VỌNG
PHU MỘT THỜI
ÁC LIỆT
Truyện
ngắn XUÂN BẢO
Đêm Bình Châu.
Biển lặng. Bầu trời đen
kịt. Ngoài khơi xa, chiếc tàu Kilinski* rúc từng hồi còi dài.Đèn trên tàu nhấp nháy,
lấp loáng trông như một thị trấn nhỏ.
Bãi
biển nhộn nhịp người. Đoàn người đưa tiễn đông.Thân nhân là các bậc cha mẹ, anh
chị em và rất nhiều bạn bè.Những đồng đội đã cùng chiến đấu khắp chiến trường
Đông Nam Bộ. Họ bịn rịn chia tay người thân lên đường tập kết ra Bắc. Có tiếng
khóc nức nở. Có tiếng vỗ về: Đừng khóc! Hai năm sau, tổng tuyển cử thống nhất
nước nhà. Anh về.
Các đại đội hàng ngũ nghiêm chỉnh.Từng
tiểu đội nối đuôi nhau bước lên ca nô.Ca nô chiếc này đến chiếc khác chui vào
màn đêm mất hút.
Có
một đôi trai gái tuổi còn rất trẻ. Chàng ngoài hai mươi. Nàng mười tám.Đó là Trần
Kiêm Chính thường gọi là Hai Chính và Nguyễn Thị Ngọc Chanh thường gọi là Ba
Chanh.Ba Chanh tiễn chồng mới cưới lên đường.
– Em ở nhà nhớ giữ gìn
sức khỏe và chăm lo cho ba má và các em.
- Dạ.Anh yên tâm.
- Hai năm!Không lâu đâu em.
Hai Chính ghì sát môi
vào má vợ hôn. Có tiếng hô: Đại đội 10 tập họp. Hai Chính vội buông tay Ba
Chanh.Nước mắt Ba Chanh chảy dài trên hai gò má.
***
.
Trùng khơi xanh thẳm.Từng con sóng vỗ
vào mạn tàu. Đàn hải âu bay lượn. Gió biển lùa vào tàu ngửi thấy vị mặn. Phía
chân trời xa, nổi lên những đám mây trắng xốp như bông. Tiểu đội của Hai Chính kẻ
nằm, người ngồi. Có nhiều đồng đội say sóng. Nhìn qua cửa sổ boong tàu, Hai
Chính trầm ngâm nhớ lại.
Ký
ức hiện về như một cuốn phim quay chậm. Hình ảnh quê hương Bảo Vinh. Những quả
đồi thoai thoải. Nương rẫy. Lúa khoai.Vườn tược.Chôm chôm, sầu riêng.Ba má và
các em. Hình ảnh của ba mờ chồng xen lấn lên nương rẫy Bảo Vinh.
Có lần, đã lâu lắm rồi, ba kể: Hai Chính
sinh năm Ất Hợi. Cái năm mà kinh thành Huế, giữa trưa chính ngọ, một loạt đại
bác nổ rền trời, mừng Nam Phương hoàng hậu sinh hạ hoàng tử Bảo Long. Nếu không
có Cách mạng Tháng Tám thì Bảo Long Đông cung Thái tử sẽ nối ngôi của Đức kim
thượng Bảo Đại rồi. Hoàng đế Bảo Đại trở thành công dân Vĩnh Thụy của một nước
Việt Nam độc lập kể từ chiều ngày 25 tháng Tám năm 1945.Tại Cửa Ngọ Môn, nhà
vua đọc chiếu thoái vị và trao ấn tín quốc bảo cho các ông Trần Huy Liệu, Cù
Huy Cận, thay mặt Chính phủ lâm thời của Cụ Hồ vào Huế tiếp nhận. Bản tuyên
ngôn này do Vĩnh Cẩn, một cận thần trong triều đình soạn thảo và sau ngày Độc lập
2-9, Vĩnh Cẩn phò tá Vĩnh Thụy ra Hà Nội,ở số nhà 51 Trần Hưng Đạo cho đến ngày
vua tôi Vĩnh Thụy đào tẩu, bỏ lại chức cố vấn chính phủ cho muôn dân nguyền rủa.Như
vậy nhà Nguyễn tồn tại trong lịch sử Đại Nam, ở kinh đô Phú Xuân, thiếu 13 năm
thì tròn 400 năm (1558-1945) với 9 chúa và 13 vua.
Mẹ
Trần Kiêm Chính, họ Hồ Đắc, một dòng họ nổi tiếng của Huế, người làng Vĩ Dạ, học
sinh trường Nữ sinh Đồng Khánh.Ba thi đậu Diplôme de barchelier (tú tài toàn phần).Năm
1931 Trần Kiêm Đính nhờ giỏi tiếng Pháp và có bằng tú tài Tây nên được vào làm ngành hỏa xa. Thời gian này cũng
là lúc người Pháp thông đường xe lửa răng cưa đoạn từ Phan Rang lên Đà Lạt.
Hai gia đình họ Trần và
họ Hồ kết làm thông gia. Năm 1934 ba mạ làm lễ cưới. Mùa xuân năm 1935 thì Trần
Kiêm Chính cất tiếng khóc chào đời.
***
Ngày
23 tháng 9 năm 1945, được sự giúp sức của quân Anh - Ấn. thực dân Pháp gây hấn Sài Gòn và chế độ Dân chủ Cộng hòa buộc
phải đứng lên cầm súng chống lại chúng. Đầu năm 1947, giặc Pháp đổ bộ lên cửa
biển Tư Hiền và cửa biển Thuận An. Mấy tháng sau thì chúng chiếm toàn bộ kinh
thành Huế và còn nống ra Quảng Trị.
Thời gian này ông Trần KIêm Đính đang
làm sếp ga Long Khánh.Pháp chiếm Biên Hòa Đường sắt bị Việt Minh phá hoại cắt đứt
giao thông.Long Khánh tiêu thổ kháng chiến. Cả gia đình chạy giặc vào ấp Bảo
Vinh A.Cùng tản cư, có gia đình ông Nguyễn Ngọc Bình, người Quảng Trị. Ông bà
Bình có ba người con, một trai và hai gái. Nguyễn Ngọc Thanh là con đầu, thường
gọi là Hai Thanh, cùng tuổi với Hai Chính. Ba Chanh là con gái, kế Hai Thanh.Ngọc
Chanh bằng tuổi Diệu Lan em Chính, học cùng lớp và chơi thân với nhau từ tấm
bé.
Hai
miếng rẫy của ông Đỉnh và ông Bình cận kề nhau trên một quả đồi. Phía trước có
một con suối nhỏ uốn quanh. Mùa nước nổi suối dâng cao và có nhiều cá. Cây cối um
tùm. Chim muông và thú rừng nhiều lắm.
Bảo
Vinh thời gian này vẫn còn rừng. Rừng bạt ngàn. Có một số đồn điền cao su của
chủ Tây ở Bình Lộc, ở Hàng Gòn…bao quanh Long Khánh.Chính và Thanh được đi học
chữ ở trường kháng chiến, học hết lớp 4 thỉ nghỉ vì không có lớp cao hơn. Sau
trận lụt lịch sử năm Thìn 1952, Chính và Thanh bước vào tuổi thanh niên. Thanh
niên Bảo Vinh nô nức vào rừng theo bộ đội của ông Tám Nghệ.
Ông bà Trần Kiêm Đính
ngỏ ý muốn cưới Ngọc Thanh cho Kiêm Chính. Ông bà Bình lâu nay đã để ý đến Kiêm
Chính, chàng trai xứ thần kinh vóc dáng cao ráo, khôi ngô tuấn tú, mặt mày sáng
sủa và nhất là cử chỉ giao tiếp lễ độ, khiêm nhường.Rõ là con cái nhà gia giáo.Đến
khi Hiệp định Genève được ký kết. Tưởng chừng đất nước không còn bom đạn chiến
tranh nữa.Hai thông gia làm lễ cưới cho đôi trẻ. Ông bà nghĩ rằng đất nước đã
không còn chiến tranh, cuộc sống sẽ thanh bình. Hai Chính được đơn vị cho nghỉ
phép ba ngày về cưới vợ. Rạp cưới làm trước sân nhà ông bà Đính. Bà con chung
quanh Bảo Vinh cùng đến chung vui. Đơn vị cử chính trị viên tiểu đoàn về dự.
Cũng như nhiều đám cưới khác, không có mâm cao cỗ đầy, không có pháo lói, chỉ
có nước trà quạu và thuốc rê.Sau đám cưới vài hôm thì Hai Chính và HaiThanh có
lệnh đi tập kết ra bắc. Thế là hai anh em cùng một chuyến tàu.
***
Ra bắc, Kiêm Chính chuyển khỏi quân đội
và đi làm công nhân cầu đường khôi phục đường
sắt. Bởi có một lý do hết sức tế nhị; lý lịch của Kiêm Chính ghi là con của
công chức thời Pháp thuộc. Còn HaiThanh là thành phần cơ bản vì gia đình là phu
công tra cao su nên được chọn đi học sĩ quan ở Sơn Tây. Từ đó hai người thỉnh
thoảng mới gặp nhau ở bờ Hồ Hoàn Kiếm, nơi một thời được con em miền Nam tập kết thường gọi là hồ “tìm
kiếm”và cả hai đều không nhận được tin tức quê nhà.
Mỹ Diệm ra sức phá hoại Hiệp nghị Genève.
Việc tổng tuyển cử sau hai năm trở thành mây khói và miền Nam Việt Nam thành
cái lò giết người khổng lồ. Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành một cuộc chiến
tranh tàn khốc hòng cứu vãn anh em nhà họ Ngô.
Hai Thanh lên đường đi B. Về lại miền
Đông, Nguyễn Ngọc Thanh được phiên chế về Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác của vị chỉ
huy tài ba Lê Bảy.Năm 1968, trong một trận đánh tàu giặc trên sông Lòng Tàu, đại
đội trưởng đặc công thủy Nguyễn Ngọc Thanh hy sinh khi tuổi đời mới trên ba
mươi, không tìm thấy hài cốt. Bia Đền tưởng niệm Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác và
trong sách Một thời Rừng Sác có tên người anh hùng này với đầy đủ họ tên, quê
quán,năm sinh, ngày hy sinh. Tiếc vô cùng là do tình hình chiến trường lúc đó
quá ác liệt nên Hai Thanh chưa kịp về thăm gia đình thì anh đã vĩnh viễn nằm xuống
trong dòng sông Đất Mẹ Việt Nam.
Học hết lớp 10 bổ túc,
Hai Chính thi vào Đại học Văn hóa. Tốt nghiệp
hạng ưu nên được Bộ giữ lại công tác tại thủ đô Hà Nội.Vò võ mười năm
trôi qua, vợ nam chồng bắc. Hai Chính gặp Bích Liên, con gái một nhà tư sản thuộc
diện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Chính chấp nhận kỷ luật bị
khai trừ khỏi đảng và cưới vợ. Cuộc tình này cũng gian nan lắm!
***
Nửa
nước bị chia cắt. Sông Hiền Lương thành giới tuyến quân sự tạm thời.
Ngô Đình Diệm từ Mỹ về. Quốc trưởng Bảo Đại bị
phế bỏ. Diệm ra luật 10-59 lê máy chém đi khắp miền nam. Hắn điên cuồng trả thù
những người kháng chiền cũ và thân nhân của họ.Hắn còn trắng trợn tuyên bố biên
giới Hoa Kỳ kéo dài tới tận vĩ tuyến 17. Miền nam Việt Nam thành bang thứ 51 của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ?!
Gia đình ông bà Bình,
ông bà Đính và nhiều gia đình khác bị khép tội liên quan với Việt Cộng vì có
con tập kết. Ông Bình bị bắt và vì không chịu chào cờ ba que và hát bài suy tôn
Ngô tổng thống nên chúng bí mật thủ tiêu ở nhà tù Long Khánh.Mẹ Ngọc Chanh và
các em bị dồn vào ấp chiến lược và từ đó
mất liên lạc với Ba Chanh. Sau này có người bà con cho biết Mạ và hai em trên
đường lặn lội về quê thì bị Mỹ ngụy bắn chết trong một cuộc càn ở tỉnh Quảng Đức.
Gia đình ông bà Đính và các em kịp lánh vào rừng Sông Ray. Sông Ray lúc này là
căn cứ kháng chiến của tỉnh Bà Rịa-Long Khánh. Diệu Lan tham gia du kích Bảo
Vinh ít lâu sau được bổ sung cho Đội Trinh sát vũ trang Long Khánh. Cùng với đồng
đội, Diệu Lan tham gia nhiều trận đánh trong lòng địch.Với cách đánh mưu trí,
táo bạo của Đội đã làm cho địch thất điên bát đảo và hoang mang cực độ. Diệu
Lan đã anh dũng hy sinh trong trận tấn công địch ở quán Ngọc Hoa, khi chỉ còn
vài ba tháng nữa thì Xuân Lộc- Long Khánh được giải phóng. Cậu Út Trần Kiêm
Minh, chiến sĩ đặc công của trung đoàn đặc công 113, trong những ngày chốt giữ
cầu Ghềnh đã anh dũng chiến đấu giữ cầu.Đại đội 1 của Tiểu đoàn 23 chỉ còn lại
bốn người. Út Minh hy sinh trong ngày cuối cùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Long Khánh Xuân Lộc được
Nguyễn Văn Thiệu gán cho cái tên “ Cánh cửa thép phía đông bắc Sài Gòn” và “Xuân Lộc mất thì Sài Gòn mất”.
***
Tháng 11 năm 1963, lực
lượng quân đội do các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Tôn Thất Đính làm đảo
chính, Diệm Nhu bị giết. Tình hình tương đối êm, Ba Chanh đưa bố mẹ chồng về
sinh sống tại thị xã Biên Hòa. Thời gian này Ngọc Chanh đã trở thành một thợ
may giỏi, có tiệm may Hoài Bắc ở trước cửa chợ Bình Trước. Cái tên Hoài Bắc là
có ý nhớ về bắc, nơi chồng cô đang sống.
Ba Chanh mang nhiều nỗi
đau lớn: cha bị giết.Mẹ và các em thất lạc.Anh trai ra bắc không có tin tức gì.Người
chồng yêu thương mới chỉ quen hơi bén tiếng mấy hôm thì lại đi xa.Ngọc Chanh cảm
thấy vô cùng trống trải của đời mình. Cô dồn hết sức lực vào công việc làm ăn
và ngày đêm lo chăm sóc cho bố mẹ chồng như lời hứa với Hai Chính năm nào trên
bãi biển Bình Châu.Thời gian qua mau.Thế mà đã hơn mười mấy năm trời xa chồng.Nỗi
nhớ ngày càng chồng chất, khó nguôi ngoai. Đêm về nỗi cô đơn khắc khoải tâm
can. Nỗi mong đoàn tụ hãi hùng lắm! Ba Chanh cố nén vào tận đáy trái tim tưởng
chừng như sẵn sàng rớm máu, sẵn sàng vỡ tan ra từng mảnh. Chanh thường kêu lên
những lời thống thiết: “Anh thân yêu, giờ này anh ở đâu hở anh?Anh có nhớ tới
em không? Ơi anh Kiêm Chính của em!” Đêm nào cũng như đêm nào khi nằm lên giường,
Ba Chanh thao thức mãi. Và hai dòng nước mắt ướt đầm chiếc gối lẻ! Những giọt
nước mắt chảy vào trong và biến thành những giọt kim cương! Nỗi đau chờ chồng
da diết lắm, đau đớn lắm!
, Tiệm
may Hoài Bắc ngày càng đông khách. Từ hai cái máy may lúc đầu, nay đã có mười
cái với hàng chục thợ.Ba Chanh nhận thêm đồ của Quân đoàn III, trang phục của
lính sân bay Biên Hòa.Biên Hòa là nơi có nhiều sắc lính Mỹ - ngụy trú đóng. Tiệm
may Hoài Bắc có cô chủ tuổi đã ngoài ba mươi nhưng còn rất tươi tắn, xinh đẹp,
tính tình vui vẻ luôn nở nụ cười với khách hàng. Người đời đâu có biết cô chủ
tiệm may này có một nỗi sầu đau lớn biết chừng nào mà cô cố giấu tận đáy lòng!
Những tên sĩ quan, úy có, tá có mon men buông lời tán tỉnh cô chủ tiệm may,
nhưng Ba Chanh đều phớt lờ.Có người hàng xóm tốt bụng thấy Ba Chanh ở vậy nên
đã đánh tiếng muốn làm mai mối cho cô một tấm chồng. Nhưng cô luôn lựa lời từ
chối khéo.
Khi đã có số vốn kha
khá, Ba Chanh thưa với bố mẹ chồng, xin ý kiến ông bà Đính mua căn nhà trong hẻm
Cây Me vốn dĩ lâu nay gia đình cô trả tiền thuê hàng tháng. Ngọc Chanh muốn để cho
ông bà Đính đứng tên chủ sở hữu ngôi nhà, nhưng ông bà không chịu, viện lý do
cha mẹ đã già rồi.Ông Đính giải thích: Con đứng tên là phải lẽ. Vì công lao sức
lực của con đã làm ra kia mà. Ngôi nhà hẻm Cây Me được Ty Điền địa Biên Hòa cấp
sổ địa bộ mang tên Nguyễn Thị Ngọc Chanh từ đó.Khuôn viên ngôi nhà hơn ba trăm
mét vuông được tu sửa lại đẹp đẽ khang trang, có mảnh đất nhỏ để trồng rau và
cây kiểng, có mấy cây xoài, cây lý đã có trái. Ba Chanh xin phép bố mẹ chồng được
giành riêng một phòng nhỏ đặt bàn thờ thờ tổ tiên dòng họ Nguyễn Ngọc và cha mẹ
mình.Phòng chính giữa đặt bàn thờ thờ tổ phụ dòng họ Trần Kiêm của gia đình nhà
chồng. Mọi việc chỉnh trang lại ngôi nhà đều do Ba Chanh lo liệu và quán xuyến.
Bà con lối xóm khen ngợi Ba Chanh vừa giỏi giang vừa đẹp người đẹp nết, hiếu thảo
với bố mẹ và ăn ở hiền hòa với mọi người.
Năm 1972, ông Trần Kiêm
Đính đã trên cái tuổi thất thập, tuổi già sức yếu cộng thêm bao sầu muộn vì đất
nước bị chia cắt.Hai Chính ra Bắc không liên lạc được. Diệu Lan và thằng út đi
kháng chiến không biết chết sống ra sao? Súc tàn lực kiệt, chống chọi không nổi với căn
bệnh hiểm nghèo nên đã quy tiên.Tiếp đến năm sau, năm 1973, bà Đính chưa kịp về
thăm Huế khì đã có Hiệp định đình chiến Paris. Bà lâm bệnh nặng và theo chồng về
bên kia thế giới. Hai cái đại tang dồn dập và nổi đau gia đình cha mẹ ruột tan
tác,mất mát. Cộng với nỗi đau chờ chồng gần hai mươi năm đằng đẵng làm cho Ba
Chanh gần như suy sụp hẳn. Cô chủ tiệm may Hoài Bắc nằm liệt giường mấy tháng
trời. Cô sang tiệm may cho một người bạn vốn là người làm công trước đây.Và khi
gượng dậy được, Ba Chanh suốt ngày quanh quẫn trong nhà. Công việc chính của cô
lúc này là chăm lo hương khói cho hai ban thờ. Cô cho xây thêm một am thờ, thờ
Đức Bà Quan âm Ngày ngày, đêm đêm tiếng mõ và tiếng rì rầm
kinh kệ nghe đến não lòng. Người giúp việc không nỡ rời xa cô chủ. Chin Tâm -tên
người giúp việc - tự nguyện ở lại đỡ đần
Ba Chanh- người đã hết lòng cưu mang Chín Tâm từ ngày lưu lạc đến đây. Ba Chanh
coi Tâm như người nhà. Chín Tâm tắt niềm mong ước về quê cũ ngoài Trung. Ở cái
làng Mỹ Khê của Tâm đã bị giặc Mỹ tàn sát hàng loạt, đốt phá san phẳng xóm làng.
Cha mẹ và bà con thân thích còn ai nữa đâu mà về! Hai trái tim cô đơn chia sẻ
cùng nhau những nổi buồn vô tận.Song riêng Ba Chanh vẫn còn chút hy vọng là Hai
Chính sẽ trở về. Một niềm hy vọng mong manh và đau đớn lắm!
***
Sáng ngày 30 tháng Tư
năm 1975.
Thị
xã Biên Hòa nhốn nháo. Chợ không họp.Trên trời vài ba chiếc máy bay quần thảo.
Tiếng súng thưa dần. Lính Quân đoàn III tháo lui theo nhiều hướng về Sài
Gòn.Khoảng giữa trưa thì yên ắng hoàn toàn. Cái sự yên tĩnh đến kỳ lạ. Một lúc
sau cả thị xã vỡ òa trong niềm vui khôn tả. Nhân dân đổ ra đường chật ních phố
phường. Cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh, cờ đỏ sao vàng đỏ rực. Và hoa, rất nhiều
hoa. Những tiếng hoan hô như muốn vỡ toang lồng ngực: Nước Việt Nam độc lập thống
nhất muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Hoan hô Quân Giải phóng!Trung đoàn 113 được
Bộ Tư lệnh chiến dịch phân công tiếp quản thị xã Biên Hòa.
Bà hàng xóm tốt bụng chạy
sang nhà, báo tin mừng cho Ba Chanh: Sài Gòn đã được hoàn toàn giải phóng.Tổng
thống Dương Văn Minh đã đầu hàng. Ba Chanh vui và trong lòng bừng dậy lên tia
hy vọng. Lạy Trời, lạy Phật cho con được gặp lại chồng con! Ba Chanh thầm kêu:
Anh Chính ơi! Anh có về trong đoàn quân giải phóng hôm nay không? Và Ba Chanh
như nói với chính mình: Em đã đợi chờ anh trong khắc khoải, hy vọng, anh có biết
không? Tuổi xuân cũng đã qua đi trong bao nỗi thương nhớ chờ mong đến cháy bỏng
tim gan.
Năm 1976, Quốc hội
chính thức thông qua Nghị quyết Thống nhất đất nước. Đuòng xe lửa Bắc Nam được
thông xe.Hai Chính tìm về Bảo Vinh. Hỏi thăm bà con sinh sống nơi này về tinh
hình gia đình. Mọi người đều không rõ họ tản mác đi đâu từ cái dạo chiến dịch Tố
cộng của Diệm ra đời. Có người cho biết đã lâu lắm, có lần gặp Ba Chanh ở Biên
Hòa, làm nghề thợ may. Hai Chính đến những tiệm may ở Biên Hòa hỏi han tin tức
Ba Chanh. Người ta mách có Ba Chanh chủ tiệm may Hoài Bắc ở đường gần chợ thị
xã. Và Hai Chính, vai đeo ba lô, chân đi dép nhựa Tiền phong, gương mặt dày dạn
phong sương … đã đến đó. Hai người mừng vui khôn xiết. Ba Chanh dặn Chín Tâm
trông nom cửa tiệm và đưa Hai Chính về nhà.
Phút gặp gỡ thiêng
liêng này làm cho Ba Chanh tưởng chừng như được sống lại những thời khắc hạnh
phúc ban đầu, khi hai người đang tuổi hoa niên, những đêm ngắn ngủi sau khi cưới,
rồi đến những nụ hôn nồng cháy trên bãi biển Bình Châu. Chao ơi! Thế mà đã hai mươi mốt năm! Gần một phần tư thế kỷ chờ
chồng. Có ít ỏi gì đâu?
Hai Chính trong tâm trạng ngổn ngang, biết nói
gì với người vợ thân thương! Cứ nghĩ là sau hai năm trở về, có ngờ đâu thời
gian kéo dài đằng đẵng đến hơn hai chục năm mới gặp.Cay đắng quá! Đêm đó, hai
người ngồi trên ghế sa lông ở phòng khách và nói chuyện với nhau về tất cả những
gì đã diễn ra, Chỉ một mình Ba Chanh, giọng nhỏ nhẹ đều đều kể cho tới gần sáng.
Hai Chính ngồi nghe thẫn thờ. Chín Tâm pha một phin cà phê và một bình trà nóng
bưng lên. Chừng vài chục phút sau, Chín Tâm lại bưng lên hai tô bún bò Huế -
món ăn quê hương mà ngày trước mẹ Hai Chính thường nấu.. Hai Chính nói với Ba
Chanh rằng anh được điều động về công tác ở Đồng Nai. Sáng nay phải đến cơ quan
nộp giấy tờ, hồ sơ. Ba Chanh thầm nghĩ: vợ chồng bao nhiêu năm xa cách biền biệt
sao gặp lại nhau mà anh có vẻ lúng túng ngượng ngập? Sao anh lại không có những
cử chỉ vồ vập yêu thương nhỉ?
Hai ngày sau – lại thêm
hai ngày cộng với hai mốt năm – Ba Chanh lại khắc khoải chờ chồng. Ruột gan như
bị cào xé bởi câu hỏi. Anh có còn là chồng của em nữa hay không? Hay là…Hai
Chính trở lại ngôi nhà trong hẻm Cây Me. Ba Chanh mừng lắm, ríu rít thân thương.
Hai Chính nói rằng: anh phải trở về Bắc
để lo thêm thủ tục giấy tở. Và lần đi này hơi lâu. Linh tính báo cho Ba Chanh
biết rằng chồng mình chắc đã có vợ ngoài Bắc???
Sau bữa cơm trưa, Ba
Chanh mang theo giấy chủ quyền nhà và cùng chồng lên Ủy ban nhân dân phường. Ba
Chanh đề nghị chính quyền sang tên chủ quyền nhà cho ông Trần Kiêm Chính. Sau
khi làm việc xong, Ba Chanh nhận tờ giấy
hẹn tuần sau lên nhận giấy chính thức.
Chiều hôm đó, Hai Chính
bắt xe đò đi Hà Nội. Ba Chanh về nhà, gọi Chín Tâm nói chuyện, cho Chín Tâm một
số vốn làm ăn và khuyên Chín Tâm nên trở về Quảng Ngãi. Dù không còn người
thân, nhưng đây là quê hương cội nguồn, nơi chôn nhau cắt rốn, là nơi còn mồ mả
cha ông. Chín Tâm ôm Ba Chanh khóc nức nở. Mấy hôm sau Chín Tâm bịn rịn chia
tay Ba Chanh về quê cũ.
Khi Chín Tâm đi rồi,
ngôi nhà trở nên quá trống vắng, có phần lạnh lẽo. Ba Chanh một mình thui thủi
vào ra. Bà hàng xóm tốt bụng thường hay sang chơi. Có khi bà nói chuyện với Ba
Chanh suốt buổi tối. Ba Chanh coi bà là người hàng xóm tốt, ăn ở có nghĩa tình.
Đúng một tuần sau, có một cán bộ của phường đến tìm Ba Chanh và trao cho cô tấm
giấy chủ sở hữu ngôi nhà hẻm Cây Me, mang tên ông Trần Kiêm Chính.Ba Chanh ra
chợ Biên Hòa, ép nhựa cứng các giấy tờ có liên quan tới ngôi nhà và mua một cái
cặp ny lông có khuy cài, bỏ tất cả giấy
tờ vào đó. Chanh còn mua một ổ khóa mới to, chắc chắn đem về nhà.
Tối đến, Ba Chanh sang
nhà bà hàng xóm tốt bụng mời bà sang chơi để cô nhờ chút việc. Bà hàng xóm tốt
bụng nghe Ba Chanh có ý muốn gửi ngôi nhà và giấy tờ nhà cho bà thì bà dãy nãy
lên. Không, không! Tôi không nhận đâu.Cô ở lại đây với chúng tôi, bà con chòm
xóm với nhau lâu rồi. Chúng tôi rất quý mến cô. Chúng tôi không muốn cô đi đâu
hết.Nhưng rồi, với sự cương quyết ra đi của Ba Chanh, bà hàng xóm đành nhận giấy
tở, chùm chìa khóa.
Hai tháng sau, gần giáp
Tết Bính Thìn, Hai Chính vể Biên Hòa mang theo vợ và hai đứa con. Thằng con
trai chừng bảy tám tuổi và cô con gái
khoảng năm sáu tuổi.Cấp trên bố trí cho
gia đình Chính ở cư xá Mỹ (lầu 5 tầng) ngay góc đường Hà Huy Giáp ngày nay. Mấy
hôm sau, cả nhà Chinh về thăm Ba Chanh, trong hẻm Cây Me. Đến nơi, cổng nhà
khóa.Nhìn vào, Chính thấy sân đầy lá xoài rụng.Gọi cửa, bấm chuông mãi không thấy
ai thưa. Bà hàng xóm tốt bụng vừa đi đâu về trông thấy Chính liền mời vào nhà.
Bà nói rằng Ba Chanh bỏ nhà ra đi sau hai ngày kể từ hôm cái anh cán bộ phường
đến trao cho Chanh tờ giấy chủ quyền nhà. Tôi hỏi: Đi đâu, cô Chanh không nói
và trao cho tôi cái cặp hồ sơ nhà và chùm chìa khóa..Cô Chanh dặn tôi khi nào
ông đến thì giao lại cho ông.Bà lật đật vào phòng trong và lấy ra cặp hồ sơ
cùng với chùm chìa khóa trao lai cho Hai Chính.
***
Cheo leo trên sườn núi
Nghinh Phong có một ngôi chùa nhỏ mang tên Tâm Phước tự. Hàng ngày có một ni cô
tuổi độ ba chín bốn mươi có gương mặt thánh thiện,nói tiếng miền Trung, thường
ra quét dọn sân chùa. Phật tử nhiều người biết ni cô này có pháp danh là Ni sư
Thích nữ Tâm Quang.
Tôi đặt câu hỏi: Phải
chăng đây chính là Nguyễn Ngọc Thị Chanh, tự Ba Chanh quê gốc Quảng Trị ,vợ Trần
Kiêm Chính tụ Hai Chính –người xứ Thần kinh,cố đô Huế đã cùng gia đình di dân
vào Long Khánh từ đầu thế kỷ trước?!
Câu
hỏi vẫn còn bỏ ngỏ!
Xuân
Bảo
Biên
Hòa, những ngày cuối tháng Mười 2014
Tác
phẩm Dự Trai viết về đề tài Chiến tranh và Cách mạng của Hội VHNT Đồng Nai tổ
chức tháng 11 năm 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét