193.
NGUYỄN DU VIẾNG KHUẤT NGUYÊN.
Có
lẽ, từ xưa đến nay, ở Việt Nam ta
chưa có nhà thơ nào có nỗi đồng cảm day dứt, đau đáu với Khuất Bình như đại thi
hào Nguyễn Du. Chính vì vậy, mỗi năm khi tiết Đoan Dương về tôi cũng không nén
nỗi niềm tiếc thương đối với Khuất Nguyên.
Đại
thi hào Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta khối lượng tác phẩm
đồ sộ viết bằng văn Nôm: Kim Vân Kiều truyện, thể lục bát gồm 3254 câu. Văn tế
thập loại chúng sinh, thể song thất lục bát. Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98
câu.Thác lời trai phường nón, 48 câu. Và
3 tập thơ chữ Hán là Thanh hiên thi tập, 78 bài. Nam trung tạp ngâm, 40 bài và Bắc
hành tạp lục, 131 bài..
Bắc hành tạp lục
(Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương
Bắc) là tập thơ bao gồm 131 bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sáng tác trong khoảng
thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Trung Quốc từ đầu năm Quý Dậu
1813 đến đầu năm Giáp Tuất 1814. Đây là một tập thơ nói lên lòng thương cảm sâu
xa những người trung nghĩa bị hãm hại, những người tài hoa bị vùi dập, những
người lao động cùng khổ bị đói rét cùng nỗi khinh ghét giới thống trị kiêu căng
và tàn bạo, được Nguyễn Du nói lên bằng những vần thơ hết sức sâu sắc . Phần lớn trong Bắc hành tạp lục là
thơ luật, gồm 76 bài thất ngôn bát cú, 11 bài ngũ ngôn bát cú, 18 bài thất ngôn
tứ tuyệt; chỉ có 8 bài thất ngôn cổ phong, ngũ ngôn cổ phong và 18 bài trường
thiên (thất ngôn, ngũ ngôn hoặc trường đoản cú) theo thể ca và hành.
Đề tài "vịnh sử" gồm khoảng
50 tác phẩm, trình bày cảm xúc và suy nghĩ về một loạt nhân vật lịch sử Trung
Quốc, nhân đi qua các di tích của họ, như Tương
Đàm điếu Tam Lư đại phu (Qua Tương
Đàm viếng Tam Lư đại phu, 2 bài), Dự Nhượng chùy thủ hành (Bài hành về cái dao găm của Dự Nhượng), Sở Bá vương mộ (Mộ Sở Bá vương), Độ Hoài hữu
cảm Hoài Âm hầu tác (Qua sông Hoài, cảm
nhớ Hoài Âm hầu) v.v...Ở nhóm thơ này có khá nhiều bài hay và nổi trội hơn cả
là bài thơ Phản chiêu hồn.
Trong
Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc
tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú
ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân
vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người.
Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi.
Nguyễn
Du đã có thể đã tìm thấy ở Khuất Nguyên những điểm tương đồng với chính mình
khi ông đã dành sáu bài thơ nhắc đến Khuất Nguyên. Đó là các bài Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu
(Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu, Nhị
thủ, 2 bài), Biện Giả Nghị (Bác Giả Nghị), Trường Sa Giả thái phó (Giả
thái phó đất Trường Sa), Ngũ nguyệt
quan cạnh độ (Tháng 5 xem đua chải),
Phản chiêu hồn (Chống bài Chiêu hồn).
Tương Đàm Điếu Tam lư Đại
Phu
(Nhị thủ)
Qua Tương Đàm viếng Tam Lư Đại Phu
Bài I
Người hiếu tu sống cách
hai nghìn năm
Ngày nay đất còn thơm
mùi hoa chỉ, hoa lan
Xa quê ba năm buồn phiền
vì bị tống xuất
Nghìn đời sau thơ của
ông vẫn hay nhất
Rồng cá đầy sông cốt
tìm chẳng thấy
Bên bờ Đỗ nhược có giống
cỏ thơm
Nhướng mắt đau lòng
không biết là đâu
Gió thu lá rụng khi qua
vùng Nguyên,Tương.
---------------------------------------------------------------------------
Tương
Đàm Điếu Tam lư Đại Phu.
Bài II
Qua Tương Đàm viếng Tam-Lư Đại Phu.
II
Người nước Sở oan hồn
chôn nơi đây,
Khói sóng mênh mông cứ
nhìn hoài không cùng.
Hiến lệnh đó nếu đã được
ban ra khắp mọi nơi,
Thì làm gì có Ly tao kế
với Quốc phong?
Ngàn năm trước ai hiểu
người tỉnh một mình,
Bốn phương lòng trung
biết gửi nơi nào?
Thời này quần áo mặc
sao là lạ,
Hoa tiêu lan nay cũng
chẳng giống của ông.
---------------
Phản
Chiêu hồn
Chống
Bài Chiêu hồn
Hồn ơi! Hồn ơi! sao chẳng
về?
Đông tây nam bắc không
tựa kề
Lên trời xuống đất đều
không ổn
Đất Yên đất Dĩnh về làm
chi ?
Thành quách xưa nhưng
lòng dân đổi
Nhuốm bụi nhiều quần áo
bẩn dơ
Đi ra xe ngựa, nhà vênh
váo
Ngồi bàn tán chuyện ông
Quì, Cao
Không hề để lộ nanh độc
ác .
Nhưng cắn xé người ngọt
biết bao!
Có thấy chăng cả trăm
vùng Hồ
Toàn người gầy ốm, béo
có đâu
Hồn ơi! Hồn hỡi! theo
đường đó,
Thì sau Tam Hoàng đà lỗi
thờị
Sao bằng tìm về cõi hư
vô
Về đây chi để người mai
mỉa
Đời sau ai ai cũng Thượng
quan
Mặt đất đó đây đều sông
Mịch
Cá rồng không ăn, beo
cũng nuốt
Hồn ơi! Hồn ơi! biết
làm sao?
Ở
bài Phản Chiêu hồn này, ta thấy Nguyễn Du cảm phục và coi Khuất Nguyên như một
người tài hoa nhưng gặp toàn bất hạnh. Khuất Nguyên lúc sinh thời thường đeo
bên mình một giỏ hoa lan, hoa chi, làm bạn đồng hành, một loại cỏ thơm cũng thanh
cao như tấm lòng Khuất Nguyên. Nghĩ đến Khuất Nguyên với một cái nhìn khác lạ với
dân gian hay với Tống Ngọc. Trong khi Tống Ngọc cho rằng hồn phách Khuất Nguyên
sắp tiêu tan nên gọi hồn Khuất Nguyên về để có nơi nương tựa, thì Nguyễn Du cho
rằng khắp mặt đất đâu đâu cũng là Mịch la, ai ai cũng là Thượng quan thì làm gì
có chỗ trong sáng đủ để cái tâm thanh khiết của Khuất Nguyên có chỗ nương tựa.
Phản đối việc gọi hồn, Nguyễn Du lại muốn hồn Khuất Nguyên mau mau về cõi hư
vô.
Chiêu
hồn: một bài từ của Tống Ngọc, người cùng thời với Khuất-Nguyên. Trong bài có
nói Tống Ngọc thương Khuất nguyên hồn phách sắp tiêu tan nên làm bài từ để gọi
hồn cho sống lâu hơn. Nguyễn Du phản lại ý đó, ý muốn nói hồn không nên trở lại
cõi trần gian có đầy những kẻ gian ác thâm hiểm.
Đúng
như nhà thơ Xuân Diệu đã viết: bài thơ Phản Chiêu hồn trong Bắc hành tạp ngâm,
là một tiếng kêu của Nguyễn Du đột ngột bật lên giữa cả một chuỗi suy nghĩ trầm
trầm trong thơ chữ Hán. Đây quả là cao độ của một tiếng nấc, của một bế tắc, của
một bi kịch và chưa ở đâu sự bi phẫn và đau thương dồn lên cao vút như ở bài Phản
chiêu hồn.
Biện
Giả Nghị
Bác
Giả-Nghị
Không qua đường Hồ Nam
Sao biết sông Tương sâu
?
Không đọc "Hoài sa
phú "
Sao biết lòng Khuất
Nguyên?
Lòng Khuất Nguyên, nước
sông Tương,
Ngàn vạn thu lòng vẫn
trong suốt.
Cổ kim khó gặp bạn đồng
tâm .
Trong
bài thơ này Nguyễn Du bày tỏ ý kiến bênh vực Khuất Nguyên đối với bài phú Viếng
Khuất Nguyên của Giả Nghị. Giả Nghị,(201-169 TCN) một vị quan đời Hán, vì bị quan thần bài
xích nên bị đổi đi làm thái phó ở Trường sa. Khi đi qua sông Tương, Giả Nghị
làm bài phú Viếng Khuất Nguyên, ngụ ý than thở cảnh ngộ mình, đồng thời có ý thắc
mắc sao Khuất Nguyên không đi tìm vua khác mà thờ, mà phải ôm lấy cố đô làm chi
?
Hoài sa phú: là một trong chín bài đề "Cửu
chương" của Khuất Nguyên, tỏ ý Khuất Nguyên không muồn nhìn cảnh quốc gia
bị mất nên quyết định tự tử ở sông Tương. Trong bài phú Viếng Khuất Nguyên của
Giả Nghị có câu có nghĩa đi tìm vua khác mà thờ, sao phải ôm lấy cố đô làm chi.
Nguyễn Du bác bỏ ý này của Giả Nghị.
Trường
sa Giả Thái Phó
Giả
Thái Phó đất Trường Sa
Giáng, Quán quan võ
không hiểu nhiều,
Vua Hiếu đạm bạc ngại đổi
thaỵ
Bàn sơ khó thấu tài
uyên bác,
Trọn nghĩa chức vụ, chết
vì buồn
Trời cho tài mà không đất
dụng,
Một chiều chim lạ báo
điềm xuị
Tương Đàm gần gũi trong
gang tấc,
Ngàn năm gặp gỡ chung tấm
lòng.
-----------------------
-
Ngũ nguyệt quan cạnh độ.
Tháng
năm xem đua chải
Sở vương cốt đã rước,
Trương đã chết,
Một văn nhân nước Sở với
chùm lan
Ngàn năm gọi hồn, hồn vẫn
ẩn,
Đầy sông thuyền chải,
nghĩa gì đâu
Mịt mờ khói sóng thương
xót hão,
Chiêng trống hàng năm vẫn
bày trò
Hồn kia có về nương đâu
nhỉ ?
Rắn rồng quỉ quái đầy
thế gian.
Bài
thơ này Nguyễn Du làm khi có dịp xem đua trải trên sông Tương Đàm vào ngày giỗ
Khuất Nguyên (ngày mùng 5 tháng 5 Âm lịch). Hội đua thuyền này tượng trưng cho
việc tìm thi thể nhà thơ, mà theo Nguyễn Du thì không thích hợp. Hai câu chót
trong bài thơ đã được nhiều người cho rằng có ý ký thác tâm sự của chính Nguyễn
Du trong bài thơ này.
Bên bờ Phước Long
Giang, những ngày gần Tết Đoan Ngọ năm Đinh Dậu – 20/5/2017.
Nhà
thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét