Trang

Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

133. VỀ LẠI NƯƠNG RẪY (Truyện ngắn)

VỀ LẠI NƯƠNG RẪY


                                                          Truyện ngắn của Xuân Bảo

1.
Quảng Trị 1972!
81 ngày đêm. Bão lửa. Pháo ngoài biển bắn vào. Bom trên trời trút xuống. Giặc nống ra. Cố chiếm Thành cổ. Tư lệnh Vùng I Chiến thuật mất chức. Ngô Quang Trưởng thay Vũ Văn Giai.
Mùa hè đỏ lửa. Đại lộ kinh hoàng. Chạy loạn. Bom. Pháo. Đạn các cỡ thi nhau nhả đạn. Dân thường nháo nhác. Bà Kim tay dắt con. Vai gánh nặng áo quần. Có một bao cát mang theo. Bao cát công sự của đồn lũy. Trong đó có thông hóa đặc biệt và vàng.
Thắng Đào Quốc Đạt mới lên bốn. Chạy và chạy. Hỗn loạn. Sự sống và cái chết. Đạt sinh năm 1968. Đêm Tổng tiến công nổi dậy. Ba Đạt ghé nhà. Để lại giọt máu nối dõi tông đường. Ra trận. Hy sinh. Tin Trung đoàn báo về. Bà Kim khóc hết nước mắt. Từ nay Đạt thành đứa trẻ mồ côi cha. Khổ lắm!
Đường Thiên lý Bắc Nam bị cày xới. Cát Tiểu Trường Sa bị nung nóng. Mắt hoa. Chân phồng rộp. Thằng Đạt mếu máo. Gắng lên con! Bà Kim dỗ dành.

                                      ***

Một số ít dân chạy ra Vĩnh Linh. Miền độc lập nửa nước. Quảng Trị đau thương. Nửa nước bị chặt làm đôi. Hiền Lương trở thành con sông giới tuyến. Còn đau hơn cả hận Sông Gianh!
Mọi người lên xe. Xe nhà binh của Thiệu. Bỏ lại quê hương tiêu điều. Bỏ lại mồ mả tổ tiên ông bà. Bỏ lại cơ ngơi ruộng vườn. Mồ hôi và nước mắt. Mất hết, mất hết. Tiên sư cái cuộc chiến. Chiến tranh bao giờ cũng đáng nguyền rủa! Hết chin năm đánh Pháp. Lại hai mươi năm chống Mỹ. Có nơi nào trên Trái đất này chiến tranh liên miên như thế?


2.
       Đêm. Rừng rú rậm rịt. Mọi gia đình xuống xe. Ngơ ngác. Đây là đâu? Nghi ngờ ?! Hay là đem con bỏ chợ? Thiệu Kỳ nói hay lắm. Hãy chạy khỏi nanh vuố cộng sản. Hãy xây dựng một nền cộng hòa. Đừng nghe Việt Cộng nói. Nhìn Việt Cộng làm! Than ôi! Ông Thiệu ôi! Nền cộng hòa đệ nhị ôi!
       Sáng ra. Có một đoàn người đến. Mũ cao áo rộng. Ông linh mục ủy lạo Các con chiên hãy một lòng phụng vụ Chúa. Đây là Xuân Lộc. Đây là giáo phận Xuân Lộc. Đất địa đầu của Nam kỳ Lục tỉnh. Trước 1945 là xứ thuộc địa của Mẫu quốc Đại Pháp.
       Mỗi hộ gia đình được phát gạo ăn sáu tháng. Cho không hai chục tấm tôn fibro. Hai chục bao xi măng. Một bộ đồ làm rẫy gồm  cuốc rựa,một cái cưa lá liễu, một cái búa. Hàng Mỹ sản xuất. Sản phẩm có đúc chìm bốn chữ cái sơn màu đỏ:KHLA.Diễn dịch rà là Khai Hoang Lập Ấp.

                                                ***

       Tên làng xã thân yêu không còn. Những cái tên mới nghe lạ tai. Sặc mùi chiến tranh. Căn cứ 2, Căn cứ 3 cho đến Căn cứ 6. Bà con nhớ quê tự đặt tên mới: Xuân Đà, Trung Ngãi...Rừng nguyên sinh. Gỗ quý nhiều vô kể. Lim, sến, táu, vàng tâm.đàn hương… Rừng lá. Lá buông ngút ngàn.Đất đai màu mỡ.Người nông dân lai hoàn người nông dân. Chăm chỉ. Chuyên cần. Dầm mưa dãi nắng. Đốt rẫy. Làm nương. Chọc lỗ bỏ hạt. Đất không phụ người. Trái bắp to bằng cườm tay. Củ sắn nặng vài ba ký.Bầu bí mọc ven suối. Đến mùa cứ chở về
.
       Bà Kim giỏi việc nông tang. Khai hoang, Vỡ đất. Trồng tỉa. Mùa nào thức ấy. Chỉ sau hai năm cần mẫn. Bà có trong tay gần mười mẫu rẫy. Đầu năm 1973. Chủ nhà máy thuốc lá CAPSTAN. Đánh hơi thấy đất Xuân T. tốt. Bà Kim nhận thầu trồng thuốc lá. Giống Virginia sợi vàng thích hợp thổ nhưỡng. Công nghệ,quy trình, giống và phân bón nhà máy chuyển giao. Bà Kim và bà con trồng hàng chục mẫu và xây được tám lò sấy thuốc lá. Hai vụ thu hoạch có lãi bạc triệu. Bà nghĩ chắc ăn. Gửi tiền vào Ngân khố quốc gia của chính quyền Sài Gòn.

                                                
        Thằng Đạt được bà Kim kềm cặp. Dạy chữ. Bà dành tất cả tình thương cho nó với tấm lòng bao la dạt dào. Mong muốn Đạt thành tài để bù đắp cho sự thiệt thòi của cuộc đời mẹ góa con côi. Hắn ngoan và thông minh. Sáu tuổi đã đọc thông viết thạo. Làm được bốn phép tính. Đạt được gửi vào trường Dòng Mến Thánh Giá. Nhà thờ Công giáo mọc lên.Khắp nơi.

       3.
       Tháng Tư năm 1975.
       Giải phóng miền Nam. Hết chiến tranh. Mừng vui khôn xiết. Đạt vào học lớp 1. Học giỏi. Thẳng một mạch. Từ lớp đầu cho tới năm cuối. Đạt tốt nghiệp tú tài. Bây giờ có cách gọi mới. Tốt nghiệp Trung học phổ thông. Thi đại học nông lâm đỗ. Vào khoa chăn nuôi. Sau năm năm Đạt tốt nghiệp bằng đỏ. Trường muốn anh ở lại. Giảng viên đang thời kỳ hiếm. Đạt quyết về địa phương. Ty Nông nghiệp tỉnh. Làm việc tận tụy. Năng nổ. Nhiệt tình. Chẳng bao lâu Đạt vào Đảng. Rồi từ phó phòng lên trưởng phòng. Có chí. Đạt theo học cao học. 30 tuổi Đạt là thạc sĩ. Chuyên ngành. Đề tài nghiên cứu: Thuần hóa động vật hoang dã. Luận án được đánh giá cao. Còn thực tiễn. Đang nằm phía trước, Hãy chờ xem?!

       Bà Kim tuổi đã xế chiều. Muốn có cháu nội. Bế bồng. Chăm bẵm. Đạt là người con hiếu thảo. Nghe lời mẹ. Đạt cưới vợ. Vợ tên Hạnh. Học dưới Đạt hai lớp..Người cùng quê. Cùng hoàn cảnh bị xúc tát vô nam. Nhà neo người. Hạnh học hết phổ thông. Ở nhà giúp cha mẹ làm ăn. Nương rẫy, Cày cuốc. Nghề nông muôn thuở. Hạnh đẹp người đẹp nết. Bà Kim ưa. Đạt mến từ trước. Họ lấy nhau. Xứng đôi vừa lứa. Nhân duyên thành lương duyên!


       4.
       Đạt đệ đơn xin nghỉ việc. Ai cũng bất ngờ. Nhiều người nuối tiếc. Con đường phía trước. Thênh thang rộng mở. Tiền đồ thuận lợi. Lòng anh đã quyết. Muốn học và hành đi đôi.
       Về lại Xuân T. Đạt cùng mẹ xin chính quyền. Canh tác lại quả đồi. Đất trồng thuốc lá khi trước. Có lãi lời gì không? Đau đáu đề tài. Con vật hoang dã. Hãy thân thiện với người! Nhiều đêm miệt mài. Đồ án xây dựng. Trang trại phức hợp. Có Hạnh giúp sức. Động viên. An ủi. Hạnh hỏi: Liệu có thành công? Đạt nói: Quyết chí thì nên.
       Vốn? Nan giải là vốn. Bà Kim dốc cạn cái bao cát công sự ra. Lâu nay, bà đi rẫy thường mang theo. Mắc vào đầu cán cuốc. Tòong teeng. Ít ai biết có gì trong đó. Bà có tài ngụy trang. Đề phòng kẻ xấu. Trong bao cát có nhiều vàng. Đủ loại. Vàng miếng. Vàng trang sức và ngọc…Chao ơi! Nhiều lắm. Đến con cháu cũng chẳng biết. Nữa là!
       Đi Sài Gòn. Bà Kim mang giấy gửi tiền theo. Ngân hàng Cách mạng. Trụ sở ở Bến Chương Dương. Cùng đi có người bà con. Cán bộ cách mạng ở Bắc về. Hai người vào cơ quan. Bà Kim xuất trình cái giấy. Tám triệu đồng bạc Ngụy. Họ chỉ dẫn gặp lãnh đạo. Vị cán bộ giải thích ngắn. Đây là số tiền tiếp tay cho địch. Tiền này gián tiếp chống phá cách mạng. Tịch thu. Sung công. Thế là tắt một hy vọng.Không bị truy tố. Còn may. Thôi đành của đi thay người!
       Kim Lan,chị Đạt làm Sở Mỹ. Dành dụm lâu nay. Có ít đô-la. Có ít vàng. Giúp em . Coi như hùn vốn làm ăn. Ngân hàng Nông nghiệp hỗ trợ. Vay dài hạn. Lãi suất thấp.
                                                          

       Mười mẫu tây đất rừng. Có phần nào đất thục. Đạt xuống giống  bốn mẫu cà phê. Giới khoa học nói: Chồn khoái khẩu cà phê Robusta. Dày cùi. Ngọt. Nhưng cà phê Arabica- Cà phê chè ngon hơn. Đắt tiền hơn. Xen canh. Bắp, mì, khoai lang. Các loại họ đậu. Lấy ngắn nuôi dài.

       Với chiếc Honda 67. Đạt lên Đác Lắk. Qua Lâm Đồng. Đến Đắc Nông. Lại nhảy xe đò ra Quảng Trị. Núi rừng Trường Sơn. Chiến khu Ba Lòng. Khi xưa nhiều chồn. Đủ loại chồn. Chồn đèn. Chồn mực. Chồn hôi. Chồn bạc má…Đạt tìm con chồn hương. Cầy hương.
        Lại lên đường tìm cầy hương. Nghe người ta mách. Thanh Hóa còn nhiều động vật hoang dã. Cầm thú. Đoạn đi qua Tĩnh Gia. Quê hương họ Đào. Đào Duy Từ. Người dựng Lũy Thầy. Chống quân Trịnh. Đạt thầm nghĩ: có lẽ đây là quê gốc của mình chăng? May sao. Mua được một cặp. Đực và Cái.

                                                           ***

       Bà Kim nhắc chuyện xưa. Người làm công cho ông ngoại. Chú Đáo có lần vào độộng. Bắt được cả một ổ chồn hương. Có tới bốn chú. Ba đực, một cái. Ba con đực. Một con Cụ đem biếu tri phủ Triệu Phong. Dinh thự tri phủ. Làng Tri Bưu. Cạnh sông Thạch Hãn. Con thứ hai Cụ biếu nhạc phụ. Làng Đại Hào. Còn một con Cụ lấy xạ. Treo trước cổng. Ngày và đêm. Xạ hương tỏa. Thơm nức con đường làng.Vẫn theo bà Kim. Miền duyên sơn Quảng Trị cứt chồn hương quý đến thế sao? Chim chào mào đít đỏ. Ăn hạt hồ tiêu chin. Người dân Cùa có kinh nghiệm thu lại hạt tiêu thọ. (Nơi khác gọi là tiêu sọ). Thọ đây có nghĩa lâu bền.Dân xây cái bể cạn. Đặt ở góc vườn. Chim ăn no tiêu. Uống  đẫy nước. Ị ra những hạt trắng. Hót về rửa sạch, phơi khô. Dành làm thuốc. Đau bụng nhai dăm hột. Khỏi ngay. Nhà nào có nhiều tiêu thọ. Mang về chợ Đông Hà. Bán cho mấy chú Chệt. Hiệu thuốc bắc. Giá cao. Gấp chục lần tiêu đen.

                                                           ***

       Chồn có xạ. Hương thơm. Hấp dẫn. Nhưng hiếm. Một loài thú hiếm. Liệt vào sách đỏ. Đạt tìm mua sách nói về chồn. Lên mạng. Gõ google. Thấy rõ con chồn hương. Có nhiều tên: cầy vòi hương. Bộ ăn thịt Carnivora. Họ cầy Viveridea. Ở Việt Nam còn có tên Việt Mường: Tu côi. Tu hên. Hên bon. Cùng họ có vài giống khác. Không có túi xạ hương. Đó là cầy mực, cầy mèo, cầy giông, cầy vằn, cầy vòi đốm, cầy vòi mốc…Chỉ có con cầy vòi hương đực có túi xạ. Túi xạ nằm giữa hậu môn và dương vật. Giữa túi có hai lỗ thông. Trong túi có các tuyến xạ. Cái dạ dày của nó có enzyme đặc biệt.  Cầy đực trưởng thành. Tiết ra chất xạ hương. Sánh như mật ong. Màu nâu đỏ. Mùi thơm nồng. Để lâu dịu. Thành phần xạ có ammoniac. Tinh dầu. Muối khoáng. Và các chất hương hữu cơ. Đây là mùi dẫn dụ cầy cái. Vào mùa sinh sản. Trao tình xong. Đường anh anh đi. Để cầy cái nuôi con. Lẻ loi, đơn chiếc. Tội nghiệp!
       Nhiều đêm suy nghĩ. Đạt trắng mái đầu. Thuần dưỡng thú hiếm. Đâu dễ. Cái gì đến phải đến. Có công mài sắt. Có ngày nên kim! Đạt tự động viên. Có tình yêu nồng thắm của Hạnh. Vui cùng chồng. Buồn lo cùng chồng. Ca dao nói: Thuận vợ thuận chồng. Đúng thế. Nhiều lúc nản. Đạt muốn bỏ cuộc. Hạnh là ngọn đuốc. Là lửa ấm đêm đông.
                                                           
       5.
       Bốn năm trôi qua.
       Cà phê bói quả mùa đầu. Cặp chồn hương ngày nào. Sinh được sáu con.Giờ đây được gần hai trăm con, Cả đực cả cái.
       Hai vợ chồng Đạt Hạnh. Đêm nào cũng thức. Đọc nhiều sách Động vật học. Thú vị nhất là các con vật. Cái dạ dày là nơi ủ men. Ăn vào ị ra. Thế mà quý. Lạ chưa?
        Tỷ như chuyện Trung Hoa. Có chè “trảm mã trà”. Chè trồng núi Vu Sơn.Chân núi có suối Ô Long. Nước đặc sánh xác chè. Màu đen. Mã phu để ngựa đói hai ngày. Thả vào Vu Sơn. Ngựa no búp trà. Uống no nước suối Ô Long. Dong  ngụa về kinh đô. Vua truyền giết ngựa. Moi bụng lấy trà. Sao tẩm. Chế biến. Trà có hương và vị đặc biệt. Bổ thận. Tráng dương. Nhưng mà ác quá! Còn Việt Nam ta. Thời nhà Trần. Núi Ba Vì. Thờ Thánh Tản. Họ Nguyễn. Tên Tuấn. Có lão phu làm “Trảm mã trà”. Ông cho ngựa ăn no chẻ. Phần lớn trồng mạn Phú Thọ. Ngựa no búp chè. Chém đứt đầu. Mổ bụng moi trà. Để nguyên cái dạ dày. Ủ bảy ngày đêm. Rồi sao tẩm đem dùng. Nghe tin vua muốn gặp người làm Trà trảm mã. Chánh tổng Nguyễn Bính tâng công. Bí mật giết Lão phu. Đem trà dâng vua. Vua biết Bính không phải là người làm trà. Truyền chém.. Vua là người nhân đức,sáng suốt. Tự kết tội mình đã gây ra cái chết của Lão Phu. Chưa bao giờ vua khóc. Quần thần lo lắng. Hoàng hậu Ỷ Lan tâu:
-   Bẩm hoàng thượng! Lão Phu là kẻ ham cái hương vị của một chén trà. Coi rẻ mạng sống con ngựa. Ác lai, ác báo. Bị Nguyễn Bính giết. Y như Lão Phu đã làm với ngựa. Lão Phu gieo nhân nào. Để gặt quả nấy qua tay Nguyễn Bính. Thiếp xin tha tội chết cho Nguyễn Bính. Vua truyền:
-    Đem tất cả số trà trảm mã. Nấu thành nước. Đổ cả xuống sông. Chiêu hồn con ngựa! Và ra lệnh: Cấm dân gian không được chế biến trà kiểu này! Thật là một ông vua vĩ đại. Lòng khoan dung của vua. Sự thông thái của hoàng hậu. Để lại hậu thế muôn lời ca tụng.
                                                    ***
                      6.
              Gần bốn mươi tỷ VNĐ. Dốc vào trang trại. Hiện dần ra một khu du lịch. Đẹp. Khang trang. Hút khách mọi nơi. Khách ta, khách Tây nườm nượp. Phần đông đến xem. Ít người dám uống. Cà phê hương cứt chồn. Một ấm hai trăm ngàn đồng. Một ký hạt nhân khô:hai mưới triệu đồng. Cũng chưa phải là cao. Cà phê Kopi Luwak Indonésia. Có giá 600 USD/kg. Vẫn không đủ cho nhu cầu.
              Khách tham quan thích chụp ảnh với chồn. Qua gần thập kỷ. Nhờ huấn luyện tốt. Con cầy vòi hương được thuần dưỡng. Sinh sôi. Thân thiện với môi trường. Với con người. Công lao đó là của thạc sĩ Đào Quốc Đạt. Với sự động viên của Hạnh. Người vợ tảo tần chung thủy.Là công nuôi nấng của bà Kim.
              Giờ đây. Vợ chồng Đạt trả xong nợ. Đạt thưa với mẹ xin sửa lại ngôi nhà cũ. Làm ngôi từ đường. Và là nơi an dưỡng tuổi già của bà Kim. Trong núi. Nơi mười mẫu rẫy. Đạt quy hoạch thành Khu du lịch sinh thái. Chung quanh rào bắng các loại cây ăn quả. Có những loài cây mang từ Quảng Trị. Vả, bồ quân, thanh trà…Khu sinh thái này mang lại công ăn việc làm cho người tại chỗ. Cho bà con quê nhà. Gần một trăm lao động. Người nào việc đó. Nhiều bà con đã có cơ ngơi.Ăn quả nhớ người trồng cây. Mẹ con bà Kim giúp đỡ những người ngày đầu đến đây. Ngoài khoản thuế má đầy đủ. Vợ chồng Đạt chung tay xây dựng nông thôn mới. Nguồn vốn từ những con cầy vòi hương.
              Một ngôi biệt thự mọc lên. Một nhà hàng mọc lên. Một quầy đặc sản cà phê cứt chồn hương mọc lên. Hảo hạng, Đích thực! Có một họa sĩ vẽ chân dung khách bằng mầu nâu đậm của cà phê.
              Đạt bàn với Hạnh. Tìm tên thương hiệu. Tranh cãi. Bàn bạc. Nhất trí lấy tên: “TRANG TRẠI CÀ PHÊ CỨT CHỒN HƯƠNG HẠNH ĐẠT’.Cái logo vẽ con cầy hương chồm lên hai chữ cái HĐ. Chữ HĐ cách điệu thành hai hạt cà phê.

                                                      

              Đêm đến. Đèn điện sáng. Những con đường làng. Nhựa tráng phẳng lỳ. Trường Tiểu học lên Trung học. Bệnh xá khang trang. Bác sĩ Lương, ban học Đạt về. Chung tay góp sức. Tạo dựng cuộc sống mới.
              Xuân T. giờ đây đẹp lắm!

                                                                                    XUÂN BẢO
                                                                          Biên Hòa, 19 – 8 -2014


                                                          


       

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét