177. MỘT VÀI KỶ NIỆM VỚI NHÀ VĂN LÝ VĂN SÂM.
Hồi
ức
L.N.Đ.- Năm 1999 – năm cuối của Thế kỷ
XX và cũng là năm cuối Thiên niên kỷ I. Đồng thời là năm kỷ niệm lần thứ 20
Ngày thành lập Hội Văn Nghệ Đồng Nai, (22/12/1979 – 22/12/1999). Nhà văn Hoàng
Văn Bổn, Chủ tịch Hội cho mời tôi và Nguyễn Duy Thinh tới Văn phòng. Anh Chín Bổn
nói: “Hai ông là những người đầu tiên có mặt trong những ngày đầu thành lập Hội.
Hãy viết những kỷ niệm về ngày Hội chúng ta mới ra đời.”
Tôi và Duy Thinh nhận lời viết cái
hồi ức nho nhỏ này. Và giờ đây Duy Thinh đã đi xa. Tôi cho vào sách này toàn
văn bài viết CHUYỆN NHỎ NHỮNG NGÀY ĐẦU LÀM BÁO VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI. Đây cũng là
nén hương tôi thắp lên để tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Duy Thinh – người đã gắn bó
với Hội nhiều năm – và là người bạn chí cốt của tôi. Viết nhân ngày giỗ của nhà
văn Nguyễn Duy Thinh.
(In lại nguyên văn toàn bài đã đăng trên Tạp
chí Sông Phố số 55, số Kỷ niệm 20 năm thành lập Hội 1979 – 1999.)
***
CHUYỆN NHỎ NHỮNG NGÀY ĐẦU LÀM BÁO VĂN NGHỆ ĐỒNG
NAI
Xuân Bảo – Duy Thinh.
Mới
đó, mà hai chục năm đã đi qua. Những thành quả đã gặt hái bây giờ, làm chúng
tôi bồi hồi nhớ lại những trăn trở quên mình “điếc không sợ súng” ngày đó.
NHỮNG
BÀI BÁO ĐẦU TIÊN KHÔNG IN TRÊN BÁO.
Chiều
tối, trước khi về Sài Gòn, anh Lý Văn Sâm còn ngoắc tôi lại bảo: “Cậu và Xuân Bảo
ráng làm xong cái đó đi nhé”. Được anh Hai Lý cưng, tôi giỡn: “Cái đó là cái
gì, thưa anh?”. “Là cái đó đó”.Anh Hai
Lý cũng nói vui lại.
Thưa bạn đọc, “cái đó” mà nhà văn Lý Văn Sâm
căn dặn chúng tôi là chuẩn bị toàn bộ các văn kiện cho việc thành lập Hội Văn Nghệ
Đồng Nai.
Hai
ngày sau, anh Lý Văn Sâm lại nhắc: “Nè, không có đứa nào giúp việc cho các cậu
đâu. Làm cho ngon nghe!” Xuân Bảo tính ưa vui, bỗ bã quyết liệt: “Tự chúng tôi
biết cách giúp việc cho chúng tôi! Thưa anh Hai”.
Trong
thời kỳ Ban Vận động, trụ sở của Hội đang ở nhờ nhà số 1 Võ Thị Sáu. Nhưng ít
khi anh Hai Lý, anh Chín Thức (Huỳnh Công Thức) và anh Tô Văn Của đến. Chỉ có một
mình cô Đào Minh giữ “gôn”! Xe cộ không, thiết bị văn phòng không. Chỗ chúng
tôi giúp việc lẫn nhau là ngay phòng khách tư gia của Xuân Bảo. Một cái bàn sắt
lớn và một bộ sa-lông nan. Cũng may mà mặt bàn khá rộng tha hồ cho chúng tôi trải
bản thảo. Có một cái ghế mềm xoay 360o giống như ghế của bác phó cạo, thì Xuân
Bảo và tôi thay nhau ngồi “cạo giấy”.Còn cái máy chữ thì vui hết nói, mổ xuống
một ngón thì nhảy lên dính chùm đến ba chữ. Vui nhất là kẹt chữ T. Tôi bàn với
Xuân Bảo lấy chữ L thay chữ T, trông cũng khá giống. Xuân Bảo phì cười: “Cái thằng
kỹ sư địa chất, nhà văn cấp phường này, vậy khi đánh tới…”Chúng tôi ôm nhau cười.
CHÚNG TÔI ĐI THỰC TẾ VỚI
NHỮNG NGƯỜI LÁI MÁY BAY.
Khi
Hội Văn học – Nghệ thuật Đồng Nai đã ra báo đến số thứ tư, nhà văn Lý Văn Sâm bảo
chúng tôi: “Chúng ta (Đồng Nai) có may mắn ở gần sân bay. Vừa qua những người
lái máy bay của sân bay Biên Hòa đã hỗ trợ tốt cho chiến trường bạn. Các cậu bố
trí anh em đi viết về Không quân”.
Chúng tôi lại hứa với
anh như lần trước. Tuần lễ sau, đã làm việc xong với anh hùng Nguyễn Văn Bảy,
Tư lệnh của binh chủng Phòng không – Không quân. Anh Bảy giới thiệu chúng tôi với
chủ nhiệm chính trị sư đoàn Không quân phía Nam. Chúng tôi được xe quân sự của
Bộ Tư lệnh về đón tận sân bay Biên Hòa để lên sân bay Tân Sơn Nhất. Ở đây chúng
tôi được tiếp đón như những người thân mới đi xa trở về. Chúng tôi từ chối
phòng khách và xin được nghỉ cùng cùng với phòng các sĩ quan kỹ thuật.
Ngày
đi nghe báo cáo, xuống phân xưởng sửa chữa, lên đài chỉ huy, ra phòng trực chiến.
Lúc về phải đi qua dãy nhà sĩ quan dẫn đường (bay). Các chàng sĩ quan có bằng kỹ sư và hàm cấp tá nhưng còn rất trẻ,
ưa hài hước. Họ nuôi một chú khỉ rất “ranh ma”. Các chiến sĩ nữ đi qua hãy coi
chừng, nó phóng ngay lên vai, gở mũ và tháo dây nơ, kẹp tóc. Còn cánh đàn ông
chúng tôi, nó cũng làm vậy và lấy thứ khác. Chúng tôi đi ngang qua và Xuân Bảo
lãnh ngay cú “cẩu đầu vân” của chú khỉ. Xuân Bảo chỉ kịp kêu lên ối một tiếng
thì “hậu duệ” của Tôn Ngộ Không đã ở trên ngọn cây và khoe cây viết vừa cướp được.
Một sĩ quan dẫn đường bay vừa đi tới, huýt gió nghe chói tai và nói: “Thằng trời
đánh sống 500 tuổi kia, trả ngay bút cho nhà văn”. Có thể đó lời nói của Đường
Tăng, con khỉ ngoan ngoãn leo xuống trả bút cho Xuân Bảo.
Ngày
hôm sau chúng tôi được anh Tám Đức (Mai Văn Đức, chỉ huy trưởng Đoàn bay lên thẳng
(917) chiến đấu phía nam bố trí cho “bay thực tế” với các chiến sĩ lái. Vào
ga-ra máy bay chúng tôi thấy hai người lái đang đẩy chiếc OV10, nhỏ như đồ chơi
trẻ con. Chúng tôi nói cho bọn mình bay cái này cũng được. Hiền An Giang vốn yếu
đuối nói thêm: “Có lẽ bay cái này an toàn hơn”. Những người lái trả lời chúng
tôi là người lính chấp hành theo quân lệnh nên không thể chiều các đồng chí, vả
lại cái này không có đủ chỗ ngồi.
Xuân
Bảo cười vui: “Không sao. Vậy cho phỏng vấn nhanh. Các cậu có tham gia chiến
trường bạn vừa qua không?” Người lái khoát tay nói giọng rất lính: “Suýt chết đấy
“các cụ ạ”! Bọn mình chỉ điểm cho pháo cối bắn vào đội hình quân tháo chạy của địch,
nhìn thấy cả đạn cối bay qua đầu, nói dại nó mà rớt trúng đầu thì tiêu. Còn lần
khác đi thả truyền đơn ở Niết Lương, máy bay tự nhiên mất độ cao. Đành phải hạ
cánh bắt buộc. Chúng tôi nhảy ra, tay lăm lăm khẩu K54 vừa tự bảo vệ vừa tìm sự
cố kỹ thuật. Hú hồn, hóa ra có một tập truyền đơn kẹt vào cáp lái…Cái thứ này
có lẽ cho các cháu ở vườn trẻ rồi!
Trước
khi bay, chúng tôi được ăn sáng bếp tiểu táo của người lái: bánh mì patê gan, một
quả trứng gà luộc, một ly càphê sữa nóng và mỗi người được trang bị một mũ chống
tiếng ồn. Người lái chính bảo chúng tôi, lát nữa các anh sẽ được hưởng cái thú
rơi tự do! Hiền An Giang mặt mày xanh lét ôm lấy tôi, bảo: “Cho tao xuống
ngay”. Chúng tôi đành phải thả Hiền An Giang xuống giữa cánh đồng Củ Chi để anh
ngồi đó. Hai mươi ba phút sau máy bay lại đỗ xuống đón Hiền An Giang.
Sau
chuyến bay có một trong đời trên chiếc HU1A của Mỹ, chúng tôi về phòng chỉ huy
của Đoàn trưởng Tám Đức. Anh kể cho chúng tôi nghe chuyện tập bay, chuyện anh
cùng đồng đội bay cho Dầu khí và chuyện năm 1975 anh bay về thăm cha mẹ ở Cà
Mau, quần đảo trên rừng dừa và tràm chim quê mình mà thấy lạ hoắc vì chiến
tranh tàn phá!
***
Chúng
tôi trở vế báo cáo với anh Lý Văn Sâm là sẽ có bài cho những số sau. Thế còn
bây giờ, Tết đến nơi không có cánh bay trong báo như là Tết không có bánh tét.
Và
chuyến đi thực tế xuống Hố Nai cũng đầy kỷ niệm. Chúng tôi xuống đó vì nghiệp vụ
cần phải viết một điển hình. Giáo xứ Ngọc Đồng tổ chức thu mua heo vượt kế hoạch.
Cùng đi có nhà văn Nguyễn Khải và nhà thơ Nguyễn Duy. Cha xứ Ngọc Đồng tiếp
chúng tôi như một lão nông tiếp bạn cũ về quê. Ông hút thuốc lào với cái thú
ngâm nga của người biết quý cái hương vị dân dã. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng bắn điếu
cày liên tục với phong cách rất lính. Hôm ấy Cha xứ nói trước đây đọc tiểu thuyết
của Nguyễn Khải “Cha và con…” cứ tưởng ông Nguyễn Khải là người có đẳng cấp
trong Giáo hội. Sau này nhà văn nói với chúng tôi: “Nói thật với các cậu, mình
có thể làm lễ như một cha xứ có nghề”.Thế mới biết nhà văn Nguyễn Khải đã sống
như thế nào để viết những trang viết được mọi độc giả ưu ái đến như vậy.
Nhà văn Lý Văn Sâm dặn
chúng tôi biên tập kỹ và trao lại bài vở cho anh mang lên duyệt. Cuối thư, nhà
văn còn bảo cho anh Chín Thức thuốc nhức đầu. “ảnh sụn rồi” (nguyên văn anh Lý
Văn Sâm viết).
Hồi
đó Duy Thinh cũng nhận được thư anh Lý Văn Sâm. Anh nhắc chúng tôi bố trí cho
anh em đi thực tế và chọn một sồ bài để in chung với anh trong tập Bến Xuân.
Có
lần giữa hội nghị anh Lý Văn Sâm cự tôi (Nguyễn Duy Thinh): Tại sao báo lần này
không có bài ký nào cả? Tôi thưa không có ai gửi, đặt bài gấp quá họ không viết
kịp. Anh bảo: Cậu có cái nào đưa đây. Tôi nói có. Nhưng tôi là biên tập lại
biên tập cho chính mình, hơi kỳ. Anh lại la, thì cứ đưa đây, mình chịu trách
nhiệm. Tôi đưa anh bài ký “Những tín hiệu từ ven sông Đồng Nai” viết về một
nhóm phóng viên Thông tấn xã thường trú ở Đồng Nai. Xong hội nghị, anh trả lại
bản thảo với bút phê: Được, đưa Hiền An Giang lên ma-két. Cái măng-sét Xuân Bảo
thiết kế vẫn dùng.(1)
Nhân
viết đến anh Lý Văn Sâm, xin Ban biên tập cho tôi viết thêm vài dòng nữa về nhà
văn. Năm nay anh đã cao tuổi và còn sống với chúng ta. Trong bức thư nói ở trên
kia, cuối thư anh viết: “…mình sẽ nghĩ lại, một kiểng đôi quê cực quá (vừa ở Hội
Văn Nghệ Giải phóng, vừa ở Hội Văn Nghệ Đồng Nai). Nay vỏ xe Honda hư rồi…” Hồi đó tôi đã kiếm cho anh vỏ xe để có phương
tiện đi lại. Nhưng tôi còn nợ anh, chưa viết xong bài ký anh vượt ngục ở Tân Hiệp
– Biên Hòa tháng 12 năm 1956, với tựa đề dự kiến “Cùng vượt ngục với những người
anh hùng”.
***
Hai
mươi năm đã đi qua, tôi luôn luôn nói với chúng tôi: “Đã đành tre già măng mọc,
nhưng măng có mọc thẳng hay không cần phải dựa vào tre già”. Riêng ở Đồng Nai,
anh Lý Văn Sâm, anh Hoàng Văn Bổn chính là những cây tre già, “có mảnh áo cũng nhường cho con”, như
Nguyễn Duy đã viết.
Thu 1999
X.B – D.T
(1). Anh Hai Lý phân công Xuân Bảo vẽ
cái măng-set báo Văn Nghệ Đồng Nai. Tôi có đoạn Hồi ký Tôi vẽ măng – set tờ Văn
Nghệ Đồng Nai, đã in vào sách Truyện ngắn và Ký sự 1.Giờ đây, tôi đăng lại đoạn
này để hầu bạn đọc:
TÔI
VẼ MĂNG-SET TỜ VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI.
Ban
Chấp hành phân công anh Hai Lý giữ chức chủ tịch, anh Chín Thức giữ chức phó chủ
tịch. Tôi còn nhớ mấy anh chị trong Ban Chấp hành mới gồm anh Nguyễn Văn Sâm (tức
Tám Sâm), trưởng ty Văn hóa – Thông tin, anh Phạm Minh, phó trưởng ty và một số
người khác mà giờ đây tôi không còn nhớ rõ. Trụ sở Văn phỏng Hội đóng tại nhà số
1, đường Võ Thị Sáu, (tên cũ là đường Công Lý), phường Quyết Thắng, đối diện
khách sạn Hòa Bình. Cán bộ, nhân viên văn phòng chỉ có 3 người. Đó là cô Đào
Minh, cậu Đào Thanh Chương và cậu Lân lái xe.
Sau
đại hội vài tuần, tôi được anh Chín Thức bảo sang Văn phòng bàn việc ra tờ báo
của Hội. Tôi đề nghị hai anh cho mời Nguyễn Duy Thinh cùng dự bàn. Trong cuộc họp
này có anh Tám Sâm và anh Nguyễn Hiệp, cán bộ biên tập của tạp chí Văn hóa Đồng
Nai cùng dự. Mở đầu cuộc họp anh Hai Lý nói rõ mục đích ý nghĩa của việc xuất bản
tờ báo. Báo Văn nghệ Đồng Nai là cơ quan ngôn luận, là diễn đàn nghiên cứu lý
luận, phê bình, sáng tác của Hội Văn học – Nghệ thuật Đồng Nai. Tên tờ báo là
Văn nghệ Đồng Nai. Báo đặt dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, trưởng
ban là ông Lê Quang Thành, ủy viên Thường vụ Tinh ủy và phó trưởng ban là ông
Lê Tư Huyền, tên thật là Từ Đình Phiến, thường gọi là ông Tư Huyền. Chủ tịch Hội
kiêm tổng biên tập là nhà văn Lý Văn Sâm. Báo xuất bản nửa tháng một kỳ mà hồi
đó chúng ta thường gọi là bán nguyệt san. Tôi và Nguyễn Duy Thinh được phân
công tổ chức bài vở và tổ chức in ấn. Trước mắt tôi được giao nhiệm vụ vẽ
măng-set báo. Tôi đã vẽ 3 phác thảo. Sau đó lại có một cuộc họp của Thường trực
Hội để bàn bạc nhất trí thông qua. Lần họp này có thêm hai họa sĩ là anh Đặng
Sĩ Nguyên và anh Thanh Thanh. Một phác thảo của tôi được thông qua và bắt tay
vào việc xuất bản. Nhà in được chọn là Xí nghiệp In của Ty Văn hóa – Thông tin
do anh Ba Nhỏ làm giám đốc. Bài vở do tôi và Nguyễn Duy Thinh chọn và biên tập
trước. Thường anh em tôi làm việc ngay tại nhà riêng của tôi, số nhà 100/23, Quốc
lộ 1, nay là đường Hà Huy Giáp với số nhà mới là 134/1/1.
Bài
vở lúc này chủ yếu là những cây bút phần đông là giáo viên của Ty Giáo dục và
các trường học trong tỉnh. Lớp người đầu tiên
có tác phẩm đăng trên Văn nghệ Đồng Nai là Nguyễn Sĩ Bá, Hoàng Trung Thủy,
Trần Trung Phụng, Búi Quang Tú, Tiêu Thanh Giang…Bên Bộ chỉ huy Quân sự có Đỗ
Tiến Khải, NGuyễn Sĩ Trung Kỳ…Sư đoàn Không quân có Trần Hồng Thái, bút danh
Thiên Hương và một vài người nữa tôi không nhớ tên. Tôi đặt bài cho Trần Gia
Minh, phóng viên báo Đồng Nai và sau đó 2 tác phẩm đầu tay của Trần Gia Minh được
chọn đăng là Bạn của đất (Ký chân
dung) và Người trở về (Truyện ngắn).
Báo
Văn nghệ Đồng Nai hồi đó in typo. Công nhân xí nghiệp in gắp từng con chữ cho
vào khuôn, sau đó đúc chữ chì. Bản in thử được dập ra 2 bản. Tôi 1 bản và Duy
Thinh 1 bản. Chúng tôi sửa lỗi chính tả (morasse) và trình anh Hai Lý duyệt lần
cuối rồi chuyển lại cho nhà in.
(Biên
Hòa, Tháng 12 năm 2014 – Kỷ niệm 35 năm Ngày thành lập Hội Văn Nghệ Đồng Nai
22/12/1979 – 22/12/2014).
Nhà
thơ Xuân Bảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét