Trang

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015

145.LỜI TRẦN TÌNH CỦA CHỦ BLOG


145. LỜI TRẦN TÌNH CỦA BLOGGER NGUYỄN XUÂN BẢO

Chiều hôm qua 12 tháng 5 năm 2015 tại Hà Nội, có cuộc hội thảo “Phát triển bền vững lưu vực sông  - thách thức và giải pháp” do Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam phối  hợp với Viện Nghiên cứu lập pháp (Quốc hội) và Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN) tổ chức.
Tôi chú ý đến phát biểu của TS Vũ Ngọc Long, Viện trưởng Viện Sinh thái học miền Nam. TS nói: “Theo tôi biết, một người trong sân bay Biên Hòa có xác nhận việc Công ty Toàn Thịnh Phát đã mua đất đá ở đây để đổ xuống lấp sông Đồng Nai tạo mặt bằng phát triển dự án nhà ở. Nếu đây là sự thật thì vô cùng nguy hiểm bởi nó chính là hành vi phát tán chất độc hại. Trong khi đó ngay gần dự án lấp sông này là họng lấy nước sinh hoạt của Nhà máy nước Biên Hòa phục vụ cho 1,5 triệu người. Cách đó chừng 1km cũng là họng lấy nước của Nhà máy nước Hóa An cấp nước sinh hoạt cho gần 10 triệu người ở TP HCM.Hậu quả không thể lường được đối với cộng đồng, bởi dioxin đặc biệt nguy hiểm đối với con người là có thể dẫn đến quái thai, ung thư, bại não…như nhiều người ở nước ta gđã gánh chịu sau chiến tranh”. (Trích nguồn từ báo Thanh Niên số 133 ra ngày thứ tư 13/5/2015, trang 4-Thời sự- bài Cần làm rõ đất đá đổ xuống lấp sông Đồng Nai có nhiễm dioxin hay không).
Tôi và gia đình tôi cùng bà con họ hàng, bè bạn đang sống tại Biên Hòa vô cùng bức xúc trước cái tin này. Như TS Vũ Ngọc Long cảnh báo: Nếu đây là sự thật thì vô cùng nguy hiểm…Cho nên tôi muốn đây không phải là sự thật.                                                   
Tôi có may mắn được dự Trại viết văn viết về Chất độc da cam dioxin và tác phẩm của tôi DI HỌA KHÔN LƯỜNG đã được VAVA Đồng Nai tổ chức xuất bản thành sách cùng với một số văn nghệ sĩ khác, với tựa đề là NỖI ĐAU CÒN LẠI (Nhà Xuất bản Đồng Nai ấn hành, in xong nộp lưu chiểu quý III- 2011)
          Tôi cho đăng lại bài viết này để mọi người thấy rõ tác hại của chất độc da cam dioxin.


DI HỌA KHÔN LƯỜNG

Ghi chép của Xuân Bảo

Khi tôi viết những dòng này, cuộc chiến đã qua đi 36 năm trời, nhưng hậu quả của chất độc hóa học đối với con người và môi trường Việt Nam còn rất nặng nề, tiếp tục tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội và phát triển kinh tế. Cuộc chiến này đã có 3 triệu nạn nhân bị nhiễm trực tiếp, trong đó có 1 triệu cán bộ, chiến sĩ phục vụ ở chiến trường, gây ảnh hưởng cả đến thế hệ thứ hai, thứ ba. Ước tính trẻ em bị dị tật do nguyên nhân chất da cam/dioxin chiếm khoảng 1% dân số!
Di họa chiến tranh hoá học do Mỹ gây ra trên đất nước ta là to lớn khôn lường.

NGƯỜI MANG HUY HIỆU VAVA

Đó là chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, tỉnh Đồng Nai. Chữ VAVA là 4 chữ cái đầu các từ tiếng Anh: Việt Nam Association of Victims of Agent Orange/Dioxin. Chị là một phụ nữ đã ngoài ngũ tuần, nhưng vẫn còn tươi tắn với nụ cười luôn nở trên môi. Chị là người đã đến với các gia đình nạn nhân chất độc da cam trong hầu hết các địa phương tỉnh Đồng Nai và rất được các nạn nhân quý mến. Bằng tình thường đồng loại cao cả, chị không nề hà vất vả nhọc nhằn đến với các nạn nhân vùng xa vùng sâu. Trong kết quả khiêm nhường cả tỉnh hiện đã nuôi dưỡng trợ cấp được 192 cháu nạn nhân là công lao của một tập thể rất nhỏ bé: Cơ quan Hội chỉ có 04 người. Đó là Ông Võ Minh Quang, chủ tịch Hội. Ông đã từng giữ chức vụ: Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo, Giám đốc Sở Lao động Thương binh Xã hội, đã về hưu. Đó là chị Ngọc Hạnh, đã từng là giáo viên, là cán bộ tổ chức chính quyền, nay cũng đã về hưu. Đó là các cháu Lê Kim Nguyên, Đào Thị Ngọc Yến, nhân viên văn phòng Hội.
Người chịu khó nhất là chị Ngọc Hạnh. Tôi nghĩ vậy. Không rõ ai laø người đề xuất cái việc huy động tâm trí của văn nghệ sĩ Đồng Nai để tập hợp các tác phẩm viết về cái chất siêu độc da cam/dioxin mà bọn đế quốc Mỹ đã ngang nhiên tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam. Ngày đầu tiên chúng rải chất độc này là ngày 10/8/1961. Và sắp tới đây, cả nước kỷ niệm 50 ngày đau thương này: 10/8/1961 – 10/8/2011. VAVA Đồng Nai xuất bản một cuốn sách, trong đó có các tác phẩm văn học viết về đề tài này.
Hơn 30 văn nghệ sĩ Đồng Nai gồm các chuyên ngành văn thơ, âm nhạc và nhiếp ảnh ñöôïc mời dự một cuộc “trò chuyện” về chaát độc da cam. Chị Ngọc Hạnh đã giới thiệu 25 nạn nhân ở các huyện mà văn nghệ sĩ sẽ đi thực tế để sáng tác. Bản danh sách này được phát cho từng người. Với vài dòng ghi chú ngắn gọn bệnh tật: đầu to, đi bằng đầu gối, chim cánh cụt, chân không có xương … hoặc hoàn cảnh như: 2 người già cô đơn, mồ côi cha mẹ, cha mẹ bỏ nhau, không tự phục vụ, con nuôi không có người thân, sống với mẹ già thường xuyên bị nhốt trong cũi, đi nạng, có con không chồng, mối tình đẹp của bà mẹ kế, hai anh em chết một, làm thơ trên máy vi tính bằng duy nhất chỉ một ngón tay. Có một câu chuyện sẽ làm xúc động lòng người: nuôi con bạn mà hy sinh cả tuổi xuân và hạnh phúc riêng mình. Tôi có dự kiến sẽ viết về người mẹ đồng trinh này.
Một cái trại sáng tác văn học - nghệ thuật mà chỉ có 3 ngày, sáng đi chiều về thì thật là quá ít ỏi về thời gian. Chỉ những tay thợ ảnh là “được mùa”. Đi cùng đoàn văn nghệ sĩ còn có các nhà tài trợ. Trường Đại học Lạc Hồng có một thầy giáo và các em sinh viên. Trung tâm sát hạch lái xe Đồng Nai có các học viên. Riêng Siêu thị Coop Mart Đồng Nai thì đích thân Giám đốc Nguyễn Thị Hồng Khanh đi cùng các nhân viên. Chị Hồng Khanh đã từng là Đại biểu Quốc Hội khóa IX của tỉnh. Các đơn vị tài trợ mang theo gạo, quà và cả xe lăn đến với các nạn nhân. Có những gia đình ở sâu trong rừng, chúng tôi phải đi bộ qua con đường đá sỏi lởn nhởn dưới cái nóng gay gắt 35 – 360C. Mọi người đều phấn chấn và vui vẻ. Vì họ biết rằng đây là chuyến đi tình nghĩa đầy tính nhân đạo.
VAVA Đồng Nai cũng đã xây dựng được một ngôi nhà bán trú, có thể nuôi được 50 cháu, tại thị trấn Định Quán, với tổng kinh phí đầu tư hơn 1 tỷ 200 triệu đồng.

MỘT CHÚT LỊCH SỬ VỀ CHẤT ĐỘC

Từ buổi bình minh nhân loại, con người thoát xác không bò bốn chân nữa mà vươn lên thành vượn người, sinh sống bằng hái lượm trên đôi tay của mình. Các bộ tộc hình thành và đã xuất hiện xung đột bộ tộc. Con người đã tìm ra các độc tố tự nhiên trong động vật và thực vật tẩm vào mũi tên, đầu gươm, ngọn giáo để tiêu diệt lẫn nhau.
Đến thế kỷ 19, các nhà khoa học Pháp đã dùng hóa chất diệt cỏ trong nghề làm vườn. Song, loại hóa chất này có gốc A.sen rất độc cho nên không bao lâu sau đã bị cấm không cho sử dụng.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) ngày 22/4/21915 quân Đức đã sử dụng chất độc chlo làm nhiễm độc và làm chết hàng ngàn quân Anh, Pháp. Tháng 7/1917, quân Đức tiếp tục sử dụng chất độc y.perit trên chiến trường. Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) quân Nhật sử dụng y.perit tại Trung Quốc. Quân Đức sử dụng chất ziclon B đầu độc tù nhân ở các trại tập trung.
Ở Mỹ từ những năm 1937 – 1938, các công ty hóa chất Hoa Kỳ phát hiện ra các chất diệt cỏ có gốc Phenoxy (Phenoxy herbicides) có tác dụng diệt cỏ hiệu quả. Hai chất trong nhóm này được sử dụng là chất 2,4 D (2,4 Dicloro phenoxy acétic acid) và 2, 4, 5 – T (2,4,5 Trichloro phenoxy acétic acid). Đây được coi là những phát minh lớn. Và từ những năm 1940, nhanh chóng được đưa vào sử dụng trong nông nghiệp, lâm nghiệp và nghề làm vườn. Các chất dieät cỏ cùng với các chất diệt sâu làm hại mùa màng đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng xanh ở nhiều nước trên thế giới.
Cũng như nguyên tử, mặt phải của nó là phục vụ dân sinh, phục vụ hòa bình nhưng những tên trùm lái súng đã lợi dụng nó để đưa vào chiến tranh với mục đích hủy diệt. Thảm họa Hirosima và Nakazaki năm 1945 do Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật là một minh chứng. Tìm ra các chất diệt cỏ, diệt sâu bọ là để làm tăng năng suất mùa màng đem lại no ấm cho con người. Song những tên thực dân kiểu mới Hoa Kỳ đã sử dụng nó vào mục đích chiến tranh. Hoa Kỳ lại được sự tiếp tay của Ngô Đình Diệm. Diệm đã trắng trợn tuyên bố: “Việc rải chất khai quang là một phương tiện rất hiệu quả mà các nước chậm phát triển có thể sử dụng để chống lại chiến tranh du kích của Cộng sản. (Diệm trả lời Đài tiếng nói Hoa Kỳ ngày 7/3/1962) Chả thế mà khi tiến hành phun rải Mỹ ngụy đã phải sơn cờ ba que đỏ sọc vàng lên thân máy bay và quân nhân ngồi trên đó phải mặc thường phục?!. Vải thưa sao che nổi mắt thánh.

    CHIẾN DỊCH RANCH HAND

Một binh chủng không lực Hoa Kỳ được mang mật danh “Binh chủng không quân 309” có nhiệm vụ chuyên trách các vụ rải. Chiến dịch sử dụng chất diệt cỏ và làm rụng lá cây được tiến hành với mật danh là “chiến dịch operation Ranch Hand”. Mục đích của chiến dịch được phía Mỹ xác định là: làm trụi lá cây để tạo điều kiện thuận lợi việc quan sát, phát hiện nơi trú quân của đối phương. Ngoài việc rải nó bằng máy bay, chất diệt cỏ còn được sử dụng bằng các phương tiện trên mặt đất (ô tô, tàu thuyền, bình phun tay…) quanh các vị trí đóng quân, trận địa pháo binh của quân đội Mỹ - ngụy và chư hầu; dọc hai bên đường giao thông thủy, bộ để tránh sự tấn công của quân du kích. Mục tiêu thứ hai không kém phần quan trọng là phá hoại mùa màng, nhằm triệt phá nguồn lương thực, thực phẩm của đối phương làm cho họ đói, mất khả năng chiến đấu, rối loạn hàng ngũ. Và cuối cùng là giúp Mỹ - ngụy giành “thắng lợi” quân sự ?! Than ôi, ngày tàn của chúng trước sau rồi cũng sẽ đến.
Tôi còn nhớ những ngày tháng năm 1959 Hà Nội sục sôi biểu tình phản đối bọn xâm lược Mỹ và tay sai bỏ thuốc độc, giết chết hơn 1.000 người tù ở nhà giam Phú Lợi. Nhà thơ Tố Hữu đã phải thét lên:
Đồng bào ơi anh chị em ơi!
Hỡi lương tâm tất cả loài người
Hãy nghe tiếng của nghìn người bị giết
Không sống nữa nhưng không chịu chết
Nghìn hồn oan bay khắp nhân gian
Thù muôn đời, muôn kiếp không tan…
Thực chất chất diệt cỏ, hay còn gọi là chất khai quang không đơn thuần như tên gọi mà là cái chất độc để Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học kéo dài tới 10 năm - một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Trong những năm đầu 1961 – 1964, Mỹ thường dùng hóa chất màu tím (agent purple) và màu xanh lam (agent blue). Hai hóa chất màu hồng (agent pink) và màu xanh lá cây (agent green) cũng được dùng nhưng với quy mô nhỏ hơn. Khoaûng tháng 1/1965, hai công thức mới của chất diệt cỏ được đưa vào chiến trường, đó là chất màu da cam  (agent orange) và chất màu trắng (agent white). Các danh từ Da cam, Tím, Hồng, Xanh, Xanh lá cây… thực ra chỉ là mật danh quân sự và thể hiện bằng một vòng sơn, rộng khoảng 20cm quanh thùng 200 lít chứa hóa chất để dễ nhận biết trong khi vận chuyển và bảo quản.
Chất độc da cam (agent orange/dioxin) là dung dịch màu hồng - nâu hòa tan trong dầu diesel và các dung môi hữu cơ, không hòa tan trong nước; chất độc da cam là hỗn hợp 50 : 50 của hai chất n-butyl ester 2,4D và 2,4,5-T.
Bắt đầu từ chiến dịch Ranch Hand, quân đội Mỹ đã thực hiện ở chiến trường miền Nam Việt Nam một số lượng hóa chất khổng lồ với kinh phí ban đầu là 12,5 triệu đô la Mỹ lên tới đỉnh điểm là 57,7 triệu đô la. Các công ty cung cấp hóa chất diệt cỏ gồm Dow chemical Co, Diamond Akali Co, Uniroyal chemical Co, Thompson Co , Hercules Co, Monanto Co, Ansul Co và Thompson, Hayward Co. Đây là 8 công ty lúc đầu, sau này con số công ty cung cấp cho chiến tranh hóa học ở Việt Nam lên tới con số 37.
Cho tới khi thế giới và cả nhân dân Mỹ lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh hóa học tàn bạo vô nhân đạo này của Mỹ thì quân đội Mỹ đã thực hiện 19.905 phi vụ (gồm các loại máy bay UC123, trực thăng H34, máy bay C47, C123…) rải chất độc trên 25.585 thôn, bản với diện tích 2.631.297 ha, trong đó có 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần. Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, trên 56% diện tích tự nhiên bị phun rải. Khoảng 86% lượng chất độc đã được rải lên các vùng rừng rậm, 14% còn lại được dùng để phá hủy ruộng vườn, hoa màu mà chủ yếu là đồng lúa và nương rẫy ở các vùng đồi núi. Diện tích rừng ngập mặn bị ảnh hưởng chất độc là 150 ngàn ha, nặng nề nhất là rừng ngập mặn Cà Mau.
Tổng lượng chất độc hóa học mà quân đội Mỹ đã sử dụng khoảng 100 ngàn tấn các chất độc hóa học khác nhau. Trong đó có 9.000 tấn chất độc CS và 95.000 tấn các chất diệt cỏ CDC. Trong 95.000 tấn đó có tới 65.700 tấn có chứa dioxin với khối lượng lớn từ 366 đến 650 kg, tương đương 44 triệu lít.
Đông Nam Bộ là địa phương có rừng rậm Mã Đà chiến khu Đ, có sân bay Biên Hòa là nơi hứng chịu nhiều chất độc da cam nhất. Chúng rải để khai quang trụi lá cây rừng, bay đi rải chất độc về còn lại bao nhiêu chúng trút cả xuống đây. Những kho chứa, những bồn chứa rò rỉ, thùng bẹp chúng bỏ bừa bãi trong sân bay. Dư lượng tồn lưu trên khu vực này là rất lớn!

    GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG

Đó là cái chết của đại úy phi công Elmo Zumwalt III, con của trung tướng đô đốc hải quân Hoa Kỳ, người trực tiếp ra lệnh cho quân đội Mỹ rải chất diệt cỏ, khai quang lên chiến trường miền Nam Việt Nam. Elmo đã bị ung thư do nhiễm dioxin. Đó là chất da cam này đã được quân đội Hoa Kỳ “thử nghiệm” tại căn cứ quân sự Mỹ đóng ở Canadian Forces Base Gagetown Brunswick - Canada. Theo Bộ Quốc Phòng Canada, đã có 200 ngàn nhân viên quân sự đóng quân trong căn cứ CFB từ 1956 – 1984. Số nhân viên này bao gồm binh sĩ của Anh, Seotland và Mỹ đã tiến hành thử nghiệm họ cũng bị phơi nhiễm chất độc dioxin. Không những chỉ những người lính bị tác động đến sức khoẻ. Nó là bi kịch của những người vợ và con cái họ đã chết hoặc đau ốm, bệnh tật. Nó cũng là bi kịch của những thường dân làm thuê trong vùng và vùng phụ cận căn cứ. Đó là những người lính của quân đội chư hầu của Mỹ cùng tham chiến ở miền Nam Việt Nam như Hàn Quốc, New Ziland, Australia…
Ta hãy nghe những lời phát biểu của họ: “…Do bị bưng bít thông tin, đa số nhân dân Hàn Quốc đều không biết về vấn đề này. Một số lớn cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam bị đau ốm mà không rõ nguyên nhân và đã chết ở độ tuổi 40. Họ không hiểu vì sao họ phải chết. Ngay cả các bác sĩ cũng không giải thích được. Nhiều người đã tự vẫn vì không lối thoát và không muốn ảnh hưởng đến gia đình…”/ “…Kết quả là tổ chức đại diện cho các bệnh nhân chất da cam, Hàn quốc đã được chính thức thành lập…”/ “Trong tương lai, bệnh nhân mà chính phủ phải trợ cấp do chất da cam có thể lên tới 100.000 người. Và theo điều tra của Hội này, số cựu chiến binh đã chết bởi chất da cam ước tính vào khoảng 2 vạn người…”. (Trích phát biểu của Trưởng đoàn Cựu chiến binh Hàn Quốc đã tham chiến tại miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Quốc tế nạn nhân da cam/dioxin).
Và đây là tiếng nói của một nguyên sĩ quan quân ngụy quyền Sài Gòn ông Mai Giảng Vũ người đã trực tiếp rải chất độc hoá học trong thời gian chiến tranh, cũng tại Hội nghị Quốc tế nạn nhân da cam/dioxin. “Trong khi rải các hoá chất độc hại mà tôi không biết, tưởng thuốc diệt cỏ như các nhà nông họ làm, không ngờ lại nó ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, bao nhiêu thế hệ. Sau chiến tranh 30 năm các nạn nhân ở những vùng bị rãi hoá chất đó vẫn còn các cháu ra đời nhiễm phải bệnh chết  người đó. Nếu tôi biết nó nguy hiểm tôi sẽ không làm, 3 đứa con tôi đâu chết oan uổng thế”. Ba con ông đều bị nhiễm dioxin mà chết.
Còn ở Mỹ thì sao? Ngay từ 1984, các cựu quân nhân bị tác hại do chất độc này gây ra đã khởi kiện 7 Công ty sản xuất chất độc da cam/dioxin, trong đó có Dow Chemical Co và Monsanto Co với số tiền bồi thường là 180 triêu USD.
Một làn sóng phản đối  tràn khắp nước Mỹ, những quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ cũng lên tiếng đòi  chấm dứt cuộc chiến tranh hoá học vô nhân đạo và bẩn thỉu này.

CHIẾN TRANH QUA ĐI - NỖI ĐAU CÒN LẠI

Ngày 10/01/2004 thành lập VAVA Việt Nam và Hội đã tiến hành khởi kiện  các công ty hoá chất Mỹ đã sản xuất và cung cấp chất độc hoá học cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, đòi bồi thường tất cả những thiệt hại. Vụ kiện phải dừng lại ở Toà phúc thẩm Hoa Kỳ??
Chúng ta những người Việt Nam đang sống trên quê hương mình đều nhận thức được rằng: Kể từ ngày 10/08/1961 đến ngày 31/10/1971, trong 10 năm 2 tháng, quân đội Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hoá học, hay nói một cách chính xác hơn là một cuộc chiến tranh sinh thái có qui mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nó tác hại nghiêm trọng đối với môi trường và sức khoẻ con người hiện tại và cả mai sau.
Nhìn vào bản đồ Việt Nam, chúng ta đau xót thấy những vùng bị chất độc da cam tàn phá nặng nề. Rừng, núi, trảng, dòng sông, bờ biển… ở đây như những vết bỏng trên thân mình Tổ quốc ta. Trước năm 1960 độ che phủ rừng tự nhiên từ nam vĩ tuyến 17 trở vào là 60 – 70%. Tài nguyên rừng rất phong phú và đa dạng. Rừng có trữ lượng gỗ khoảng 200 – 300 m3/ha có các cây gỗ quý đường kính 1 đến 2 mét, cao từ 30 – 40 mét. Dưới tán rừng là nơi sinh sống của nhiều động vật quý, nay vì chất da cam mà có giống bị tiêu diệt hoàn toàn.
Chất độc hoá học đã tàn phá huỷ diệt khoảng 1,7 triệu ha rừng. Hệ quả của nó là trên đầu nguồn các con sông lớn như Bến Hải (Hiền Lương), sông Hương, sông Hàn, sông Ba, sông Đồng Nai, Vàm Cỏ…gió bão, lũ lụt và nhiều yếu tố tự nhiên khác làm cho chất độc hoá học truyền lan gần như toàn bộ diện tích đất đai miền Nam Việt Nam. Toàn bộ thảm thực vật bị huỷ diệt làm cho chất  lượng đất biến đổi, bề mặt đất bị xói mòn rửa trôi, cấu trúc thổ nhưỡng bị thay đổi ngày càng nghèo kiệt. Chất phát quang đi đến đâu thì mặt đất chỉ còn lại sỏi đá khô cằn. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tôi có đi thăm nhiều nơi. Nơi nào bị rải chất độc thì nơi đó có rất nhiều cỏ đuôi chồn mà người dân thường gọi là cỏ Mỹ (tên khoa học Pennisetum polystachym) và các loại cỏ tranh, lau, sậy…đua nhau mọc. Còn các loại cây khác thì không sao mọc nổi. Chất độc da cam/dioxin ngấm vào lòng đất còn để lại hậu quả cho cả trăm năm sau và đối với con người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cuộc chiến tranh hoá học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã làm cho hơn 4,8 triệu người bị phơi nhiễm, trong đó có 3 triệu người là nạn nhân. Hàng vạn người đã chết. Hàng triệu người mắc các chứng bệnh: bệnh ung thư gan nguyên phát, ung thư tổ chức phần mềm, Ulymphô ác tính, bệnh Hodgkin, ung thư đường hô hấp (thanh quản, khí phế quản, phổi), ung thư tiền liệt tuyến. Và các bệnh rối loạn chuyển hoá, lipit có tai biến mạch máu não, bệnh động mạch vành; gluxit có đái tháo đường. Bệnh thần kinh có ngoại vi cấp và mãn, da u tuỷ (multiple myeloma). Bệnh ngoài da thì có xạm da, nhiễm porphyrin da chậm và các bệnh thường gặp ở phụ nữ: sẩy thai, đẻ non, con chết lưu (tử tại phúc trung), chửa trứng, ung thư màng nuôi…Các loại dị tật bẩm sinh, quái thai xuất hiện trên nhiều người và cũng có thể xẩy ra ở thế hệ thứ hai (cháu).
Tôi nghĩ rằng để khắc phục hậu quả cuộc chiến tranh hoá học này, 2 vấn đề cơ bản được đặt ra: tẩy độc môi trường và chăm lo sức khoẻ nạn nhân da cam/dioxin. Chúng ta hãy lắng nghe từ phía kẻ thù, bên kia chiến tuyến: “…Hôm nay là một ngày rất quan trọng với nước Mỹ để tiến thêm một bước làm giảm nhẹ những nỗi đau thương mà đất nước chúng ta đã vô tình gây nên cho những con người của mình khi buộc họ tiếp xúc với chất (độc) da cam ở Việt Nam. Hơn hai thập kỷ qua các cựu chiến binh đã than phiền rằng việc tiếp xúc với chất (độc) da cam trước khi họ rời chiến trường đang giết dần, giết mòn và thậm chí tổn thương đến con cái của họ…”.
“…Cuối cùng, tôi cũng rất cám ơn người bạn cũ lâu năm của tôi – Đô đốc Zumwalt - người đã đấu tranh xuất sắc nhất cho các cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam…Không ai có thể làm tốt hơn ông trong việc làm sáng tỏ tác hại của chất (độc) da cam. Không ai biết rõ hơn và nhận trách nhiệm cá nhân (nhấn mạnh của tác giả XB) tốt hơn ông về những hành động của chúng ta…”
Như thế là phía Mỹ, như lời cựu tổng thống Bill Clinton phát biểu tại cuộc họp báo ở Nhà Trắng khi ông đương nhiệm công bố thêm những loại bệnh do chất độc da cam/dioxin gây nên (ngày 28.5.1996). Ông ta cũng có nhắc đến một người bạn cũ, đô đốc hải quân Zumwalt, người đã trực tiếp ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ rãi chất độc da cam lên Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Zumwalt đã sám hối vì trong cuộc chiến tranh hoá học này, người con thứ 3 của đô đốc, đại úy Elmo Zumwalt đã phải trả giá khi anh ta ngày ngày ngược xuôi trên các dòng sông, trên các con kênh để kiểm tra việc rải chất độc da cam. Anh ta đã bơi lội, tắm táp, ăn uống trên những dòng nước này và kết cục là căn bệnh ung thư do nhiễm chất độc da cam/dioxin đã cướp mất mạng sống. Oái ăm thay! Rõ ràng không ai biết rõ hơn và nhận trách nhiệm tốt hơn Zumwalt. Và cũng đau đớn như bao người bố khác: mất con vì chất độc da cam /dioxin.

TỔNG THỐNG BIẾT TOÀ ÁN LÀM NGƠ

Và toà án Liên bang Mỹ (Quận Tây Brooklyn New York). Cấp sơ thẩm đã tiếp nhận đơn của VAVA Việt Nam cùng một số nạn nhân khởi kiện 37 công ty Mỹ sản xuất hoá chất độc hại ngày 30.1.2004. Một năm sau, ngày 28.2.2005 tranh tụng miệng tại Toà sơ thẩm. Mười ngày sau đó, thẩm phán Jack Weinstein ra phán quyết bác bỏ đơn kiện với lý do ngây ngô rằng: “không thừa nhận chất da cam là chất độc hại đối với con người”. Phía ta, tiếp tục kháng cáo lên Toà phúc thẩm New York. Ngày 22.2.2008 Toà phúc thẩm lưu động số 2 New York đã đồng ý với phán quyết của Toà án sơ thẩm (10.3.2005) rằng; “việc sử dụng chất độc của Mỹ không cố ý gây thiệt hại cho con người Việt Nam”.
Và, quan trọng hơn, không gì vô lý hơn là ngày 2.3.2009 giờ New York, giờ Hà Nội là ngày 3.3.2009 Toà án Tối cao Hoa Kỳ công bố Quyết định (được thông qua ngày 27.2.2009 bác bỏ đơn thỉnh cầu của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam cùng 2 đơn khác của các cựu chiến binh Mỹ với các công ty hoá chất phải bồi thường thiệt hại gây ra đối với sức khỏe bản thân và gia đình họ.
Nhân dân Việt Nam vô cùng phẫn nộ và hết sức bất bình trước Quyết định sai lầm và bất công của Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Quyết định phi lý này được đưa ra trong bối cảnh quan hệ Việt Nam có nhiều cố gắng để góp phần khắc phục hậu quả của chất độc da cam/dioxin ở Việt Nam.
Dù không được kiện trước Toà án liên bang Hoa Kỳ, nhưng vụ kiện đã thu được những thắng lợi có ý nghĩa tích cực, đáng khích lệ. Nổi bật là ở trong nước, vụ kiện đã thúc đẩy phong trào đòi công lý, tạo ra sự thông cảm sâu sắc và giúp đỡ mạnh mẽ các nạn nhân nhiễm chất độc da cam/dioxin.
Với thế giới, vụ kiện nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân các nước. Vụ kiện phơi bày ra trước nhân loại mọi thủ đoạn phía Hoa Kỳ đã che giấu hơn 30 năm nay của các công ty hoá chất Mỹ. Nó đã trở thành một phong trào rộng lớn mang tính quốc tế và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Cuộc đấu tranh trực diện về mặt pháp lý tại Toà án Mỹ, kết hợp với cuộc đấu tranh ngoài toà, được sự ủng hộ của các bạn Mỹ. Vụ kiện này, chúng ta đã thắng trên mặt trận chính trị và nhân văn.
Rõ ràng, Toà án Hoa Kỳ đã chà đạp lên công lý, bất chấp đạo lý. Đây là một phán quyết phi lý và sai lầm. Người Mỹ thường lớn tiếng dạy thiên hạ về quyền con người, nhưng ở đây họ đã bỏ lỡ cơ hội thể hiện tôn trọng nhân quyền. Đây là một phán quyết đáng hổ thẹn!.
Những đau khổ và di họa chất độc da cam/dioxin gây ra sẽ tiếp tục làm rớm máu trái tim nhân loại.
Cuộc chiến đấu để đi đến thắng lợi của vụ kiện vẫn tiếp tục.

                                                  ***
Để kết thúc bài ghi chép này tôi xin trích ra đây mấy câu thơ của nữ sĩ Ngô Thanh Xuân, trong bài thơ Em sợ lắm, viết thay lời nạn nhân chất độc da cam/dioxin Phạm Văn Bảy, ở xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ.
                                “…Em sợ lắm khi màn đêm buông xuống
                           Tiếng dế đầu hè như khóc, như than
                          Ai oán, não nề điệp khúc da cam
                          Cuộc chiến lùi xa, nỗi đau còn mãi.”

                                                Biên Hoà, 19.4 – 14.5.2011

Xuân Bảo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét