CHÚNG
TA TIẾP TỤC ĐÒI CÔNG LÝ CHO NẠN NHÂN CHẤT ĐỘC CAM/DIOXIN DO CHÍNH PHỦ HOA KỲ TIẾN
HÀNH Ở VIỆT NAM.
Nhà
báo , nhà thơ Xuân Bảo.
Ngày
18/4/2017, Tòa án Quốc tế tại thành phố The Hague (Hà Lan) phán xử Tập đoàn Monsanto (Mỹ) gây tổn hại môi trường, phạm tội
ác “diệt chủng thiên nhiên” và tội ác chiến tranh vì sản xuất và cung cấp cho
quân đội Mỹ chất độc cam/dioxin thời chiến tranh Việt Nam.
Năm 2012, tôi đã có 2 bài báo nói về vấn đề
này. Tuy nhiên chính phủ Mỹ và Tòa án các cấp gồm toà án Liên bang Mỹ (Quận Tây
Brooklyn New York ), Toà phúc thẩm lưu động số 2 New York và Toà án Tối cao Hoa Kỳ đã không xem
xét đến yếu tố bồi thường cho nạn nhân bị phơi nhiễm chất độc cam/dioxin của Việt
Nam.
Hôm
nay, nhân Tòa án Quốc tế The Lague tuyên bố khẳng định Monsanto phải chịu trách
nhiệm về chất độc cam/dioxin tại Việt Nam. Tuy nhiên tập đoàn này vẫn ngoan cố
chối bỏ. Do đó, tôi trích đăng lai một phần nội dung các bài báo mà tôi đã viết,
góp thêm tiếng nói công lý cho nạn nhân chất độc này và cảnh báo cho nhân loại
nhận thức được rằng “bọn lái súng” chẳng bao giờ từ bỏ âm mưu chiến tranh, kể cả
các loại vũ khí chất độc hóa học, vi trùng, thậm chí cả bom A và bom H.
Bài số 1.DI HỌA KHÔN LƯỜNG.
Từ buổi bình minh nhân
loại, con người thoát xác không bò bốn chân nữa mà vươn lên thành vượn người,
sinh sống bằng hái lượm trên đôi tay của mình. Các bộ tộc hình thành và đã xuất
hiện xung đột bộ tộc. Con người đã tìm ra các độc tố tự nhiên trong động vật và
thực vật tẩm vào mũi tên, đầu gươm, ngọn giáo để tiêu diệt lẫn nhau.
Đến thế kỷ 19, các nhà
khoa học Pháp đã dùng hóa chất diệt cỏ trong nghề làm vườn. Song, loại hóa chất
này có gốc A.sen rất độc cho nên không bao lâu sau đã bị cấm không cho sử dụng.
Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 – 1918) ngày 22/4/21915 quân Đức đã sử dụng chất độc chlo làm nhiễm
độc và làm chết hàng ngàn quân Anh, Pháp. Tháng 7/1917, quân Đức tiếp tục sử dụng
chất độc y.perit trên chiến trường. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945)
quân Nhật sử dụng y.perit tại Trung Quốc. Quân Đức sử dụng chất ziclon B đầu độc
tù nhân ở các trại tập trung.
Ở Mỹ từ những năm 1937
– 1938, các công ty hóa chất Hoa Kỳ phát hiện ra các chất diệt cỏ có gốc
Phenoxy (Phenoxy herbicides) có tác dụng diệt cỏ hiệu quả. Hai chất trong nhóm
này được sử dụng là chất 2,4 D (2,4 Dicloro phenoxy acétic acid) và 2, 4, 5 – T
(2,4,5 Trichloro phenoxy acétic acid). Đây được coi là những phát minh lớn. Và
từ những năm 1940, nhanh chóng được đưa vào sử dụng trong nông nghiệp, lâm nghiệp
và nghề làm vườn. Các chất diệt cỏ cùng với các chất diệt sâu làm hại mùa màng
đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng xanh ở nhiều nước trên thế
giới.
Cũng như nguyên tử, mặt
phải của nó là phục vụ dân sinh, phục vụ hòa bình nhưng những tên trùm lái súng
đã lợi dụng nó để đưa vào chiến tranh với mục đích hủy diệt. Thảm họa Hirosima
và Nakazaki năm 1945 do Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật là một minh chứng. Tìm
ra các chất diệt cỏ, diệt sâu bọ là để làm tăng năng suất mùa màng đem lại no ấm
cho con người. Song những tên thực dân kiểu mới Hoa Kỳ đã sử dụng nó vào mục
đích chiến tranh. Hoa Kỳ lại được sự tiếp tay của Ngô Đình Diệm. Diệm đã trắng
trợn tuyên bố: “Việc rải chất khai quang là một phương tiện rất hiệu quả mà các
nước chậm phát triển có thể sử dụng để chống lại chiến tranh du kích của Cộng sản.
(Diệm trả lời Đài tiếng nói Hoa Kỳ ngày 7/3/1962). Chả thế mà khi tiến hành
phun rải Mỹ ngụy đã phải sơn cờ ba que đỏ sọc vàng lên thân máy bay và quân
nhân ngồi trên đó phải mặc thường phục?! Vải thưa sao che nổi mắt thánh!
.
CHIẾN
DỊCH RANCH HAND
Một binh chủng không lực
Hoa Kỳ được mang mật danh “Binh chủng
không quân 309” có nhiệm vụ chuyên trách các vụ rải. Chiến dịch sử dụng chất
diệt cỏ và làm rụng lá cây được tiến hành với mật danh là “chiến dịch operation
Ranch Hand”. Mục đích của chiến dịch được phía Mỹ xác định là: làm trụi lá cây
để tạo điều kiện thuận lợi việc quan sát, phát hiện nơi trú quân của đối
phương. Ngoài việc rải nó bằng máy bay, chất diệt cỏ còn được sử dụng bằng các
phương tiện trên mặt đất (ô tô, tàu thuyền, bình phun tay…) quanh các vị trí
đóng quân, trận địa pháo binh của quân đội Mỹ - ngụy và chư hầu; dọc hai bên đường
giao thông thủy, bộ để tránh sự tấn công của quân du kích. Mục tiêu thứ hai không
kém phần quan trọng là phá hoại mùa màng, nhằm triệt phá nguồn lương thực, thực
phẩm của đối phương làm cho họ đói, mất khả năng chiến đấu, rối loạn hàng ngũ.
Và cuối cùng là giúp Mỹ - ngụy giành “thắng lợi” quân sự ?! Than ôi, ngày tàn của
chúng trước sau rồi cũng sẽ đến!
Tôi còn nhớ những ngày
tháng năm 1959, Hà Nội sục sôi biểu tình phản đối bọn xâm lược Mỹ và tay sai bỏ
thuốc độc, giết chết hơn 1.000 người tù ở nhà giam Phú Lợi. Nhà thơ Tố Hữu đã
phải thét lên:
Đồng
bào ơi anh chị em ơi!
Hỡi
lương tâm tất cả loài người
Hãy
nghe tiếng của nghìn người bị giết
Không
sống nữa nhưng không chịu chết
Nghìn
hồn oan bay khắp nhân gian
Thù
muôn đời, muôn kiếp không tan…
Thực chất chất diệt cỏ,
hay còn gọi là chất khai quang không đơn thuần như tên gọi mà là cái chất độc để
Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học kéo dài tới 10 năm - một cuộc chiến
tranh hóa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Trong những năm đầu
1961 – 1964, Mỹ thường dùng hóa chất màu tím (egent purple) và màu xanh lam
(agent blue). Hai hóa chất màu hồng (agent pink) và màu xanh lá cây (agent
green) cũng được dùng nhưng với quy mô nhỏ hơn.Khoảng tháng 1/1965, hai công thức
mới của chất diệt cỏ được đưa vào chiến trường, đó là chất màu da cam (agent orange) và chất màu trắng (agent
white). Các danh từ Da cam, Tím, Hồng, Xanh, Xanh lá cây… thực ra chỉ là mật
danh quân sự và thể hiện bằng một vòng sơn, rộng khoảng 20cm quanh thùng 200
lít chứa hóa chất để dễ nhận biết trong khi vận chuyển và bảo quản.
Chất độc cam (agent
orange/dioxin) là dung dịch màu hồng - nâu hòa tan trong dầu diesel và các dung
môi hữu cơ, không hòa tan trong nước; chất độc da cam là hỗn hợp 50 : 50 của
hai chất n-butyl ester 2,4D và 2,4,5-T.
Bắt đầu từ chiến dịch
Ranch Hand, quân đội Mỹ đã thực hiện ở chiến trường miền Nam Việt Nam một số lượng
hóa chất khổng lồ với kinh phí ban đầu là 12,5 triệu đô la Mỹ lên tới đỉnh điểm
là 57,7 triệu đô la. Các công ty cung cấp hóa chất diệt cỏ gồm Dow chemical Co,
Diamond Akali Co, Uniroyal chemical Co, Thompson Co , Hercules Co, Monsanto Co,
Ansul Co và Thompson, Hayward Co. Đây là 8 công ty lúc đầu, sau này con số công
ty cung cấp cho chiến tranh hóa học ở Việt Nam lên tới con số 37.
Cho tới khi thế giới và
cả nhân dân Mỹ lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh hóa học tàn bạo vô nhân đạo
này của Mỹ thì quân đội Mỹ đã thực hiện 19.905 phi vụ (gồm các loại máy bay
UC123, trực thăng H34, C47, C123…) rải chất độc trên 25.585 thôn, bản với diện
tích 2.631.297 ha, trong đó có 86% diện tích bị phun rãi hơn 2 lần, 11% diện
tích bị phun rải hơn 10 lần. Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất,
trên 56% diện tích tự nhiên bị phun rải. Khoảng 86% lượng chất độc đã được rải
lên các vùng rừng rậm, 14% còn lại được dùng để phá hủy ruộng vườn, hoa màu mà
chủ yếu là đồng lúa và nương rẫy ở các vùng đồi núi. Diện tích rừng ngập mặn bị
ảnh hưởng chất độc là 150 ngàn ha, nặng nề nhất là rừng ngập mặn Cà Mau.
Tổng lượng chất độc hóa
học mà quân đội Mỹ đã sử dụng khoảng 100 ngàn tấn các chất độc hóa học khác
nhau. Trong đó có 9.000 tấn chất độc CS và 95.000 tấn các chất diệt cỏ CDC.
Trong 95.000 tấn đó có tới 65.700 tấn có chứa dioxin với khối lượng lớn từ 366
đến 650 kg, tương đương 44 triệu lít.
Đông Nam Bộ là địa
phương có rừng rậm Mã Đà chiến khu D, có sân bay Biên Hòa là nơi hứng chịu nhiều
chất độc da cam nhất. Chúng rải để khai quang trụi lá cây rừng, bay đi rải chất
độc về còn lại bao nhiêu chúng trút cả xuống đây. Những kho chứa, những bồn chứa
rò rỉ, thùng bẹp chúng bỏ bừa bãi trong sân bay. Dư lượng tồn lưu trên khu vực
này là rất lớn!
GẬY
ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG
Đó là cái chết của đại
úy phi công Elmo Zumwalt III, con của trung tướng đô đốc hải quân Hoa Kỳ, người
trực tiếp ra lệnh cho quân đội Mỹ rải chất diệt cỏ, khai quang lên chiến trường
miền Nam Việt Nam. Elmo đã bị ung thư do nhiễm dioxin. Đó là chất độc cam này
đã được quân đội Hoa Kỳ “thử nghiệm” tại căn cứ quân sự Mỹ đóng ở Canadian
Forces Base Gagetown Brunswick - Canada . Theo Bộ Quốc Phòng Canada , đã có 200 ngàn nhân viên quân sự đóng
quân trong căn cứ CFB từ 1956 – 1984. Số nhân viên này bao gồm binh sĩ của Anh,
Scotland và Mỹ đã tiến hành thử nghiệm. Họ cũng bị phơi nhiễm chất độc dioxin.
Không những chỉ những người lính bị tác động đến sức khoẻ. Nó là bi kịch của những
người vợ và con cái họ đã chết hoặc đau ốm, bệnh tật. Nó cũng là bi kịch của những
thường dân làm thuê trong vùng và vùng phụ cận căn cứ. Đó là những người lính của
quân đội chư hầu của Mỹ cùng tham chiến ở miền Nam Việt Nam như Hàn Quốc, New Zeiland
, Australia …
Ta hãy nghe những lời
phát biểu của họ: “…Do bị bưng bít thông tin, đa số nhân dân Hàn Quốc đều không
biết về vấn đề này. Một số lớn cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam bị đau
ốm mà không rõ nguyên nhân và đã chết ở độ tuổi 40. Họ không hiểu vì sao họ phải
chết. Ngay cả các bác sĩ cũng không giải thích được. Nhiều người đã tự vẫn vì
không lối thoát và không muốn ảnh hưởng đến gia đình…”/ “…Kết quả là tổ chức đại
diện cho các bệnh nhân chất da cam, Hàn quốc đã được chính thức thành lập…”/
“Trong tương lai, bệnh nhân mà chính phủ phải trợ cấp do chất da cam có thể lên
tới 100.000 người. Và theo điều tra của Hội này, số cựu chiến binh đã chết bởi
chất da cam ước tính vào khoảng 2 vạn người…”. (Trích phát biểu của Trưởng đoàn Cựu chiến binh Hàn Quốc đã tham chiến tại
miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Quốc tế nạn nhân chất độc cam/dioxin).
Và đây là tiếng nói của
một nguyên sĩ quan quân ngụy quyền Sài Gòn, ông Mai Giảng Vũ người đã trực tiếp
rải chất độc hoá học trong thời gian chiến tranh, cũng tại Hội nghị Quốc tế nạn
nhân độc cam/dioxin. “Trong khi rải các hoá chất độc hại mà tôi không biết, tưởng
thuốc diệt cỏ như các nhà nông họ làm, không ngờ lại nó ảnh hưởng đến sức khoẻ
con người, bao nhiêu thế hệ. Sau chiến tranh 30 năm các nạn nhân ở những vùng bị
rãi hoá chất đó vẫn còn các cháu ra đời nhiễm phải bệnh chết người đó. Nếu tôi biết nó nguy hiểm tôi sẽ
không làm, 3 đứa con tôi đâu chết oan uổng thế”. Ba con ông đều bị nhiễm dioxin
mà chết.
Còn ở Mỹ thì sao? Ngay
từ 1984, các cựu quân nhân bị tác hại do chất độc này gây ra đã khởi kiện 7
Công ty sản xuất chất độc cam/dioxin, trong đó có Dow Chemical Co và Monsanto
Co với số tiền bồi thường là 180 triệu USD.
Một làn sóng phản đối tràn
khắp nước Mỹ, những quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ cũng lên tiếng
đòi chấm dứt cuộc chiến tranh hoá học vô
nhân đạo và bẩn thỉu này.
CHIẾN
TRANH QUA ĐI - NỖI ĐAU CÒN LẠI
Ngày 10/01/2004 thành lập
VAVA Việt Nam và Hội đã tiến hành khởi kiện các công ty hoá chất Mỹ đã sản xuất
và cung cấp chất độc hoá học cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt
Nam, đòi bồi thường tất cả những thiệt hại. Vụ kiện phải dừng lại ở Toà phúc thẩm
Hoa Kỳ??
Chúng ta những người Việt
Nam đang sống trên quê hương mình đều nhận thức được rằng: Kể từ ngày
10/08/1961 đến ngày 31/10/1971, trong 10 năm 2 tháng, quân đội Mỹ đã tiến hành
một cuộc chiến tranh hoá học, hay nói một cách chính xác hơn là một cuộc chiến
tranh sinh thái có qui mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nó tác hại nghiêm
trọng đối với môi trường và sức khoẻ con người hiện tại và cả mai sau.
Nhìn vào bản đồ Việt
Nam, chúng ta đau xót thấy những vùng bị chất độc cam tàn phá nặng nề. Rừng,
núi, trảng, dòng sông, bờ biển… ở đây như những vết bỏng trên thân mình Tổ quốc
ta. Trước năm 1960 độ che phủ rừng tự nhiên từ nam vĩ tuyến 17 trở vào là 60 –
70%. Tài nguyên rừng rất phong phú và đa
dạng. Rừng có trữ lượng gỗ khoảng 200 – 300 m3/ha có các cây gỗ quý đường kính
1 đến 2 mét, cao từ 30 – 40 mét. Dưới tán rừng là nơi sinh sống của nhiều động
vật quý, nay vì chất độc cam/dioxin mà có giống bị tiêu diệt hoàn toàn.
Chất độc hoá học đã tàn
phá huỷ diệt khoảng 1,7 triệu ha rừng. Hệ quả của nó là trên đầu nguồn các con
sông lớn như Bến Hải (Hiền Lương), sông Hương, sông Hàn, sông Ba, sông Đồng
Nai, Vàm Cỏ…gió bão, lũ lụt và nhiều yếu tố tự nhiên khác làm cho chất độc hoá
học truyền lan gần như toàn bộ diện tích đất đai miền Nam Việt Nam. Toàn bộ thảm
thực vật bị huỷ diệt làm cho chất lượng đất biến đổi, bề mặt đất bị xói mòn rửa
trôi, cấu trúc thổ nhưỡng bị thay đổi ngày càng nghèo kiệt. Chất phát quang đi
đến đâu thì mặt đất chỉ còn lại sỏi đá khô cằn.
Sau ngày giải phóng
hoàn toàn miền Nam , tôi có đi thăm nhiều nơi. Nơi nào bị rải chất độc thì nơi
đó có rất nhiều cỏ đuôi chồn mà người dân thường gọi là cỏ Mỹ (tên khoa học
Pennisetum polystachym) và các loại cỏ tranh, lau, sậy…đua nhau mọc. Còn các loại
cây khác thì không sao mọc nổi. Chất độc cam/dioxin ngấm vào lòng đất còn để lại
hậu quả cho cả trăm năm sau và đối với con người từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Cuộc chiến tranh hoá học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã làm cho hơn 4,8
triệu người bị phơi nhiễm, trong đó có 3 triệu người là nạn nhân. Hàng vạn người
đã chết. Hàng triệu người mắc các chứng bệnh: bệnh ung thư gan nguyên phát, ung
thư tổ chức phần mềm, Ulymphô ác tính, bệnh Hodgkin, ung thư đường hô hấp
(thanh quản, khí phế quản, phổi), ung thư tiền liệt tuyến. Và các bệnh rối loạn
chuyển hoá, lipit có tai biến mạch máu não, bệnh động mạch vành; gluxit có đái
tháo đường. Bệnh thần kinh có ngoại vi cấp và mãn, da u tuỷ (multiple myeloma).
Bệnh ngoài da thì có xạm da, nhiễm porphyrin da chậm và các bệnh thường gặp ở
phụ nữ: sẩy thai, đẻ non, con chết lưu (tử tại phúc trung), chửa trứng, ung thư
màng nuôi…Các loại dị tật bẩm sinh, quái thai xuất hiện trên nhiều người và
cũng có thể xẩy ra ở thế hệ thứ hai (cháu).
Tôi nghĩ rằng để khắc
phục hậu quả cuộc chiến tranh hoá học này, 2 vấn đề cơ bản được đặt ra: tẩy độc
môi trường và chăm lo sức khoẻ nạn nhân chất độc cam/dioxin. Chúng ta hãy lắng
nghe từ phía kẻ thù, bên kia chiến tuyến: “…Hôm nay là một ngày rất quan trọng
với nước Mỹ để tiến thêm một bước làm giảm nhẹ những nỗi đau thương mà đất nước
chúng ta đã vô tình gây nên cho những con người của mình khi buộc họ tiếp xúc với
chất độc cam/dioxin ở Việt Nam. Hơn hai
thập kỷ qua các cựu chiến binh đã than phiền rằng việc tiếp xúc với chất độc
cam/dioxin trước khi họ rời chiến trường đang giết dần, giết mòn và thậm chí tổn
thương đến con cái của họ…”.
“…Cuối cùng, tôi cũng rất cám ơn người bạn cũ lâu năm của tôi – Đô đốc
Zumwalt - người đã đấu tranh xuất sắc nhất cho các cựu chiến binh Mỹ ở Việt
Nam…Không ai có thể làm tốt hơn ông trong việc làm sáng tỏ tác hại của chất độc
cam/dioxin. Không ai biết rõ hơn và nhận
trách nhiệm cá nhân (nhấn mạnh của tác giả XB) tốt hơn ông về những hành động của
chúng ta…”
Như thế là phía Mỹ, như
lời cựu tổng thống Bill Clinton phát biểu tại cuộc họp báo ở Nhà Trắng khi ông
đương nhiệm công bố thêm những loại bệnh do chất độc cam/dioxin gây nên (ngày 28.5.1996). Ông ta
cũng có nhắc đến một người bạn cũ, đô đốc hải quân Zumwalt, người đã trực tiếp
ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ rãi chất độc cam lên Tổ quốc thân yêu của chúng ta.
Zumwalt đã sám hối vì trong cuộc chiến tranh hoá học này, người con thứ 3 của
đô đốc, đại úy Elmo Zumwalt đã phải trả giá khi anh ta ngày ngày ngược xuôi
trên các dòng sông, trên các con kênh để kiểm tra việc rãi chất độc cam/dioxin
này. Anh ta đã bơi lội, tắm táp, ăn uống trên những dòng nước này và kết cục là
căn bệnh ung thư do nhiễm chất độc cam/dioxin đã cướp mất mạng sống. Oái ăm thay!
Rõ ràng không ai biết rõ hơn và nhận trách nhiệm tốt hơn Zumwalt. Và cũng đau đớn
như bao người bố khác: mất con vì chất độc cam /dioxin.
TỔNG THỐNG BIẾT TOÀ ÁN
LÀM NGƠ
Và toà án Liên bang Mỹ
(Quận Tây Brooklyn New York ). Cấp sơ thẩm đã tiếp nhận đơn của VAVA Việt Nam
cùng một số nạn nhân khởi kiện 37 công ty Mỹ sản xuất hoá chất độc hại ngày
30.1.2004. Một năm sau, ngày 28.2.2005 tranh tụng miệng tại Toà sơ thẩm. Mười
ngày sau đó, thẩm phán Jack Weinstein ra phán quyết bác bỏ đơn kiện với lý do
ngây ngô rằng: “không thừa nhận chất da
cam là chất độc hại đối với con người”. Phía ta, tiếp tục kháng cáo lên Toà
phúc thẩm New York . Ngày 22.2.2008 Toà phúc thẩm lưu động số 2 New York đã đồng
ý với phán quyết của Toà án sơ thẩm (10.3.2005) rằng; “việc sử dụng chất độc của Mỹ không cố ý gây thiệt hại cho con người Việt
Nam ”.
Nhân dân Việt Nam vô
cùng phẫn nộ và hết sức bất bình trước Quyết định sai lầm và bất công của Toà
án Tối cao Hoa Kỳ. Quyết định phi lý này được đưa ra trong bối cảnh quan hệ Việt
Nam có nhiều cố gắng để góp phần khắc phục hậu quả của chất độc cam/dioxin ở Việt
Nam.
Dù không được kiện trước
Toà án liên bang Hoa Kỳ, nhưng vụ kiện đã thu được những thắng lợi có ý nghĩa
tích cực, đáng khích lệ. Nổi bật là ở trong nước, vụ kiện đã thúc đẩy phong
trào đòi công lý, tạo ra sự thông cảm sâu sắc và giúp đỡ mạnh mẽ các nạn nhân
nhiễm chất độc cam/dioxin.
Với thế giới, vụ kiện
nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân các nước. Vụ kiện phơi bày ra trước
nhân loại mọi thủ đoạn phía Hoa Kỳ đã che giấu hơn 30 năm nay của các công ty
hoá chất Mỹ. Nó đã trở thành một phong trào rộng lớn mang tính quốc tế và có ý
nghĩa nhân văn sâu sắc. Cuộc đấu tranh trực diện về mặt pháp lý tại Toà án Mỹ,
kết hợp với cuộc đấu tranh ngoài toà, được sự ủng hộ của các bạn Mỹ. Vụ kiện
này, chúng ta đã thắng trên mặt trận chính trị và nhân văn.
Rõ ràng, Toà án Hoa Kỳ
đã chà đạp lên công lý, bất chấp đạo lý. Đây là một phán quyết phi lý và sai lầm.
Người Mỹ thường lớn tiếng dạy thiên hạ về quyền con người, nhưng ở đây họ đã bỏ
lỡ cơ hội thể hiện tôn trọng nhân quyền. Đây là một phán quyết đáng hổ thẹn!.
Những đau khổ và di họa
chất độc cam/dioxin gây ra sẽ tiếp tục làm rớm máu trái tim nhân loại.
Cuộc chiến đấu để đi đến
thắng lợi của vụ kiện vẫn tiếp tục…
Bài
2 .KHÚC SÁM HỐI
Nhà báo, nhà thơ Xuân Bảo
Đô đốc Elmo Russell Zumwalt, Jr là Tư lệnh
Hải quân Mỹ, đặc trách Lực lượng duyên hải và đường sông thời kỳ chiến tranh Việt
Nam. Sau này ông được thăng tiến lên chức Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ,
chính là người đã phát động chiến dịch Ranch Hand, rải chất độc hóa học tại Việt
Nam trong suốt một giai đoạn rất dài của cuộc chiến, để lại nhiều di họa cho đất
nước Việt Nam cũng như nước Mỹ và chính gia đình ông. Ba cha con dòng họ
Zumwalt đều có mặt tại chiến trường Nam Việt Nam.
Ông có hai người con trai. Con đầu là
trung úy Elmo Russell Zumwalt III đã chết ở tuổi 42 vì nhiễm chất độc
cam/dioxin do chính cha mình ra lệnh rải xuống chiến trường Việt Nam.
Và người con thứ hai là trung tá Thủy quân lục
chiến James G. Zumwalt, người may mắn thoát chết trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu
này. Sau này ông ta trở thành nhà báo cựu chiến binh và là chủ tịch công ty Tư
vấn An ninh mang tên cha mình : Công ty Admiral Zumwalt & Consultants, Inc.
Ngoài Việt Nam, James còn tham gia cuộc can thiệp quân sự của Mỹ vào Panama năm
1989 và chiến dịch Bão táp sa mạc tại Vùng Vịnh, Iraq năm 1990-1991. Sau chặng
đường binh nghiệp, với vốn sống chiến tranh, ông trở thành một diễn giả, tác giả
của hàng loạt bài viết về quân sự và chính sách đối ngoại trên các báo và tạp
chí nổi tiếng của Mỹ như USA Today, The Washington Post, The New York Times,
The Washington Times…Sau những chuyến trở lại Việt Nam, ông đã viết cuốn sách Chân trần, Chí thép. (Bare
Feet, Iron Will). Cuốn sách
xuất bản ở Mỹ ngày 26-4-2010 và đã gây tiếng vang lớn và thu hút sự quan tâm đặc
biệt của dư luận Mỹ. Cuốn sách đã được dịch ra Việt ngữ, được thượng tướng Phan
Trung Kiên , Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đề tựa.
***
Chúng ta hãy nghe những lời thú nhận của
kẻ thù về cuộc chiến tranh hóa học tàn bạo nhất của người Mỹ đã tiến hành ở Việt
Nam. Những điều viết ra đây được rút ra từ
cuốn sách Bare Feet, Iron Will ( Chân tran,Chi thep) . của James G
Zumwalt
James viết :
“… Gia
đình tôi có một truyền thống binh nghiệp đáng tự hào, hầu như mỗi cuộc chiến mà
nước Mỹ tham gia, kể từ Cách mạng Mỹ đến nay đều có it nhất một người mang họ
Zumwalt phục vụ. Bạn bè thân thiết không hề ngạc nhiên khi biết rằng tất cả các thành viên nam trong gia
đình trực hệ của tôi đều xung phong phục vụ tại Việt Nam.
Từ năm 1968 đến 1970, người cha đã quá
cố của tôi, Elmo R. Zumwalt Jr, là phó đô đốc chỉ huy Lực lượng Hải quân tại Việt
Nam, trong vai trò Comnavforv (
Commanda Naval Forces VietNam – Tư lệnh Hải lực tại Việt Nam ), ông chỉ huy tất
cả lực lượng duyên hải và đường sông của Hải quân Mỹ tham chiến tại Nam Việt
Nam.
Trong số những chiến binh đường sông
dũng cảm của Mỹ hoạt động trong lực lượng “Hải quân nước nâu” ( tức hệ thống đường
sông nội địa ở Việt Nam ) có người anh trai của tôi, trung úy Hải quân Elmo. R.
Zumwalt III, từng đuợc biên chế về một vị trí khá nhàn trên khu trục hạm ở
Norfolk, Virginia. Elmo tự cảm thấy có bổn phận phải phục vụ ở chiến trường Việt
Nam…
Elmo đã đến Việt Nam để đảm nhận vị trí
chỉ huy duy nhất trong sự nghiệp hải quân ngắn ngủi – thuyền trưởng một tàu tuần tra đường sông, thường gọi là
“tàu nhanh”- PCF 35 ( viết tắt của Patrol Craft Fast ) là tư lệnh tàu cao tốc.
Elmo nằm dưới quyền chỉ huy của một guồng máy do cha tôi đứng đầu. Cha tôi là một
người đàn ông đầy đam mê và thông tuệ. Tôi không tin có lúc nào đó ông đưa ra một
quyết định quân sự mà không cân nhắc những tác hại của nó đối với người lính.
Nhưng trong giai đoạn mới nắm quyền chỉ huy tại Việt Nam, có khi ông ở vào hoàn
cảnh không thấy hết được tác động từ quyết định của mình,dù quyết định ấy đã
giúp đạt được mục tiêu giảm thương vong
cho Hải quân Mỹ.Ông không thể ngờ rằng nó cũng chính là nguyên nhân cướp đi mạng
sống của người con trai cùng tên vói ông!
Các nhà sản xuất chất diệt cỏ cam đoan
với chính phủ Mỹ rằng sản phẩm của họ không gây hại cho con người. Tin vào lời
cam đoan đó, cha tôi đã ra lệnh rải cái chất độc đó xuống dọc các bờ sông nơi
quân của ông thường tuần tra bằng tàu thủy.
Việc làm này đã cho phép hàng chục ngàn
lính thủy, vốn đối mặt với nguy cơ thương vong cao có thể trở về nhà. Nhưng phải
rất nhiều năm sau thì những người này mới phát hiện ra rằng cuộc chiến sinh tồn
của họ còn lâu mới kết thúc. Họ đã trở về nhà với quả bom hóa học nổ chậm trong
người. Chất diệt cỏ mà họ bị phơi nhiễm, chất độc cam, trái với cam đoan của
các nhà sản xuất, là chất gây ung thư. ( Mười sáu năm sau đó, cha tôi mới biết
được rằng các hãng sản xuất chẳng những sai lầm trong việc khẳng định tính vô hại
của chất này đối với người, mà trong vài trường hợp họ còn nói khác đi so với
những gì họ biết)…
Bị phơi nhiễm nặng chất độc cam trong
thời gian phục vụ tại Việt Nam, nhiều cựu chiến binh đã chịu đựng hậu quả khủng
khiếp về sức khỏe với quả bom nổ chậm phát nổ sau quãng thời gian dài ngắn khác
nhau. Đối với vài người vụ nổ đến rất sớm, khi những đứa con họ sinh ra sau thời
gian phơi nhiễm gặp nhiều vấn đề về sức khỏe. Đối với số khác, thời gian phát nổ
đến chậm hơn, có khi phải 10,15, thậm chí 20 năm sau, khi nhiều loại ung thư mà
nay Bộ Cựu chiến binh Mỹ đã thừa nhận là
có liên quan tới chất độc cam tấn công họ. Anh trai tôi nằm trong số những nạn
nhân bị ung thư liên quan tới chất độc cam.
Cha tôi đã giành tất cả thời gian giúp
Elmo chống chọi với căn bệnh ung thư.Cùng nhau, họ tìm kiếm tất cả các giải pháp có thể. Ban đầu , họ tập trung
vào các phương pháp y khoa để điều trị. Về cuối họ tìm mọi cách để làm chậm sự
phát triển chết chóc của căn bệnh. Sự gắn bó của họ là vô cùng mật thiết. Có thể
nói tình cảm cha con giữa hai người la không ai có thể sánh được. Tình cảm ấy
đã được diễn tả khá đầy đủ trong lá thư
mà Elmo viết cho cha tôi không bao lâu trước khi anh qua đời. Thư anh viết : Ba
thân yêu, cả ở Việt Nam lẫn đối với căn bệnh ung thư của con, chúng ta đã cùng
nhau chiến đấu và cùng thất bại. Nhưng, chúng ta luôn biết rằng ngay khi lâm
vào một trận chiến tuyệt vọng, tình yeu của chúng ta cũng không cho phép thối
chí, bất chấp nguy cơ lớn nhường nào, chúng ta
cũng không từ bỏ…Con yêu ba vô ngần. Con muốn được chiến đấu bên cạnh ba
biết bao ! Ba luôn tạo ra sự khác biệt. Ba đã làm cho cuộc chiến cuối cùng của con, trên hành trình tới cõi chết
trở nên nhẹ nhàng và nhân văn hơn. Con yêu ba!...
Vào
ngày 13 tháng 8 năm 1988, cuộc chiến cuối cùng mà họ sát cánh bên nhau đã kết
thúc. Sau 5 năm dũng cảm chiến đấu với bệnh tật, Elmo đã qua đời ở độ tuổi 42 !
Cũng như cuộc chiến ở Việt Nam, anhERZ Bio Cover đã anh dũng chống lại một kẻ
thù giấu mặt, để rồi cuối cùng phải nhận lấy thất bại trước kẻ địch quyết đoán
hơn,..
Sau cái chết của Elmo, cha tôi bắt đầu một
sự nghiệp mới-thuyết phục chính phủ Mỹ thừa nhận những ảnh hưởng của chất độc
cam lên sức khỏe của con người và bồi thường cho các cựu chiến binh Việt Nam bị
ảnh hưởng. Một phần nào đó, cái chết của Elmo thúc đẩy cha tôi tham gia cuộc đấu
tranh, nhưng mặt khác việc tham gia của ông cũng xuất phát từ niềm tin thường
trực nơi ông, rằng trách nhiệm của các tư lệnh chiến trường đối với binh sĩ
không kết thúc khi cuộc chiến đã chấm dứt”…
***
Tháng 9 năm 1994, Đô đốc Zumwalt trở lại
Việt Nam. Đây là vị tư lệnh cấp cao nhất
thời chiến tranh quay lại Việt Nam. Chuyến đi này có con trai thứ hai
tháp tùng- trung tá James G. Zumwalt. Mục đích chuyến đi là để tìm kiếm sự hợp tác từ Hà Nội để triển khai một cuộc
nghiên cứu chung về chất độc cam/dioxin.
Một bi kịch lớn đã xẩy ra trong một gia
đình có truyền thống binh nghiệp. Nhưng bi kịch lớn hơn là cả hai dân tộc chúng
ta Việt Nam và Hoa Kỳ, cách nhau hai bờ đại dương, chẳng có thù hận gì nhau, chẳng
có mối hận truyền kiếp nào mà phải gánh chịu di họa nặng nề, lâu dài đến cả những
thế hệ con cháu chúng ta từ một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại !
Có một bài thơ của môt tác giả khuyết
danh đề trên một tấm bảng. Bài thơ nằm giữa đống đổ nát của một ngôi nhà, khi
quân Giải phóng tấn công sân bay Tân Sơn Nhất. Bài thơ có nhan đề là :
Xin đừng quên
Không vì danh tiếng hay sự tưởng
thưởng
Không vì địa vị hay phẩm hàm
Không bị tham vọng dẫn dắt
hay mệnh lệnh bắt buộc
Chỉ đơn giản là bởi quyết tâm
phụng sự
Những người này đã chịu đắng
cay
Dã dám đối mặt với tất cả, và
đã chết
Xin đừng quên, xin đừng quên
***
Bên
bờ Phước Long Giang, sau ngày Quốc tế Lao động một ngày.Ngày 2 tháng 5 năm 2017.
Xuân
Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét