút
sáng ngày 16 tháng 2 năm 1947, quân Pháp chiếm hoàn toàn thị xã.
Ba
tôi trở lại Trung đoàn và ông được phân công làm tiểu đoàn trưởng một
tiểu đoàn chủ lực của tỉnh. Chú ruột tôi, thầy giáo Nguyễn Xuân Tịch
được bố trí làm quản trị trưởng tiểu đoàn 13 và o ruột tôi tên là
Nguyễn Thị Nghiễn, bí danh là Thanh Tâm được điều về Ban Chính trị
Trung đoàn 95. Chú Tịch của tôi hy sinh năm 1949 và được công nhận là
liệt sĩ. O Nghiễn thì bị bệnh cảm nặng khi bơi qua sông tránh giặc
và sau đó hy sinh.
Bên bờ Phước
Long Giang, chiều ngày 30/8/2018
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét