ÁN DÂN SỰ TỪ MỘT BÀI THƠ
CỦA
NỮ SĨ NGÂN GIANG
(Nhàn đàm)
Lời thưa trước
. Tôi cứ nghĩ lẫn thẫn, giá như hồi mới tập kết
ra Bắc, cứ ở trong quân ngũ thì giờ này đâu đến nỗi. Oái oăm thay là những năm
tuổi trẻ tôi cứ chọc ngoáy vào văn chương đến nỗi cũng được nếm mùi nhà pha Hỏa
Lò. Ra đi Đoan Ngọ khi về Trung Thu.Đúng 100 ngày chẵn. Giá như, lại giá như hồi đó tôi có trong tay hai câu thơ của Viên
Mai:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
(Mỗi bữa không quên ghi thẻ trúc
Lập thân thấp (hèn) nhất ấy văn chương)
Thì tôi đã từ bỏ
nghiệp chướng văn chương rồi.Tôi không chịu nổi cái nghề “phu chữ” và lại không
thích làm “bút nô” (từ dùng của Hoàng Quốc Hải).Ấy thế mà khi đọc tập sách mới
của HQH có tựa là Kẻ sĩ trước thời cuộc, cái máu Trực Ngôn Tú Sừng trong tôi
lại cựa quậy cho nên viết cái “nhàn đàm” này.
***
Sáng 29/10/2014, tôi nhận được cuốn sách Kẻ sĩ trước thời cuộc của nhà văn Hoàng
Quốc Hải gửi biếu.Vì sách nói đến Kẻ sĩ nên tôi vội vàng giở tìm Mục lục để tìm
xem thời đại chúng ta đang sống có mấy kẻ sĩ? Trong 66 bài tản văn đó có một
bài tôi thấy hơi lạ nên lục tìm đọc trước.Đó là tác phẩm Vụ án từ một bài thơ, đăng ở trang 238 đến trang 243.
Hoàng Quốc Hải là nhà văn đã có rất
nhiều tác phẩm nổi tiếng. Song phải kể đến 2 bộ tiểu thuyết lịch sử Bão táp Triều Trần, Bộ mới 6 tập dày 2928 trang in khổ 14,5 x 20,5 ấn hành quý
3-2010 và Tám vua Triều Lý,4 tập dày 3514
trang in khổ 14,5 x20,5. Nộp lưu chiểu quý 4 – 2010.
Đây là 2 bộ tiểu thuyết đồ sộ nhằm ca ngợi
công lao của những vị vua hiền và tôi trung và của nhân dân Đại Việt. . Ở trang
5 đầu mỗi bộ sách đều có lời đề tặng.Bộ Bão táp Triều Trần, nhà văn viết: “Với
tấm lòng biết ơn vô hạn độ, tôi kính dâng tác phẩm này lên các bậc tiên hiền,
tiên liệt thuộc thời đại nhà Trần, đã ba lần đánh tan loài giặc dữ Mông-Nguyên,
cứu giang sơn ra khỏi vòng hủy diệt, nêu cao khí tiết bất khuất của giống nòi
Đại Việt”
Ở bộ Tám vua Triều Lý, Hoàng Quốc Hải
viết: “Tác phẩm này nhằm tôn vinh các
bậc tiên hiền, tiên liệt thuộc về thời đại nhà Lý – Một thời đại đã đặt cơ sở
vững chắc cho nền văn hiến và xây dựng một nước Đại Việt văn minh, giàu thịnh
và hùng mạnh vào bậc nhất trong lịch sử nước nhà.”
Tôi rất xúc động khi đọc những dòng
đề tặng hai bậc sinh thành của nhà văn: “Kính dâng hương hồn thày mẹ
tôi.HQH” và rất đỗi trân trọng lời đề tặng của Hoàng Quốc Hải cho người vợ
thương yêu:“ Quý tặng nhà thơ Nguyễn Thị Hồng, bạn trăm năm – người đã hết
lòng chia sẻ cùng tôi gánh nặng đường đời. HQH”
Tôi xin trở lại với Vụ án từ một bài
thơ. Chuyện là thế này:Sau ngày tiếp quản thủ đô (10-10-1954), luật sư, dân
gian thường gọi là trạng sư hay thày cãi Nguyễn Thành Vĩnh, phó chánh án Tòa án
Hà Nội nhận được đơn kiện vợ. Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Hàm,chồng. Bị đơn là
bà Đỗ Thị Quế,vợ. Tang vật chứng chỉ có duy nhất một bài thơ. Nguyên văn bài thơ
như sau (không có tựa đề):
Đêm
nay thôi đã mấy đêm rồi!
Ai biết đâu rằng
ai nhớ ai?
Lất phất hoa bay
vào cửa vắng
Nghiêng nghiêng
mưa hắt mái hiên ngoài
Trăng soi đã hẳn
soi hai ngả
Gió lạnh sao đành
lạnh một nơi
Cầm bút toan đề
thơ lại đặt…
Gối nào nước mắt có rơi rơi?!
Đây
là bài thơ bà Đỗ Thị Quế viết từ những năm 1949,1950 khi bà dắt díu đàn con từ
chiến khu hồi cư Hà Nội. Bà bùi ngùi
thương nhớ các anh, các chị ngoài kháng chiến gian khổ mà cũng tủi phận mình
nửa đường bỏ cuộc. Bài thơ được chép trong sổ tay.Lâu ngày bà Quế cũng quên
đi.Thế rồi ông Hàm vô tình nhặt được và cho là có ý ngoại tình nên ông đâm đơn
ra tòa đòi ly dỵ.
Trạng
sư Nguyễn Thành Vĩnh, khi xem xét hồ sơ, cảm thấy bài thơ hay nên nổi máu nghệ sĩ
làm luôn bài họa:
Đèn
rong xem đã mấy đơn rồi
Thao thức
canh trường những xót ai!
Tài nức
tao đàn hoa gác phượng,
Thân cam
tù túng phận hiên ngoài,
Cô đơn dị
mộng tuy chung gối
Tri kỷ
tương phùng vẫn cách nơi
Giải phóng mới rồi vươn cánh rộng
Tiếng thơ
dìu dặt ngọc vàng rơi.
PhiênTòa được mở
sau đó vài tháng và cũng chỉ diễn ra khoảng một giờ đồng hồ.Thay mặt Tòa, luật
sư Nguyễn Thành Vĩnh hỏi nguyên đơn:
- Ông Nguyễn Văn Hàm có chấp nhận bản án ly hôn với bà Đỗ Thị Quế hay còn
có khiếu nại gì không?
-
- Thưa quý Tòa,tôi chấp
thuận hoàn toàn.
-
Tòa hỏi bị đơn:
-
- Vậy ý kiến của bà Đỗ
Thị Quế?
-
Bà Đỗ Thị Quế đứng dậy vừa nói
vừa có vẻ như cười. Bà bình thản:
-
- Thưa quý Tòa. Tôi làm thơ
từ lúc 6 tuổi.Thay vì nói, tôi xin đọc mấy vần thơ tâm trạng:
·
Ngày
chửa sang thu đã thấy buồn
·
Tình
chưa ngời sáng đã hoàng hôn
·
Thân
không trời đất mà mưa gió
·
Người
ở đầu thôn, mộng cuối thôn
Cả phòng xử án sửng sờ và cảm phục tài thơ của bà Đỗ Thị Quế, tức nữ sĩ
tài hoa Ngân Giang.
***
Tôi xin kể vài nét về nữ sĩ Ngân Giang đểu hầu bạn đọc. Bà tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác
Hạnh Liên, Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên sinh ngày 20/3/1916 trong một gia đình Nho
học ở phố Hàng Trống Hà Nội. Quê gốc làng Hướng Dương, phủ Thường Tín, tỉnh Hà
Đông. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm, ông nội là một nho sĩ nổi
tiếng đất Bắc Hà, bạn thân của Đại thi hào Nguyễn Du. Lên 6 tuổi Ngân Giang
được cha dạy chữ Hán và học “ké” chữ Quốc ngữ một thày hàng xóm. Người bác gái
dạy cho làm thơ Đường luật.
Lên
tám, Ngân Giang đã có bài thơ đầu tiên mang tựa đề Vịnh Kiều đăng trên
báo Đông Pháp với bút danh Nguyệt Quyên..Năm 16 tuổi bà in tập
thơ đầu tiên Giọt lệ xuân, ký bút danh Hạnh Liên. 20 tuổi bà viết
cho Ngọ báo. 21 tuổi bà có thơ in chung trong cuốn Duyên Văn.22
tuổi bà rời Hà Nội vào Sài Gòn, viết cho các tờ Điện Tìn nhật báo và báo Mai.
Sau bà trở ra Hà Nội viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san,
Đàn Bà. Năm 1939, thi phẩm Trưng nữ vương ra mắt, gây tiếng vang
trên thi đàn.
Có một thi thoại gây chấn động
Sài Thành lúc bấy giờ là:Giáo sư Lâm Tấn Phát, tức nhà thơ Đông Hồ,( chồng nữ
sĩ Mộng Tuyết), giảng viên Đại học Văn khoa Sài Gòn đang trên bục giảng, giảng
bài thơ Trưng nữ vương của Ngân Giang, đến đoạn kết:
…Ải Bắc quân thù kinh
vó ngựa
Giáp vàng, khăn lạnh
trở đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ
vơ quá,
Trăng chếch ngôi trời
bóng lẻ soi
Nhưng chỉ tới câu thứ ba (Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá) thì
giáo sư xúc động ngất lịm đi, và ông từ
giã cuộc đời giữa cái tang của Thi Sách. Bài thơ gây xúc động mãnh liệt đến nỗi
giáo sư bị đột quỵ. Ông ra đi vào ngày 25-3-1969, ở độ tuổi 63.
Đầu năm 1944, Ngân Giang tham gia Mặt trận Việt Minh. Trong năm này, bà
cho in tập thơ Tiếng vọng sông Ngân. Năm
1946, Ngân Giang phụ trách Ban Lễ tân Bộ Nội vụ, cho in cuốn Những
ngày trong hiến binh Nhật Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bà ra chiến khu
công tác tại Sở Tuyên truyền Liên khu I. Do hoàn cảnh gia đình có nhiều khó
khăn, năm 1949 bà hồi cư về lại Hà Nội, vẫn làm thơ đăng trên các báo Hồ
Gươm, Quê hương, Tia sáng, Giang sơn…ký bút danh “Nàng Không tên”.
Hòa bình lập lại.năm 1954 bà làm việc ở Sở Văn hóa Hà Nội. Năm
1957,thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, bà được kết nạp chính thức vào Hội.Từ năm
1958 đến năm 1961 bà làm việc tại Hội Nhà văn. Chả hiểu vì sao bà về quê gốc
sinh sống và hoạt động văn nghệ quần chúng???. Có một người đàn ông bị bà khước
từ quan hệ nên bị ông ta thù ghét và vu cáo bà thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm.
Buồn chán Ngân Giang quay về Hà Nội, để rồi ngày ngày ra bãi sông Hồng quét lá
khô để bán, tối về rửa bát thuê, nhưng cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho
những đứa con lay lắt sống qua ngày. Khi không còn sức lực quét lá nữa bà ra
đầu đường mở quán chè chén bán nước.
Nữ sĩ Ngân Giang sống hẩm hiu như vậy, trải hơn 30 giữa lòng Hà Nội ngàn
năm văn hiến cho đến ngày 17 tháng 8 năm 2002 thì từ giã trần gian và được đưa
về chôn tại quê gốc làng Hướng Dương, huyện Thường Tín, nay thuộc Hà Nội.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải được Ngân Giang nữ sĩ coi là người bạn tâm giao,
là người bạn”liên tài.” Những năm bà còn
sống ở bãi Nghĩa Dũng, Hoàng Quốc Hải và một số văn nhân Hà Thành như Nguyễn
Tuân, Hoàng Tiến, Trần Lê Văn…thường ra bãi thăm nữ sĩ, đàm đạo văn chương.
Tôi xin tạm kết ở đây để quý độc giả vui Tết Ất Mùi mà không quên nhớ
đến một tài thơ của đất nước bị lãng quên trong xót xa!
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét