Trang

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2018

243. Nguyễn Du viếng Khuất Nguyên

243. Tiến tới Kỷ niệm Ngày Giỗ Đại thi hào Nguyễn Du

NGUYỄN DU VIẾNG KHUẤT NGUYÊN.

Có lẽ, từ xưa đến nay, ở Việt Nam ta chưa có nhà thơ nào có nỗi đồng cảm day dứt, đau đáu với Khuất Bình như đại thi hào Nguyễn Du. Chính vì vậy, mỗi năm khi tiết Đoan Dương, còn gọi là Đoan Ngọ, nhằm ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch về tôi cũng không nén nỗi niềm tiếc thương đối với Khuất Nguyên.
Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta khối lượng tác phẩm đồ sộ viết bằng văn Nôm: Kim Vân Kiều truyện, thể lục bát gồm 3254 câu.Văn tế thập loại chúng sinh, thể song thất lục bát. Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu.Thác lời trai phường nón, 48 câu. Và 3 tập thơ chữ Hán là Thanh hiên thi tập, 78 bài. Nam trung tạp ngâm, 40 bài và Bắc hành tạp lục, 131 bài.

Bắc hành tạp lục (Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc) là tập thơ bao gồm 131 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Trung Quốc từ đầu năm Quý Dậu 1813 đến đầu năm Giáp Tuất 1814. Đây là một tập thơ nói lên lòng thương cảm sâu xa những người trung nghĩa bị hãm hại, những người tài hoa bị vùi dập, những người lao động cùng khổ bị đói rét cùng nỗi khinh ghét giới thống trị kiêu căng và tàn bạo, được Nguyễn Du nói lên bằng những vần thơ hết sức sâu sắc . Phần lớn trong Bắc hành tạp lục là thơ luật, gồm 76 bài thất ngôn bát cú, 11 bài ngũ ngôn bát cú, 18 bài thất ngôn tứ tuyệt; chỉ có 8 bài thất ngôn cổ phong, ngũ ngôn cổ phong và 18 bài trường thiên (thất ngôn, ngũ ngôn hoặc trường đoản cú) theo thể ca và hành.

Đề tài "vịnh sử" gồm khoảng 50 tác phẩm, trình bày cảm xúc và suy nghĩ về một loạt nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhân đi qua các di tích của họ, như Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu (Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu, 2 bài), Dự Nhượng chùy thủ hành (Bài hành về cái dao găm của Dự Nhượng), Sở Bá vương mộ (Mộ Sở Bá vương), Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác (Qua sông Hoài, cảm nhớ Hoài Âm hầu) v.v...Ở nhóm thơ này có khá nhiều bài hay và nổi trội hơn cả là bài thơ Phản chiêu hồn.
Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi.

Nguyễn Du đã có thể đã tìm thấy ở Khuất Nguyên những điểm tương đồng với chính mình khi ông đã dành sáu bài thơ nhắc đến Khuất Nguyên. Đó là các bài Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu (Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu, nhị thủ, 2 bài), Biện Giả Nghị (Bác Giả Nghị), Trường Sa Giả thái phó (Giả thái phó đất Trường Sa), Ngũ nguyệt quan cạnh độ (Tháng 5 xem đua chải), Phản chiêu hồn (Chống bài Chiêu hồn).

Tương Đàm điếu Tam lư Đại Phu
(Nhị thủ)
Qua Tương Đàm viếng Tam Lư Đại Phu
Bài I
Người hiếu tu sống cách hai nghìn năm
Ngày nay đất còn thơm mùi hoa chỉ, hoa lan
Xa quê ba năm buồn phiền vì bị tống xuất
Nghìn đời sau thơ của ông vẫn hay nhất
Rồng cá đầy sông cốt tìm chẳng thấy
Bên bờ Đỗ nhược có giống cỏ thơm
Nhướng mắt đau lòng không biết là đâu
Gió thu lá rụng khi qua vùng Nguyên,Tương.
Qua Tương Đàm viếng Tam lư Đại Phu.
Bài II
Người nước Sở oan hồn chôn nơi đây,
Khói sóng mênh mông cứ nhìn hoài không cùng.
Hiến lệnh đó nếu đã được ban ra khắp mọi nơi,
Thì làm gì có Ly tao kế với Quốc phong?
Ngàn năm trước ai hiểu người tỉnh một mình,
Bốn phương lòng trung biết gửi nơi nào?
Thời này quần áo mặc sao là lạ,
Hoa tiêu lan nay cũng chẳng giống của ông.
Phản Chiêu hồn
Chống Bài Chiêu hồn
Hồn ơi! Hồn ơi! sao chẳng về?
Đông tây nam bắc không tựa kề
Lên trời xuống đất đều không ổn
Đất Yên đất Dĩnh về làm chi?
Thành quách xưa nhưng lòng dân đổi
Nhuốm bụi nhiều quần áo bẩn dơ
Đi ra xe ngựa, nhà vênh váo
Ngồi bàn tán chuyện ông Quì, Cao
Không hề để lộ nanh độc ác .
Nhưng cắn xé người ngọt biết bao!
Có thấy chăng cả trăm vùng Hồ
Toàn người gầy ốm, béo có đâu
Hồn ơi! Hồn hỡi! theo đường đó,
Thì sau Tam Hoàng đà lỗi thờị
Sao bằng tìm về cõi hư vô
Về đây chi để người mai mỉa
Đời sau ai ai cũng Thượng quan
Mặt đất đó đây đều sông Mịch
Cá rồng không ăn, beo cũng nuốt
Hồn ơi! Hồn ơi! biết làm sao?
Ở bài Phản Chiêu hồn này, ta thấy Nguyễn Du cảm phục và coi Khuất Nguyên như một người tài hoa nhưng gặp toàn bất hạnh. Khuất Nguyên lúc sinh thời thường đeo bên mình một giỏ hoa lan, hoa chi, làm bạn đồng hành, một loại cỏ thơm cũng thanh cao như tấm lòng Khuất Nguyên. Nghĩ đến Khuất Nguyên với một cái nhìn khác lạ với dân gian hay với Tống Ngọc. Trong khi Tống Ngọc cho rằng hồn phách Khuất Nguyên sắp tiêu tan nên gọi hồn Khuất Nguyên về để có nơi nương tựa, thì Nguyễn Du cho rằng khắp mặt đất đâu đâu cũng là Mịch La, ai ai cũng là Thượng quan thì làm gì có chỗ trong sáng đủ để cái tâm thanh khiết của Khuất Nguyên có chỗ nương tựa. Phản đối việc gọi hồn, Nguyễn Du lại muốn hồn Khuất Nguyên mau mau về cõi hư vô.
Chiêu hồn là một bài từ của Tống Ngọc, người cùng thời với Khuất-Nguyên. Trong bài có nói Tống Ngọc thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan nên làm bài từ để gọi hồn cho sống lâu hơn. Nguyễn Du phản lại ý đó, ý muốn nói hồn không nên trở lại cõi trần gian có đầy những kẻ gian ác thâm hiểm.
Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã viết: bài thơ Phản Chiêu hồn trong Bắc hành tạp ngâm, là một tiếng kêu của Nguyễn Du đột ngột bật lên giữa cả một chuỗi suy nghĩ trầm trầm trong thơ chữ Hán. Đây quả là cao độ của một tiếng nấc, của một bế tắc, của một bi kịch và chưa ở đâu sự bi phẫn và đau thương dồn lên cao vút như ở bài Phản chiêu hồn.

Biện Giả Nghị
Bác Giả-Nghị
Không qua đường Hồ Nam
Sao biết sông Tương sâu ?
Không đọc "Hoài sa phú "
Sao biết lòng Khuất Nguyên?
Lòng Khuất Nguyên, nước sông Tương,
Ngàn vạn thu lòng vẫn trong suốt.
Cổ kim khó gặp bạn đồng tâm
.
Trong bài thơ này Nguyễn Du bày tỏ ý kiến bênh vực Khuất Nguyên đối với bài phú Viếng Khuất Nguyên của Giả Nghị. Giả Nghị, (201-169 TCN) một vị quan đời Hán, vì bị quan thần bài xích nên bị đổi đi làm thái phó ở Trường sa. Khi đi qua sông Tương, Giả Nghị làm bài phú Viếng Khuất Nguyên, ngụ ý than thở cảnh ngộ mình, đồng thời có ý thắc mắc sao Khuất Nguyên không đi tìm vua khác mà thờ, mà phải ôm lấy cố đô làm chi ?
Hoài sa phú: là một trong chín bài đề "Cửu chương" của Khuất Nguyên, tỏ ý Khuất Nguyên không muồn nhìn cảnh quốc gia bị mất nên quyết định tự tử ở sông Tương. Trong bài phú Viếng Khuất Nguyên của Giả Nghị có câu có nghĩa đi tìm vua khác mà thờ, sao phải ôm lấy cố đô làm chi. Nguyễn Du bác bỏ ý này của Giả Nghị.

Trường sa Giả Thái Phó
Giả Thái Phó đất Trường Sa
Giáng, Quán quan võ không hiểu nhiều,
Vua Hiếu đạm bạc ngại đổi thaỵ
Bàn sơ khó thấu tài uyên bác,
Trọn nghĩa chức vụ, chết vì buồn
Trời cho tài mà không đất dụng,
Một chiều chim lạ báo điềm xuị
Tương Đàm gần gũi trong gang tấc,
Ngàn năm gặp gỡ chung tấm lòng.
Ngũ nguyệt quan cạnh độ.
Tháng năm xem đua chải
Sở vương cốt đã rước, Trương đã chết,
Một văn nhân nước Sở với chùm lan
Ngàn năm gọi hồn, hồn vẫn ẩn,
Đầy sông thuyền chải, nghĩa gì đâu
Mịt mờ khói sóng thương xót hão,
Chiêng trống hàng năm vẫn bày trò
Hồn kia có về nương đâu nhỉ ?
Rắn rồng quỉ quái đầy thế gian.
Bài thơ này Nguyễn Du làm khi có dịp xem đua chải trên sông Tương Đàm vào ngày giỗ Khuất Nguyên (ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch). Hội đua thuyền này tượng trưng cho việc tìm thi thể nhà thơ, mà theo Nguyễn Du thì không thích hợp. Hai câu chót trong bài thơ đã được nhiều người cho rằng có ý ký thác tâm sự của chính Nguyễn Du trong bài thơ này.
Bên bờ Phước Long Giang, những ngày sắp tới Ngày Giỗ Đại thi hào Nguyễn Du 16/9/Mậu Tuất

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét