147. Hai bài thơ viết về Thiền Phái Trúc Lâm
Nhân ngày Phật đản 15 tháng 4 Ất Mùi (nhằm ngày 1/6/2015)
.
VỊ SƠ TỔ CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ
Xuân năm nay gia đình chúng tôi có dịp hành hương về Yên Tử - nơi cách đây hơn 700 năm - vua Trần Nhân Tông nhường ngôi báu lại cho con là Trần Anh Tông để chuyên tâm nghiên cứu về Phật học. Ngài chọn vùng núi Yên Tử để tu hành.
Nhân ngày Lễ Phật đản tôi viết bài này để tỏ lòng ngưỡng mộ một vị vua anh minh của đất nước.
Trần Nhân Tông tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu ngọ nhằm ngày 7 tháng 12 năm 1258. là con trưởng của vua Trần Thánh Tông, tên húy là Hoảng, mẹ là Hoàng thái hậu Nguyên Thánh. Ngài là cháu đích tôn của vua Trần Thái Tôn, tên húy là Cảnh.
Năm 1274, Ngài 16 tuổi được lập làm Đông cung thái tử. Cũng trong năm đó Ngài kết duyên cùng công chúa Quyên Thánh, trưởng nữ của Hưng Đạo đại vương. Năm 21 tuổi (1279) Ngài được vua cha truyền ngôi.
Trước họa xâm lăng của quân Nguyên – Mông, năm 1282 vị vua 24 tuổi này đã chủ trì Hội nghị Bình Than và sau đó 2 năm năm 1284 Ngài chủ trì Hội nghị Diên Hồng.
Chiến thắng Nguyên – Mông lần thứ nhất vào năm 1285 và chiến thắng Nguyên – Mông lần thứ hai vào năm 1288 là do toàn dân nhất trí một lòng diệt giặc bảo vệ non sông nước Đại Việt mà Ngài là vị thống soái. Sau chiến thắng Ngài cùng với vua cha làm Lễ Hiến phù tại phủ Long Hưng (Thái Bình) có dẫn giải một số tù binh và những tên đầu sỏ Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc dâng mừng Đại thắng. Trước lăng mộ Trần Thái Tông, vua Trần Nhân Tông đã đọc hai câu thơ cảm khái:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng)
Năm 1301, vua Trần Nhân Tông làm cuộc viễn du sang Chiêm quốc. Vua hứa gả con gái rượu của mình cho vua Chiêm. Chế Mân dâng Đại Việt hai châu Ô và Rý làm sính lễ cầu hôn. Về Chiêm Thành, Huyền Trân sinh được một hoàng tử. 11 tháng sau thì vua Chế Mân tịch và Huyền Trân đáng phải lên giàn hỏa nhưng đã được Trần Khắc Chung và Đặng Văn sang cứu về. Tôi có bài thơ Giọt lệ Huyền Trân viết hồi năm 2007 nhân kỷ niệm 700 năm Huyền Trân về làm hoàng hậu Chiêm Thành 1307 -2007.
Vua Trần Nhân Tông là một ông vua văn võ kiêm toàn. Ngài đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng. Rất tiếc nhiều thi tập như Việt âm thi tập, Trần Nhân Tôn thi tập, Đại hương Hải Ân thi tập,Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ ngữ, Trung Hưng thực lục, Truyền Đăng lục…phần lớn thất truyền. Thơ Trần Nhân Tông đạm bạc có hơi ấm của cuộc đời. Những bài tả mùa xuân, tả trăng, tả cánh đồng, tả chiều hôm…chứng tỏ là Trần Nhân Tông có một tâm hồn nghệ sĩ, thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên và nhìn vẻ đẹp đó dưới con mắt của người nhuốm tư tưởng thiền. Đặc biệt Ngài có một bài phú có tên là Cư trần lạc đạo phú. Đây là tác phẩm chữ Nôm đầu tiên của nước ta. Bài phú có 10 hội, mỗi hội số chữ dài ngắn khác nhau. Hội thứ nhất gieo vần bằng, hội thứ hai gieo vần trắc. Cứ thế các vần thay nhau bằng trắc cho đến hết 10 hội. Phần kết có bài kệ tứ tuyệt. Cư trần lạc đạo phú ca tụng cảnh tu hành ở nơi núi non, lời cổ kính nhưng rất đời và rất thực. Và bài phú này là chủ thuyết của Thiền Phái Trúc Lâm.
Trần Nhân Tông là vị vua sáng lập ra dòng Việt Phật Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài là vị vua Phật đầu tiên ở đất nước Đại Việt với tôn hiệu “Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật”.
Theo sử cũ, Ngài xá báo an tường, thâu thần thị tịch ngày mùng 1 tháng 11 Mậu Thân (1308), thọ thế 51 năm. Trước khi nhập diệt, Ngài đã để lại bài kệ Pháp Thân Thường Trụ: “Nhất thiết pháp bất sanh. Nhất thiết pháp bất diệt. Nhược năng như thị giải. Chư Phật thường tại tiền. Hà khứ lai chi hữu”. “(Tất cả pháp không sanh. Tất cả pháp không diệt. Ai hiểu được như vầy. Thì chư Phật hiện tiền. Nào có đến có đi)”.
***
Tôi đã làm hai bài thơ theo thể Đường luật để bái vọng lên Ngài trong dịp Lễ Phật đản năm nay
.
Bài thứ nhất:
MINH QUÂN – THÁNH CHÚA
Tìm về Yên Tử chốn quan san
Lập phái Trúc Lâm giữa đại ngàn
Trước diệt Nguyên Mông yên xã tắc
Sau xây Đại Việt vững âu vàng
Cửu trùng phổ độ rời ngôi báu
Vạn tuế chuyên tâm hướng Niết bàn
Điều ngự giác hoàng ngời chánh pháp
“Cư trần lạc đạo” sáng trời nam*
*Cư trần lạc đạo phú của vua Trần Nhân Tông,chủ thuyết của phái Thiền môn Trúc Lâm.
Bài thứ hai:
VỊNH CHÙA BA VÀNG, BẢO QUANG TỰ
Hai sườn xanh ngắt cánh rừng thông
Lưng dựa thế núi phía trước sông
“Ánh sáng quý” ngời ngôi cổ tự *
Bình minh lên rạng mặt trời hồng
Nơi đây hạ đoạn bình phong thủy
Kìa chốn thượng môn mạch giếng nguồn
Hổ phục oai linh, thiêng đuốc tuệ
Rồng chầu hùng vĩ hướng Chùa Đồng
*Ánh sáng quý tức Bảo Quang Tự
Nhà thơ Xuân Bảo
Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015
Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2015
146. KHÚC SÁM HỐI
146. KHÚC SÁM HỐI
Lời nói trước:
Tôi xin trích một đoạn nguyên văn bài
báo Lấp sông Đồng Nai làm dự án. NÓI “KẾT LUẬN NÀO CHẲNG GIỐNG NHAU” LÀ NGỤY BIỆN. (Báo Thanh Niên số 135 ra ngày 15/5/2015). Ông
Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Phước, viện trưởng Viện Môi trường và Tài nghuyên TP.
HCM đã nói câu này,như sau: “Dư
luận là ai? Toàn mấy kẻ phá hoại thôi”.
Thưa ngài giáo
sư tiến sĩ, tôi nhà thơ Xuân Bảo là một trong những người mà ông cho “là mấy
kẻ phá hoại thôi”. Vì tôi và gia đình, bè bạn, cùng cộng đồng dân cư phường
Quyết Thắng, sống ở đoạn sông bị lấp,đang rất bức xúc việc lấp sông Đồng Nai
làm dự án. Chúng tôi là Dư luận xã hội
đấy ông Phước ạ! Tôi nghĩ ông đã có học hàm học vị giáo sư tiến sĩ mà ăn nói
thiếu văn hóa quá.! Mong ông có
lời xin lỗi nhé.
Tôi
cho đăng tiếp bài ghi chép dưới đây để mọi người thấy rõ tác hại của chất
dioxin, không riêng người Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề mà cả những người đi
rải chất độc nguy hiểm này và những nước đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến
tranh ở Việt Nam cũng bị vạ lây.Ngay đứa con thân yêu của đô đốc Rumwalt cũng
chết vì chất da cam này.(Tác phẩm đã được in sách
NỖI ĐAU CÒN LẠI)
KHÚC SÁM HỐI
Xuân Bảo

Ông
có hai người con trai. Con đầu là trung úy Elmo Russell Zumwalt III đã chết ở
tuổi 42 vì nhiễm chất độc da cam/dioxin do chính cha mình ra lệnh rải xuống
chiến trường Việt Nam.
Và
người con thứ hai là trung tá Thủy quân lục chiến James G. Zumwalt, người may
mắn thoát chết trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu này. Sau này ông ta trở thành
nhà báo cựu chiến binh và là chủ tịch công ty Tư vấn An ninh mang tên cha mình
: Công ty Admiral Zumwalt &Consultants.Inc
Ngoài Việt Nam, James còn tham gia cuộc can thiệp quân sự của Mỹ vào Panama năm 1989 và chiến dịch Bão táp sa mạc tại Vùng Vinh, Iraq năm 1990-1991. Sau chặng đường binh nghiệp, với vốn sống chiến tranh, ông trở thành một diễn giả, tác giả của hàng loạt bài viết về quân sự và chính sách đối ngoại trên các báo và tạp chí nổi tiếng của Mỹ như USA Today, The Washington Post, The New York Times, The Washington Times…Sau những chuyến trở lại Việt Nam, ông đã viết cuốn sách Chân trần, Chí thép. Cuốn sách xuất bản ở Mỹ ngày 26-4-2010 và đã gây tiếng vang lớn và thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận Mỹ. Cuốn sách đã được dịch ra Việt ngữ, được thượng tướng Phan Trung Kiên,Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đề tựa.
Ngoài Việt Nam, James còn tham gia cuộc can thiệp quân sự của Mỹ vào Panama năm 1989 và chiến dịch Bão táp sa mạc tại Vùng Vinh, Iraq năm 1990-1991. Sau chặng đường binh nghiệp, với vốn sống chiến tranh, ông trở thành một diễn giả, tác giả của hàng loạt bài viết về quân sự và chính sách đối ngoại trên các báo và tạp chí nổi tiếng của Mỹ như USA Today, The Washington Post, The New York Times, The Washington Times…Sau những chuyến trở lại Việt Nam, ông đã viết cuốn sách Chân trần, Chí thép. Cuốn sách xuất bản ở Mỹ ngày 26-4-2010 và đã gây tiếng vang lớn và thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận Mỹ. Cuốn sách đã được dịch ra Việt ngữ, được thượng tướng Phan Trung Kiên,Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đề tựa.
***

James viết :
“…
Gia đình tôi có một truyền thống binh nghiệp đáng tự hào, hầu như mỗi cuộc
chiến mà nước Mỹ tham gia, kể từ Cách mạng Mỹ đến nay đều có it nhất một người
mang họ Zumwalt phục vụ. Bạn bè thân thiết không hề ngạc nhiên
khi biết rằng tất cả các thành viên nam trong gia đình trực hệ của
tôi đều xung phong phục vụ tại Việt Nam.
Từ
năm 1968 đến 1970, người cha đã quá cố của tôi, Elmo R. Zumwalt Jr, là phó đô đốc
chỉ huy Lực lượng Hải quân tại Việt Nam, trong vai
trò Comnavforv ( Commanda Naval Forces VietNam – Tư lệnh Hải
lực tại Việt Nam ), ông chỉ huy tất cả lực lượng duyên hải và đường sông của
Hải quân Mỹ tham chiến tại Nam Việt Nam.
Trong
số những chiến binh đường sông dũng cảm của Mỹ hoạt động trong lực lượng “Hải
quân nước nâu” ( tức hệ thống đường sông nội địa ở Việt Nam ) có người anh trai
của tôi, trung úy Hải quân Elmo. R. Zumwalt III, từng đuợc biên chế về một vị
trí khá nhàn trên khu trục hạm ở Norfolk, Virginia. Elmo tự cảm thấy có bổn
phận phải phục vụ ở chiến trường Việt Nam…
Elmo
đã đến Việt Nam để đảm nhận vị trí chỉ huy duy nhất trong sự nghiệp hải quân
ngắn ngủi – thuyền trưởng một tàu tuần tra đường sông, thường gọi là
“tàu nhanh”- PCF 35 ( viết tắt của Patrol Craft Fast ) là tư lệnh tàu cao tốc.
Elmo nằm dưới quyền chỉ huy của một guồng máy do cha tôi đứng đầu. Cha tôi là
một người đàn ông đầy đam mê và thông tuệ. Tôi không tin có lúc nào đó ông đưa
ra một quyết định quân sự mà không cân nhắc những tác hại của nó đối với người
lính. Nhưng trong giai đoạn mới nắm quyền chỉ huy tại Việt Nam, có khi ông ở
vào hoàn cảnh không thấy hết được tác động từ quyết định của mình,dù quyết định
ấy đã giúp đạt được mục tiêu giảm thương vong cho Hải quân Mỹ.Ông
không thể ngờ rằng nó cũng chính là nguyên nhân cướp đi mạng sống của người con
trai cùng tên vói ông!
Các
nhà sản xuất chất diệt cỏ cam đoan với chính phủ Mỹ rằng sản phẩm của họ không
gây hại cho con người. Tin vào lời cam đoan đó, cha tôi đã ra lệnh rải cái chất
độc đó xuống dọc các bờ sông nơi quân của ông thường tuần tra bằng tàu thủy.
Việc
làm này đã cho phép hàng chục ngàn lính thủy, vốn đối mặt với nguy cơ thương
vong cao có thể trở về nhà. Nhưng phải rất nhiều năm sau thì những người này
mới phát hiện ra rằng cuộc chiến sinh tồn của họ còn lâu mới kết thúc. Họ đã
trở về nhà với quả bom hóa học nổ chậm trong người. Chất diệt cỏ mà họ bị phơi
nhiễm, chất độc cam, trái với cam đoan của các nhà sản xuất, là chất gây ung
thư. ( Mười sáu năm sau đó, cha tôi mới biết được rằng các hãng sản xuất chẳng
những sai lầm trong việc khẳng định tính vô hại của chất này đối với người, mà
trong vài trường hợp họ còn nói khác đi so với những gì họ biết)…
Bị
phơi nhiễm nặng chất độc cam trong thời gian phục vụ tại Việt Nam, nhiều cựu
chiến binh đã chịu đựng hậu quả khủng khiếp về sức khỏe với quả bom nổ chậm
phát nổ sau quãng thời gian dài ngắn khác nhau. Đối với vài người vụ nổ đến rất
sớm, khi những đứa con họ sinh ra sau thời gian phơi nhiễm gặp nhiều vấn đề về
sức khỏe. Đối với số khác, thời gian phát nổ đến chậm hơn, có khi phải 10,15,
thậm chí 20 năm sau, khi nhiều loại ung thư mà nay Bộ Cựu chiến binh Mỹ
đã thừa nhận là có liên quan tới chất độc cam tấn công họ. Anh trai
tôi nằm trong số những nạn nhân bị ung thư liên quan tới chất độc cam.
Cha
tôi đã giành tất cả thời gian giúp Elmo chống chọi với căn bệnh ung thư.Cùng
nhau, họ tìm kiếm tất cả các giải pháp có thể. Ban đầu , họ tập
trung vào các phương pháp y khoa để điều trị. Về cuối họ tìm mọi cách để làm
chậm sự phát triển chết chóc của căn bệnh. Sự gắn bó của họ là vô cùng mật
thiết. Có thể nói tình cảm cha con giữa hai người la không ai có thể sánh được.
Tình cảm ấy đã được diễn tả khá đầy đủ trong lá thư mà Elmo viết cho
cha tôi không bao lâu trước khi anh qua đời. Thư anh viết : Ba thân
yêu, cả ở Việt Nam lẫn đối với căn bệnh ung thư của con, chúng ta đã cùng nhau
chiến đấu và cùng thất bại. Nhưng, chúng ta luôn biết rằng ngay khi lâm vào một
trận chiến tuyệt vọng, tình yêu của chúng ta cũng không cho phép thối chí, bất
chấp nguy cơ lớn nhường nào, chúng ta cũng không từ bỏ…Con yêu ba vô
ngần. Con muốn được chiến đấu bên cạnh ba biết bao ! Ba luôn tạo ra sự khác
biệt. Ba đã làm cho cuộc chiến cuối cùng của con, trên hành trình
tới cõi chết trở nên nhẹ nhàng và nhân văn hơn. Con yêu ba!...
Vào ngày 13 tháng 8 năm 1988, cuộc chiến cuối cùng mà họ sát cánh bên nhau đã kết thúc. Sau 5 năm dũng cảm chiến đấu với bệnh tật, Elmo đã qua đời ở độ tuổi 42 ! Cũng như cuộc chiến ở Việt Nam, anh

Sau
cái chết của Elmo, cha tôi bắt đầu một sự nghiệp mới-thuyết phục chính phủ Mỹ
thừa nhận những ảnh hưởng của chất độc cam lên sức khỏe của con người và bồi
thường cho các cựu chiến binh Việt Nam bị ảnh hưởng. Một phần nào đó, cái chết
của Elmo thúc đẩy cha tôi tham gia cuộc đấu tranh, nhưng mặt khác việc tham gia
của ông cũng xuất phát từ niềm tin thường trực nơi ông, rằng trách nhiệm của
các tư lệnh chiến trường đối với binh sĩ không kết thúc khi cuộc chiến đã chấm
dứt”…
***
Tháng
9 năm 1994, Đô đốc Zumwalt trở lại Việt Nam. Đây là vị tư lệnh cấp cao
nhất thời chiến tranh quay lại Việt Nam. Chuyến đi này có con trai
thứ hai tháp tùng- trung tá James G. Zumwalt. Mục đích chuyến đi là để tìm
kiếm sự hợp tác từ Hà Nội để triển khai một cuộc nghiên cứu chung về
chất độc cam/dioxin.
Một
bi kịch lớn đã xẩy ra trong một gia đình có truyền thống binh nghiệp. Nhưng bi
kịch lớn hơn là cả hai dân tộc chúng ta Việt Nam và Hoa Kỳ, cách nhau hai bờ
đại dương, chẳng có thù hận gì nhau, chẳng có mối hận truyền kiếp nào mà phải
gánh chịu di họa nặng nề, lâu dài đến cả những thế hệ con cháu chúng ta từ một
cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại !
Có
một bài thơ của môt tác giả khuyết danh đề trên một tấm bảng. Bài thơ nằm giữa
đống đổ nát của một ngôi nhà, khi quân Giải phóng tấn công sân bay Tân Sơn
Nhất. Bài thơ có nhan đề là :
Xin
đừng quên
Không
vì danh tiếng hay sự tưởng thưởng
Không
vì địa vị hay phẩm hàm
Không
bị tham vọng dẫn dắt hay mệnh lệnh bắt buộc
Chỉ
đơn giản là bởi quyết tâm phụng sự
Những
người này đã chịu đắng cay
Dã
dám đối mặt với tất cả, và đã
Xin
đừng quên, xin đừng quên
Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015
145.LỜI TRẦN TÌNH CỦA CHỦ BLOG
145. LỜI TRẦN TÌNH CỦA BLOGGER NGUYỄN XUÂN BẢO
Chiều hôm qua 12 tháng 5 năm 2015 tại Hà
Nội, có cuộc hội thảo “Phát triển bền vững lưu vực sông - thách thức và giải pháp” do Liên hiệp
Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam phối
hợp với Viện Nghiên cứu lập pháp (Quốc hội) và Mạng lưới sông ngòi Việt
Nam (VRN) tổ chức.
Tôi chú ý đến phát biểu của TS Vũ Ngọc Long, Viện trưởng Viện
Sinh thái học miền Nam. TS nói: “Theo tôi
biết, một người trong sân bay Biên Hòa có xác nhận việc Công ty Toàn Thịnh Phát
đã mua đất đá ở đây để đổ xuống lấp sông Đồng Nai tạo mặt bằng phát triển dự án
nhà ở. Nếu đây là sự thật thì vô cùng nguy hiểm bởi nó chính là hành vi phát
tán chất độc hại. Trong khi đó ngay gần dự án lấp sông này là họng lấy nước
sinh hoạt của Nhà máy nước Biên Hòa phục vụ cho 1,5 triệu người. Cách đó chừng
1km cũng là họng lấy nước của Nhà máy nước Hóa An cấp nước sinh hoạt cho gần 10
triệu người ở TP HCM.Hậu quả không thể lường được đối với cộng đồng, bởi dioxin
đặc biệt nguy hiểm đối với con người là có thể dẫn đến quái thai, ung thư, bại
não…như nhiều người ở nước ta gđã gánh chịu sau chiến tranh”. (Trích nguồn từ báo Thanh Niên số 133 ra
ngày thứ tư 13/5/2015, trang 4-Thời sự- bài Cần làm rõ đất đá đổ xuống lấp sông
Đồng Nai có nhiễm dioxin hay không).
Tôi và gia đình tôi cùng bà con họ hàng, bè bạn đang sống tại
Biên Hòa vô cùng bức xúc trước cái tin này. Như TS Vũ Ngọc Long cảnh báo: Nếu đây là sự thật thì vô cùng nguy hiểm…Cho
nên tôi muốn đây không phải là sự thật.
Tôi
có may mắn được dự Trại viết văn viết về Chất độc da cam dioxin và tác phẩm của
tôi DI HỌA KHÔN LƯỜNG đã được VAVA Đồng Nai tổ chức xuất bản thành sách cùng với
một số văn nghệ sĩ khác, với tựa đề là NỖI ĐAU CÒN LẠI (Nhà Xuất bản Đồng Nai ấn
hành, in xong nộp lưu chiểu quý III- 2011)
Tôi cho đăng lại bài viết này để mọi
người thấy rõ tác hại của chất độc da cam dioxin.
DI HỌA KHÔN LƯỜNG
Ghi
chép của Xuân Bảo
Khi
tôi viết những dòng này, cuộc chiến đã qua đi 36 năm trời, nhưng hậu quả của chất
độc hóa học đối với con người và môi trường Việt Nam còn rất nặng nề, tiếp tục
tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội và phát triển kinh tế. Cuộc chiến này
đã có 3 triệu nạn nhân bị nhiễm trực tiếp, trong đó có 1 triệu cán bộ, chiến sĩ
phục vụ ở chiến trường, gây ảnh hưởng cả đến thế hệ thứ hai, thứ ba. Ước tính
trẻ em bị dị tật do nguyên nhân chất da cam/dioxin chiếm khoảng 1% dân số!
Di
họa chiến tranh hoá học do Mỹ gây ra trên đất nước ta là to lớn khôn lường.
NGƯỜI MANG HUY HIỆU VAVA
Đó
là chị Nguyễn Thị Ngọc Hạnh, Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin
Việt Nam, tỉnh Đồng Nai. Chữ VAVA là 4 chữ cái đầu các từ tiếng Anh: Việt
Nam Association of Victims of Agent Orange/Dioxin. Chị là
một phụ nữ đã ngoài ngũ tuần, nhưng vẫn còn tươi tắn với nụ cười luôn nở trên
môi. Chị là người đã đến với các gia đình nạn nhân chất độc da cam trong hầu hết
các địa phương tỉnh Đồng Nai và rất được các nạn nhân quý mến. Bằng tình thường
đồng loại cao cả, chị không nề hà vất vả nhọc nhằn đến với các nạn nhân vùng xa
vùng sâu. Trong kết quả khiêm nhường cả tỉnh hiện đã nuôi dưỡng trợ cấp được
192 cháu nạn nhân là công lao của một tập thể rất nhỏ bé: Cơ quan Hội chỉ có 04
người. Đó là Ông Võ Minh Quang, chủ tịch Hội. Ông đã từng giữ chức vụ: Thường vụ
Tỉnh ủy, Trưởng ban Tuyên giáo, Giám đốc Sở Lao động Thương binh Xã hội, đã về
hưu. Đó là chị Ngọc Hạnh, đã từng là giáo viên, là cán bộ tổ chức chính quyền,
nay cũng đã về hưu. Đó là các cháu Lê Kim Nguyên, Đào Thị Ngọc Yến, nhân viên
văn phòng Hội.
Người
chịu khó nhất là chị Ngọc Hạnh. Tôi nghĩ vậy. Không rõ ai laø người đề xuất cái
việc huy động tâm trí của văn nghệ sĩ Đồng Nai để tập hợp các tác phẩm viết về
cái chất siêu độc da cam/dioxin mà bọn đế quốc Mỹ đã ngang nhiên tiến hành một
cuộc chiến tranh hóa học ở miền Nam Việt Nam. Ngày đầu tiên chúng rải chất độc
này là ngày 10/8/1961. Và sắp tới đây, cả nước kỷ niệm 50 ngày đau thương này:
10/8/1961 – 10/8/2011. VAVA Đồng Nai xuất bản một cuốn sách, trong đó có các
tác phẩm văn học viết về đề tài này.
Hơn
30 văn nghệ sĩ Đồng Nai gồm các chuyên ngành văn thơ, âm nhạc và nhiếp ảnh
ñöôïc mời dự một cuộc “trò chuyện” về chaát độc da cam. Chị Ngọc Hạnh đã giới
thiệu 25 nạn nhân ở các huyện mà văn nghệ sĩ sẽ đi thực tế để sáng tác. Bản
danh sách này được phát cho từng người. Với vài dòng ghi chú ngắn gọn bệnh tật:
đầu to, đi bằng đầu gối, chim cánh cụt, chân không có xương … hoặc hoàn cảnh
như: 2 người già cô đơn, mồ côi cha mẹ, cha mẹ bỏ nhau, không tự phục vụ, con
nuôi không có người thân, sống với mẹ già thường xuyên bị nhốt trong cũi, đi nạng,
có con không chồng, mối tình đẹp của bà mẹ kế, hai anh em chết một, làm thơ
trên máy vi tính bằng duy nhất chỉ một ngón tay. Có một câu chuyện sẽ làm xúc động
lòng người: nuôi con bạn mà hy sinh cả tuổi xuân và hạnh phúc riêng mình. Tôi
có dự kiến sẽ viết về người mẹ đồng trinh này.
Một
cái trại sáng tác văn học - nghệ thuật mà chỉ có 3 ngày, sáng đi chiều về thì
thật là quá ít ỏi về thời gian. Chỉ những tay thợ ảnh là “được mùa”. Đi cùng
đoàn văn nghệ sĩ còn có các nhà tài trợ. Trường Đại học Lạc Hồng có một thầy
giáo và các em sinh viên. Trung tâm sát hạch lái xe Đồng Nai có các học viên.
Riêng Siêu thị Coop Mart Đồng Nai thì đích thân Giám đốc Nguyễn Thị Hồng Khanh
đi cùng các nhân viên. Chị Hồng Khanh đã từng là Đại biểu Quốc Hội khóa IX của
tỉnh. Các đơn vị tài trợ mang theo gạo, quà và cả xe lăn đến với các nạn nhân.
Có những gia đình ở sâu trong rừng, chúng tôi phải đi bộ qua con đường đá sỏi lởn
nhởn dưới cái nóng gay gắt 35 – 360C. Mọi người đều phấn chấn và vui
vẻ. Vì họ biết rằng đây là chuyến đi tình nghĩa đầy tính nhân đạo.
VAVA
Đồng Nai cũng đã xây dựng được một ngôi nhà bán trú, có thể nuôi được 50 cháu,
tại thị trấn Định Quán, với tổng kinh phí đầu tư hơn 1 tỷ 200 triệu đồng.
MỘT CHÚT LỊCH SỬ VỀ CHẤT ĐỘC
Từ
buổi bình minh nhân loại, con người thoát xác không bò bốn chân nữa mà vươn lên
thành vượn người, sinh sống bằng hái lượm trên đôi tay của mình. Các bộ tộc
hình thành và đã xuất hiện xung đột bộ tộc. Con người đã tìm ra các độc tố tự
nhiên trong động vật và thực vật tẩm vào mũi tên, đầu gươm, ngọn giáo để tiêu
diệt lẫn nhau.
Đến
thế kỷ 19, các nhà khoa học Pháp đã dùng hóa chất diệt cỏ trong nghề làm vườn.
Song, loại hóa chất này có gốc A.sen rất độc cho nên không bao lâu sau đã bị cấm
không cho sử dụng.
Chiến
tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) ngày 22/4/21915 quân Đức đã sử dụng chất
độc chlo làm nhiễm độc và làm chết hàng ngàn quân Anh, Pháp. Tháng 7/1917, quân
Đức tiếp tục sử dụng chất độc y.perit trên chiến trường. Chiến tranh thế giới
thứ hai (1939 – 1945) quân Nhật sử dụng y.perit tại Trung Quốc. Quân Đức sử dụng
chất ziclon B đầu độc tù nhân ở các trại tập trung.
Ở
Mỹ từ những năm 1937 – 1938, các công ty hóa chất Hoa Kỳ phát hiện ra các chất
diệt cỏ có gốc Phenoxy (Phenoxy herbicides) có tác dụng diệt cỏ hiệu quả. Hai
chất trong nhóm này được sử dụng là chất 2,4 D (2,4 Dicloro phenoxy acétic
acid) và 2, 4, 5 – T (2,4,5 Trichloro phenoxy acétic acid). Đây được coi là
những phát minh lớn. Và từ những năm 1940, nhanh chóng được đưa vào sử dụng
trong nông nghiệp, lâm nghiệp và nghề làm vườn. Các chất dieät cỏ cùng với các
chất diệt sâu làm hại mùa màng đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách
mạng xanh ở nhiều nước trên thế giới.
Cũng
như nguyên tử, mặt phải của nó là phục vụ dân sinh, phục vụ hòa bình nhưng những
tên trùm lái súng đã lợi dụng nó để đưa vào chiến tranh với mục đích hủy diệt.
Thảm họa Hirosima và Nakazaki năm 1945 do Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật là một
minh chứng. Tìm ra các chất diệt cỏ, diệt sâu bọ là để làm tăng năng suất mùa
màng đem lại no ấm cho con người. Song những tên thực dân kiểu mới Hoa Kỳ đã sử
dụng nó vào mục đích chiến tranh. Hoa Kỳ lại được sự tiếp tay của Ngô Đình Diệm.
Diệm đã trắng trợn tuyên bố: “Việc rải chất khai quang là một phương tiện rất
hiệu quả mà các nước chậm phát triển có thể sử dụng để chống lại chiến tranh du
kích của Cộng sản. (Diệm trả lời Đài tiếng nói Hoa Kỳ ngày 7/3/1962) Chả thế mà
khi tiến hành phun rải Mỹ ngụy đã phải sơn cờ ba que đỏ sọc vàng lên thân máy
bay và quân nhân ngồi trên đó phải mặc thường phục?!. Vải thưa sao che nổi mắt
thánh.
CHIẾN
DỊCH RANCH HAND
Một
binh chủng không lực Hoa Kỳ được mang mật danh “Binh chủng không quân 309” có
nhiệm vụ chuyên trách các vụ rải. Chiến dịch sử dụng chất diệt cỏ và làm rụng
lá cây được tiến hành với mật danh là “chiến dịch operation Ranch Hand”. Mục
đích của chiến dịch được phía Mỹ xác định là: làm trụi lá cây để tạo điều kiện
thuận lợi việc quan sát, phát hiện nơi trú quân của đối phương. Ngoài việc rải
nó bằng máy bay, chất diệt cỏ còn được sử dụng bằng các phương tiện trên mặt đất
(ô tô, tàu thuyền, bình phun tay…) quanh các vị trí đóng quân, trận địa pháo
binh của quân đội Mỹ - ngụy và chư hầu; dọc hai bên đường giao thông thủy, bộ để
tránh sự tấn công của quân du kích. Mục tiêu thứ hai không kém phần quan trọng
là phá hoại mùa màng, nhằm triệt phá nguồn lương thực, thực phẩm của đối phương
làm cho họ đói, mất khả năng chiến đấu, rối loạn hàng ngũ. Và cuối cùng là giúp
Mỹ - ngụy giành “thắng lợi” quân sự ?! Than ôi, ngày tàn của chúng trước sau rồi
cũng sẽ đến.
Tôi
còn nhớ những ngày tháng năm 1959 Hà Nội sục sôi biểu tình phản đối bọn xâm lược
Mỹ và tay sai bỏ thuốc độc, giết chết hơn 1.000 người tù ở nhà giam Phú Lợi.
Nhà thơ Tố Hữu đã phải thét lên:
Đồng bào ơi anh chị em
ơi!
Hỡi lương tâm tất cả
loài người
Hãy nghe tiếng của
nghìn người bị giết
Không sống nữa nhưng
không chịu chết
Nghìn hồn oan bay khắp
nhân gian
Thù muôn đời, muôn kiếp
không tan…
Thực
chất chất diệt cỏ, hay còn gọi là chất khai quang không đơn thuần như tên gọi
mà là cái chất độc để Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh hóa học kéo dài tới 10
năm - một cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Trong
những năm đầu 1961 – 1964, Mỹ thường dùng hóa chất màu tím (agent purple) và
màu xanh lam (agent blue). Hai hóa chất màu hồng (agent pink) và màu xanh lá
cây (agent green) cũng được dùng nhưng với quy mô nhỏ hơn. Khoaûng tháng
1/1965, hai công thức mới của chất diệt cỏ được đưa vào chiến trường, đó là chất
màu da cam (agent orange) và chất màu trắng
(agent white). Các danh từ Da cam, Tím, Hồng, Xanh, Xanh lá cây… thực ra chỉ là
mật danh quân sự và thể hiện bằng một vòng sơn, rộng khoảng 20cm quanh thùng
200 lít chứa hóa chất để dễ nhận biết trong khi vận chuyển và bảo quản.
Chất
độc da cam (agent orange/dioxin) là dung dịch màu hồng - nâu hòa tan trong dầu
diesel và các dung môi hữu cơ, không hòa tan trong nước; chất độc da cam là hỗn
hợp 50 : 50 của hai chất n-butyl ester 2,4D và 2,4,5-T.
Bắt đầu từ chiến dịch
Ranch Hand, quân đội Mỹ đã thực hiện ở chiến trường miền Nam Việt Nam một số lượng
hóa chất khổng lồ với kinh phí ban đầu là 12,5 triệu đô la Mỹ lên tới đỉnh điểm
là 57,7 triệu đô la. Các công ty cung cấp hóa chất diệt cỏ gồm Dow chemical Co,
Diamond Akali Co, Uniroyal chemical Co, Thompson Co , Hercules Co, Monanto Co,
Ansul Co và Thompson, Hayward Co. Đây là 8 công ty lúc đầu, sau này con số công
ty cung cấp cho chiến tranh hóa học ở Việt Nam lên tới con số 37.
Cho
tới khi thế giới và cả nhân dân Mỹ lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh hóa học
tàn bạo vô nhân đạo này của Mỹ thì quân đội Mỹ đã thực hiện 19.905 phi vụ (gồm
các loại máy bay UC123, trực thăng H34, máy bay C47, C123…) rải chất độc trên 25.585
thôn, bản với diện tích 2.631.297 ha, trong đó có 86% diện tích bị phun rải hơn
2 lần, 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần. Đông Nam Bộ là vùng bị ảnh hưởng nặng
nề nhất, trên 56% diện tích tự nhiên bị phun rải. Khoảng 86% lượng chất độc đã
được rải lên các vùng rừng rậm, 14% còn lại được dùng để phá hủy ruộng vườn,
hoa màu mà chủ yếu là đồng lúa và nương rẫy ở các vùng đồi núi. Diện tích rừng
ngập mặn bị ảnh hưởng chất độc là 150 ngàn ha, nặng nề nhất là rừng ngập mặn Cà
Mau.
Tổng
lượng chất độc hóa học mà quân đội Mỹ đã sử dụng khoảng 100 ngàn tấn các chất độc
hóa học khác nhau. Trong đó có 9.000 tấn chất độc CS và 95.000 tấn các chất diệt
cỏ CDC. Trong 95.000 tấn đó có tới 65.700 tấn có chứa dioxin với khối lượng lớn
từ 366 đến 650 kg, tương đương 44 triệu lít.
Đông
Nam Bộ là địa phương có rừng rậm Mã Đà chiến khu Đ, có sân bay Biên Hòa là nơi
hứng chịu nhiều chất độc da cam nhất. Chúng rải để khai quang trụi lá cây rừng,
bay đi rải chất độc về còn lại bao nhiêu chúng trút cả xuống đây. Những kho chứa,
những bồn chứa rò rỉ, thùng bẹp chúng bỏ bừa bãi trong sân bay. Dư lượng tồn
lưu trên khu vực này là rất lớn!
GẬY
ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG
Đó
là cái chết của đại úy phi công Elmo Zumwalt III, con của trung tướng đô đốc hải
quân Hoa Kỳ, người trực tiếp ra lệnh cho quân đội Mỹ rải chất diệt cỏ, khai
quang lên chiến trường miền Nam Việt Nam. Elmo đã bị ung thư do nhiễm dioxin.
Đó là chất da cam này đã được quân đội Hoa Kỳ “thử nghiệm” tại căn cứ quân sự Mỹ
đóng ở Canadian Forces Base Gagetown Brunswick - Canada. Theo Bộ Quốc Phòng
Canada, đã có 200 ngàn nhân viên quân sự đóng quân trong căn cứ CFB từ 1956 –
1984. Số nhân viên này bao gồm binh sĩ của Anh, Seotland và Mỹ đã tiến hành thử
nghiệm họ cũng bị phơi nhiễm chất độc dioxin. Không những chỉ những người lính
bị tác động đến sức khoẻ. Nó là bi kịch của những người vợ và con cái họ đã chết
hoặc đau ốm, bệnh tật. Nó cũng là bi kịch của những thường dân làm thuê trong
vùng và vùng phụ cận căn cứ. Đó là những người lính của quân đội chư hầu của Mỹ
cùng tham chiến ở miền Nam Việt Nam như Hàn Quốc, New Ziland, Australia…
Ta
hãy nghe những lời phát biểu của họ: “…Do bị bưng bít thông tin, đa số nhân dân
Hàn Quốc đều không biết về vấn đề này. Một số lớn cựu chiến binh từng tham chiến
ở Việt Nam bị đau ốm mà không rõ nguyên nhân và đã chết ở độ tuổi 40. Họ không
hiểu vì sao họ phải chết. Ngay cả các bác sĩ cũng không giải thích được. Nhiều
người đã tự vẫn vì không lối thoát và không muốn ảnh hưởng đến gia đình…”/ “…Kết
quả là tổ chức đại diện cho các bệnh nhân chất da cam, Hàn quốc đã được chính
thức thành lập…”/ “Trong tương lai, bệnh nhân mà chính phủ phải trợ cấp do chất
da cam có thể lên tới 100.000 người. Và theo điều tra của Hội này, số cựu chiến
binh đã chết bởi chất da cam ước tính vào khoảng 2 vạn người…”. (Trích phát biểu
của Trưởng đoàn Cựu chiến binh Hàn Quốc đã tham chiến tại miền Nam Việt Nam tại
Hội nghị Quốc tế nạn nhân da cam/dioxin).
Và
đây là tiếng nói của một nguyên sĩ quan quân ngụy quyền Sài Gòn ông Mai Giảng
Vũ người đã trực tiếp rải chất độc hoá học trong thời gian chiến tranh, cũng tại
Hội nghị Quốc tế nạn nhân da cam/dioxin. “Trong khi rải các hoá chất độc hại mà
tôi không biết, tưởng thuốc diệt cỏ như các nhà nông họ làm, không ngờ lại nó ảnh
hưởng đến sức khoẻ con người, bao nhiêu thế hệ. Sau chiến tranh 30 năm các nạn
nhân ở những vùng bị rãi hoá chất đó vẫn còn các cháu ra đời nhiễm phải bệnh chết người đó. Nếu tôi biết nó nguy hiểm tôi sẽ
không làm, 3 đứa con tôi đâu chết oan uổng thế”. Ba con ông đều bị nhiễm dioxin
mà chết.
Còn
ở Mỹ thì sao? Ngay từ 1984, các cựu quân nhân bị tác hại do chất độc này gây ra
đã khởi kiện 7 Công ty sản xuất chất độc da cam/dioxin, trong đó có Dow
Chemical Co và Monsanto Co với số tiền bồi thường là 180 triêu USD.
Một
làn sóng phản đối tràn khắp nước Mỹ, những
quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ cũng lên tiếng đòi chấm dứt cuộc chiến tranh hoá học vô nhân đạo
và bẩn thỉu này.
CHIẾN TRANH QUA ĐI - NỖI ĐAU CÒN LẠI
Ngày
10/01/2004 thành lập VAVA Việt Nam và Hội đã tiến hành khởi kiện các công ty hoá chất Mỹ đã sản xuất và cung cấp
chất độc hoá học cho quân đội Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, đòi bồi
thường tất cả những thiệt hại. Vụ kiện phải dừng lại ở Toà phúc thẩm Hoa Kỳ??
Chúng
ta những người Việt Nam đang sống trên quê hương mình đều nhận thức được rằng:
Kể từ ngày 10/08/1961 đến ngày 31/10/1971, trong 10 năm 2 tháng, quân đội Mỹ đã
tiến hành một cuộc chiến tranh hoá học, hay nói một cách chính xác hơn là một
cuộc chiến tranh sinh thái có qui mô lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nó tác hại
nghiêm trọng đối với môi trường và sức khoẻ con người hiện tại và cả mai sau.
Nhìn
vào bản đồ Việt Nam, chúng ta đau xót thấy những vùng bị chất độc da cam tàn
phá nặng nề. Rừng, núi, trảng, dòng sông, bờ biển… ở đây như những vết bỏng
trên thân mình Tổ quốc ta. Trước năm 1960 độ che phủ rừng tự nhiên từ nam vĩ
tuyến 17 trở vào là 60 – 70%. Tài nguyên rừng rất phong phú và đa dạng. Rừng có
trữ lượng gỗ khoảng 200 – 300 m3/ha có các cây gỗ quý đường kính 1 đến
2 mét, cao từ 30 – 40 mét. Dưới tán rừng là nơi sinh sống của nhiều động vật
quý, nay vì chất da cam mà có giống bị tiêu diệt hoàn toàn.
Chất
độc hoá học đã tàn phá huỷ diệt khoảng 1,7 triệu ha rừng. Hệ quả của nó là trên
đầu nguồn các con sông lớn như Bến Hải (Hiền Lương), sông Hương, sông Hàn, sông
Ba, sông Đồng Nai, Vàm Cỏ…gió bão, lũ lụt và nhiều yếu tố tự nhiên khác làm cho
chất độc hoá học truyền lan gần như toàn bộ diện tích đất đai miền Nam Việt
Nam. Toàn bộ thảm thực vật bị huỷ diệt làm cho chất lượng đất biến đổi, bề mặt đất bị xói mòn rửa
trôi, cấu trúc thổ nhưỡng bị thay đổi ngày càng nghèo kiệt. Chất phát quang đi
đến đâu thì mặt đất chỉ còn lại sỏi đá khô cằn. Sau ngày giải phóng hoàn toàn
miền Nam, tôi có đi thăm nhiều nơi. Nơi nào bị rải chất độc thì nơi đó có rất
nhiều cỏ đuôi chồn mà người dân thường gọi là cỏ Mỹ (tên khoa học Pennisetum
polystachym) và các loại cỏ tranh, lau, sậy…đua nhau mọc. Còn các loại cây khác
thì không sao mọc nổi. Chất độc da cam/dioxin ngấm vào lòng đất còn để lại hậu
quả cho cả trăm năm sau và đối với con người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cuộc
chiến tranh hoá học do Mỹ tiến hành ở Việt Nam đã làm cho hơn 4,8 triệu người bị
phơi nhiễm, trong đó có 3 triệu người là nạn nhân. Hàng vạn người đã chết. Hàng
triệu người mắc các chứng bệnh: bệnh ung thư gan nguyên phát, ung thư tổ chức
phần mềm, Ulymphô ác tính, bệnh Hodgkin, ung thư đường hô hấp (thanh quản, khí
phế quản, phổi), ung thư tiền liệt tuyến. Và các bệnh rối loạn chuyển hoá,
lipit có tai biến mạch máu não, bệnh động mạch vành; gluxit có đái tháo đường.
Bệnh thần kinh có ngoại vi cấp và mãn, da u tuỷ (multiple myeloma). Bệnh ngoài
da thì có xạm da, nhiễm porphyrin da chậm và các bệnh thường gặp ở phụ nữ: sẩy
thai, đẻ non, con chết lưu (tử tại phúc trung), chửa trứng, ung thư màng
nuôi…Các loại dị tật bẩm sinh, quái thai xuất hiện trên nhiều người và cũng có
thể xẩy ra ở thế hệ thứ hai (cháu).
Tôi
nghĩ rằng để khắc phục hậu quả cuộc chiến tranh hoá học này, 2 vấn đề cơ bản được
đặt ra: tẩy độc môi trường và chăm lo sức khoẻ nạn nhân da cam/dioxin. Chúng ta
hãy lắng nghe từ phía kẻ thù, bên kia chiến tuyến: “…Hôm nay là một ngày rất
quan trọng với nước Mỹ để tiến thêm một bước làm giảm nhẹ những nỗi đau thương
mà đất nước chúng ta đã vô tình gây nên cho những con người của mình khi buộc họ
tiếp xúc với chất (độc) da cam ở Việt Nam. Hơn hai thập kỷ qua các cựu chiến
binh đã than phiền rằng việc tiếp xúc với chất (độc) da cam trước khi họ rời
chiến trường đang giết dần, giết mòn và thậm chí tổn thương đến con cái của họ…”.
“…Cuối
cùng, tôi cũng rất cám ơn người bạn cũ lâu năm của tôi – Đô đốc Zumwalt - người
đã đấu tranh xuất sắc nhất cho các cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam…Không ai có thể
làm tốt hơn ông trong việc làm sáng tỏ tác hại của chất (độc) da cam. Không ai
biết rõ hơn và nhận trách nhiệm cá nhân (nhấn mạnh của tác giả XB) tốt hơn ông về
những hành động của chúng ta…”
Như
thế là phía Mỹ, như lời cựu tổng thống Bill Clinton phát biểu tại cuộc họp báo ở
Nhà Trắng khi ông đương nhiệm công bố thêm những loại bệnh do chất độc da
cam/dioxin gây nên (ngày 28.5.1996). Ông ta cũng có nhắc đến một người bạn cũ,
đô đốc hải quân Zumwalt, người đã trực tiếp ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ rãi chất
độc da cam lên Tổ quốc thân yêu của chúng ta. Zumwalt đã sám hối vì trong cuộc
chiến tranh hoá học này, người con thứ 3 của đô đốc, đại úy Elmo Zumwalt đã phải
trả giá khi anh ta ngày ngày ngược xuôi trên các dòng sông, trên các con kênh để
kiểm tra việc rải chất độc da cam. Anh ta đã bơi lội, tắm táp, ăn uống trên những
dòng nước này và kết cục là căn bệnh ung thư do nhiễm chất độc da cam/dioxin đã
cướp mất mạng sống. Oái ăm thay! Rõ ràng không ai biết rõ hơn và nhận trách nhiệm
tốt hơn Zumwalt. Và cũng đau đớn như bao người bố khác: mất con vì chất độc da
cam /dioxin.
TỔNG
THỐNG BIẾT TOÀ ÁN LÀM NGƠ
Và
toà án Liên bang Mỹ (Quận Tây Brooklyn New York). Cấp sơ thẩm đã tiếp nhận đơn
của VAVA Việt Nam cùng một số nạn nhân khởi kiện 37 công ty Mỹ sản xuất hoá chất
độc hại ngày 30.1.2004. Một năm sau, ngày 28.2.2005 tranh tụng miệng tại Toà sơ
thẩm. Mười ngày sau đó, thẩm phán Jack Weinstein ra phán quyết bác bỏ đơn kiện
với lý do ngây ngô rằng: “không thừa nhận chất da cam là chất độc hại đối với
con người”. Phía ta, tiếp tục kháng cáo lên Toà phúc thẩm New York. Ngày
22.2.2008 Toà phúc thẩm lưu động số 2 New York đã đồng ý với phán quyết của Toà
án sơ thẩm (10.3.2005) rằng; “việc sử dụng chất độc của Mỹ không cố ý gây thiệt
hại cho con người Việt Nam”.
Và,
quan trọng hơn, không gì vô lý hơn là ngày 2.3.2009 giờ New York, giờ Hà Nội là
ngày 3.3.2009 Toà án Tối cao Hoa Kỳ công bố Quyết định (được thông qua ngày
27.2.2009 bác bỏ đơn thỉnh cầu của các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam cùng 2
đơn khác của các cựu chiến binh Mỹ với các công ty hoá chất phải bồi thường thiệt
hại gây ra đối với sức khỏe bản thân và gia đình họ.
Nhân
dân Việt Nam vô cùng phẫn nộ và hết sức bất bình trước Quyết định sai lầm và bất
công của Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Quyết định phi lý này được đưa ra trong bối cảnh
quan hệ Việt Nam có nhiều cố gắng để góp phần khắc phục hậu quả của chất độc da
cam/dioxin ở Việt Nam.
Dù
không được kiện trước Toà án liên bang Hoa Kỳ, nhưng vụ kiện đã thu được những
thắng lợi có ý nghĩa tích cực, đáng khích lệ. Nổi bật là ở trong nước, vụ kiện
đã thúc đẩy phong trào đòi công lý, tạo ra sự thông cảm sâu sắc và giúp đỡ mạnh
mẽ các nạn nhân nhiễm chất độc da cam/dioxin.
Với
thế giới, vụ kiện nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân các nước. Vụ kiện
phơi bày ra trước nhân loại mọi thủ đoạn phía Hoa Kỳ đã che giấu hơn 30 năm nay
của các công ty hoá chất Mỹ. Nó đã trở thành một phong trào rộng lớn mang tính
quốc tế và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Cuộc đấu tranh trực diện về mặt pháp lý
tại Toà án Mỹ, kết hợp với cuộc đấu tranh ngoài toà, được sự ủng hộ của các bạn
Mỹ. Vụ kiện này, chúng ta đã thắng trên mặt trận chính trị và nhân văn.
Rõ
ràng, Toà án Hoa Kỳ đã chà đạp lên công lý, bất chấp đạo lý. Đây là một phán
quyết phi lý và sai lầm. Người Mỹ thường lớn tiếng dạy thiên hạ về quyền con
người, nhưng ở đây họ đã bỏ lỡ cơ hội thể hiện tôn trọng nhân quyền. Đây là một
phán quyết đáng hổ thẹn!.
Những
đau khổ và di họa chất độc da cam/dioxin gây ra sẽ tiếp tục làm rớm máu trái
tim nhân loại.
Cuộc
chiến đấu để đi đến thắng lợi của vụ kiện vẫn tiếp tục.
***
Để
kết thúc bài ghi chép này tôi xin trích ra đây mấy câu thơ của nữ sĩ Ngô Thanh
Xuân, trong bài thơ Em sợ lắm, viết thay lời nạn nhân chất độc da cam/dioxin Phạm
Văn Bảy, ở xã Xuân Tây, huyện Cẩm Mỹ.
“…Em sợ lắm khi màn đêm buông xuống
Tiếng
dế đầu hè như khóc, như than
Ai oán, não nề điệp
khúc da cam
Cuộc chiến lùi xa, nỗi đau còn mãi.”
Biên Hoà, 19.4 – 14.5.2011
Xuân Bảo.
Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015
144. Chuyện nhỏ những ngày đầu làm báo Văn nghệ Đồng Nai
144.CHUYẾN
ĐI THỰC TẾ ĐẦU TIÊN
(Kỳ
VI)
L.N.Đ.-
Năm 1999 – năm cuối của Thế kỷ XX và cũng là năm cuối Thiên niên kỷ I. Đồng thời
là năm kỷ niệm lần thứ 20 Ngày thành lập Hội Văn nghệ Đồng Nai.(22/12/1979 –
22/12/1999). Nhà văn Hoàng Văn Bổn, Chủ tịch Hội cho mời tôi và Nguyễn Duy
Thinh tới Văn phòng. Anh Chín Bổn nói: “Hai ông là những người đầu tiên có mặt
trong những ngày đầu thành lập Hội. Hãy viết những kỷ niệm về ngày Hội chúng ta
mới ra đời.”
Tôi và Duy Thinh nhận lời
viết cái hồi ức nho nhỏ này. Và giờ đây Duy Thinh đã đi xa. Tôi cho vào sách
này toàn văn bài viết CHUYỆN NHỎ NHỮNG NGÀY ĐẦU LÀM BÁO VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI. Đây
cũng là nén hương tôi thắp lên để tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Duy Thinh – người đã
gắn bó với Hội nhiều năm – và là người bạn chí cốt của tôi. Viết nhân ngày giỗ
của nhà văn Nguyễn Duy Thinh.
In lại nguyên văn toàn bài đã đăng trên Tạp
chí Sông Phố số 55, số Kỷ niệm 20 năm thành lập Hội 1979 – 1999.
**
CHUYỆN NHỎ NHỮNG NGÀY ĐẦU LÀM BÁO VĂN NGHỆ ĐỒNG
NAI
Xuân
Bảo – Duy Thinh
Mới
đó, mà hai chục năm đã đi qua. Những thành quả đã gặt hái bây giờ, làm chúng tôi
bồi hồi nhớ lại những trăn trở quên mình “điếc không sợ súng” ngày đó.
NHỮNG BÀI BÁO ĐẦU TIÊN KHÔNG IN TRÊN BÁO.
Chiều tối, trước khi về Sài Gòn, anh Lý
Văn Sâm còn ngoắc tôi lại bảo: “Cậu và Xuân Bảo ráng làm xong cái đó đi nhé”.
Được anh Hai Lý cưng, tôi giỡn: “Cái đó là cái gì, thưa anh?”. “Là cái đó đó”.Anh Hai Lý cũng nói vui lại.
Thưa bạn đọc, “cái đó” mà nhà văn Lý Văn
Sâm căn dặn chúng tôi là chuẩn bị toàn bộ các văn kiện cho việc thành lập Hội
Văn nghệ Đồng Nai.
Hai ngày sau, anh Lý
Văn Sâm lại nhắc: “Nè, không có đứa nào giúp việc cho các cậu đâu. Làm cho ngon
nghe!” Xuân Bảo tính ưa vui, bỗ bã quyết liệt: “Tự chúng tôi biết cách giúp
việc cho chúng tôi! Thưa anh Hai”.
Trong thời kỳ Ban Vận động, trụ sở của Hội
đang ở nhờ nhà số 1 Võ Thị Sáu. Nhưng ít khi anh Hai Lý, anh Chín Thức (Huỳnh
Công Thức) và anh Tô Văn Của đến. Chỉ có một mình cô Đào Minh giữ “gôn”! Xe cộ
không, thiết bị văn phòng không. Chỗ chúng tôi giúp việc lẫn nhau là ngay phòng
khách tư gia của Xuân Bảo. Một cái bàn sắt lớn và một bộ sa-lông nan. Cũng may
mà mặt bàn khá rộng tha hồ cho chúng tôi trải bản thảo. Có một cái ghế mềm xoay
360o giống như ghế của bác phó cạo, thì Xuân Bảo và tôi thay nhau ngồi “cạo
giấy”.Còn cái máy chữ thì vui hết nói, mổ xuống một ngón thì nhảy lên dính chum
đến ba chữ. Vui nhất là kẹt chữ T. Tôi bàn với Xuân Bảo lấy chữ L thay chữ T,
trông cũng khá giống. Xuân Bảo phì cười: “Cái thằng kỹ sư địa chất, nhà văn cấp
phường này, vậy khi đánh tới…”Chúng tôi ôm nhau cười.
CHÚNG TÔI ĐI THỰC TẾ
VỚI NHỮNG NGƯỜI LÁI MÁY BAY.
Khi Hội Văn học – Nghệ
thuật Đồng Nai đã ra báo đến số thứ tư, nhà văn Lý Văn Sâm bảo chúng tôi:
“Chúng ta (Đồng Nai) có may mắn ở gần sân bay. Vừa qua những người lái máy bay
của sân bay Biên Hòa đã hỗ trợ tốt cho chiến trường bạn. Các cậu bố trí anh em
đi viết về Không quân”.
Chúng tôi lại hứa với
anh như lần trước. Tuần lễ sau, đã làm việc xong với anh hùng Nguyễn Văn Bảy,
Tư lệnh của binh chủng Phòng không – Không quân. Anh Bảy giới thiệu chúng tôi
với chủ nhiệm chính trị sư đoàn Không quân phía Nam. Chúng tôi được xe quân sự
của Bộ Tư lệnh về đón tận sân bay Biên Hòa để lên sân bay Tân Sơn Nhất. Ở đây
chúng tôi được tiếp đón như những người thân mới đi xa trở về. Chúng tôi từ
chối phòng khách và xin được nghỉ cùng cùng với phòng các sĩ quan kỹ thuật.
Ngày đi nghe báo cáo,
xuống phân xưởng sửa chữa, lên đài chỉ huy, ra phòng trực chiến. Lúc về phải đi
qua dãy nhà sĩ quan dẫn đường (bay). Các chàng sĩ quan có bằng kỹ sư và hàm cấp tá nhưng còn rất
trẻ, ưa hài hước. Họ nuôi một chú khỉ rất “ranh ma”. Các chiến sĩ nữ đi qua hãy
coi chừng, nó phóng ngay lên vai, gở mũ và tháo dây nơ, kẹp tóc. Còn cánh đàn
ông chúng tôi, nó cũng làm vậy và lấy thứ khác. Chúng tôi đi ngang qua và Xuân
Bảo lãnh ngay cú “cẩu đầu vân” của chú khỉ. Xuân Bảo chỉ kịp kêu lên ối một
tiếng thì “hậu duệ” của Tôn Ngộ Không đã ở trên ngọn cây và khoe cây viết vừa
cướp được. Một sĩ quan dẫn đường bay vừa đi tới, huýt gió nghe chói tai và nói:
“Thằng trời đánh sống 500 tuổi kia, trả ngay bút cho nhà văn”. Có thể đó lời
nói của Đường Tăng, con khỉ ngoan ngoãn leo xuống trả bút cho Xuân Bảo.
Ngày hôm sau chúng tôi
được anh Tám Đức (Mai Văn Đức, chỉ huy trưởng Đoàn bay lên thẳng (917) chiến
đấu phía nam bố trí cho “bay thực tế” với các chiến sĩ lái. Vào ga-ra máy bay
chúng tôi thấy hai người lái đang đẩy chiếc OV10, nhỏ như đồ chơi trẻ con.
Chúng tôi nói cho bọn mình bay cái này cũng được. Hiền An Giang vốn yếu đuối
nói thêm: “Có lẽ bay cái này an toàn hơn”. Những người lái trả lời chúng tôi là
người lính chấp hành theo quân lệnh nên không thể chiều các đồng chí, vả lại
cái này không có đủ chỗ ngồi.
Xuân Bảo cười vui:
“Không sao. Vậy cho phỏng vấn nhanh. Các cậu có tham gia chiến trường bạn vừa
qua không?” Người lái khoát tay nói giọng rất lính: “Suýt chết đấy “các cụ ạ”!
Bọn mình chỉ điểm cho pháo cối bắn vào đội hình quân tháo chạy của địch, nhìn
thấy cả đạn cối bay qua đầu, nói dại nó mà rớt trúng đầu thì tiêu. Còn lần khác
đi thả truyền đơn ở Niết Lương, máy bay tự nhiên mất độ cao. Đành phải hạ cánh
bắt buộc. Chúng tôi nhảy ra, tay lăm lăm khẩu K54 vừa tự bảo vệ vừa tìm sự cố
kỹ thuật. Hú hồn, hóa ra có một tập truyền đơn kẹt vào cáp lái…Cái thứ này có
lẽ cho các cháu ở vườn trẻ rồi!
Trước khi bay, chúng
tôi được ăn sáng bếp tiểu táo của người lái: bánh mì patê gan, một quả trứng gà
luộc, một ly càphê sữa nóng và mỗi người được trang bị một mũ chống tiếng ồn.
Người lái chính bảo chúng tôi, lát nữa các anh sẽ được hưởng cái thú rơi tự do!
Hiền An Giang mặt mày xanh lét ôm lấy tôi, bảo: “Cho tao xuống ngay”. Chúng tôi
đành phải thả Hiền An Giang xuống giữa cánh đồng Củ Chi để anh ngồi đó. Hai
mươi ba phút sau máy bay lại đỗ xuống đón Hiền An Giang.
Sau chuyến bay có một
trong đời trên chiếc HU1A của Mỹ, chúng tôi về phòng chỉ huy của Đoàn trưởng
Tám Đức. Anh kể cho chúng tôi nghe chuyện tập bay, chuyện anh cùng đồng đội bay
cho Dầu khí và chuyện năm 1975 anh bay về thăm cha mẹ ở Cà Mau, quần đảo trên
rừng dừa và tràm chim quê mình mà thấy lạ hoắc vì chiến tranh tàn phá!
***
Chúng tôi trở vế báo
cáo với anh Lý Văn Sâm là sẽ có bài cho những số sau. Thế còn bây giờ, Tết đến
nơi không có cánh bay trong báo như là Tết không có bánh tét.
Và chuyến đi thực tế
xuống Hố Nai cũng đầy kỷ niệm. Chúng tôi xuống đó vì nghiệp vụ cần phải viết
một điển hình. Giáo xứ Ngọc Đồng tổ chức thu mua heo vượt kế hoạch. Cùng đi có
nhà văn Nguyễn Khải và nhà thơ Nguyễn Duy. Cha xứ Ngọc Đồng tiếp chúng tôi như
một lão nông tiếp bạn cũ về quê. Ông hút thuốc lào với cái thú ngâm nga của
người biết quý cái hương vị dân dã. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng bắn điếu cày liên
tục với phong cách rất lính. Hôm ấy Cha xứ nói trước đây đọc tiểu thuyết của
Nguyễn Khải “Cha và con…” cứ tưởng ông Nguyễn Khải là người có đẳng cấp trong Giáo
hội. Sau này nhà văn nói với chúng tôi: “Nói thật với các cậu, mình có thể làm
lễ như một cha xứ có nghề”.Thế mới biết nhà văn Nguyễn Khải đã sống như thế nào
để viết những trang viết được mọi độc giả ưu ái đến như vậy.
Nhà văn Lý Văn Sâm dặn
chúng tôi biên tập kỹ và trao lại bài vở cho anh mang lên duyệt. Cuối thư, nhà
văn còn bảo cho anh Chín Thức thuốc nhức đầu. “ảnh sụn rồi” (nguyên văn anh Lý
Văn Sâm viết).
Hồi đó Duy Thinh cũng
nhận được thư anh Lý Văn Sâm. Anh nhắc chúng tôi bố trí cho anh em đi thực tế
và chọn một sồ bài để in chung với anh trong tập Bến Xuân.
Có lần giữa hội nghị
anh Lý Văn Sâm cự tôi (Nguyễn Duy Thinh): Tại sao báo lần này không có bài ký
nào cả? Tôi thưa không có ai gửi, đặt bài gấp quá họ không viết kịp. Anh bảo:
Cậu có cái nào đưa đây. Tôi nói có. Nhưng tôi là biên tập lại biên tập cho
chính mình, hơi kỳ. Anh lại la, thì cứ đưa đây, mình chịu trách nhiệm. Tôi đưa
anh bài ký “Những tín hiệu từ ven sông
Đồng Nai” viết về một nhóm phóng viên Thông tấn xã thường trú ở Đồng Nai.
Xong hội nghị, anh trả lại bản thảo với bút phê: Được, đưa Hiền An Giang lên
ma-két. Cái măng-sét Xuân Bảo thiết kế vẫn dùng.
Nhân viết đến anh Lý
Văn Sâm, xin Ban biên tập cho tôi viết thêm vài dòng nữa về nhà văn. Năm nay
anh đã cao tuổi và còn sống với chúng ta. Trong bức thư nói ở trên kia, cuối
thư anh viết: “…mình sẽ nghĩ lại, một
kiểng đôi quê cực quá (vừa ở Hội Văn nghệ Giải phóng, vừa ở Hội Văn nghệ Đồng
Nai). Nay vỏ xe Honda hư rồi…” Hồi
đó tôi đã kiếm cho anh vỏ xe để có phương tiện đi lại. Nhưng tôi còn nợ anh,
chưa viết xong bài ký anh vượt ngục ở Tân Hiệp – Biên Hòa tháng 12 năm 1956,
với tựa đề dự kiến “Cùng vượt ngục với
những người anh hùng”.
***
Hai mươi năm đã đi
qua, tôi luôn luôn nói với chúng tôi: “Đã đành tre già măng mọc, nhưng măng có
mọc thẳng hay không cần phải dựa vào tre già”. Riêng ở Đồng Nai, anh Lý Văn
Sâm, anh Hoàng Văn Bổn chính là những cây tre già, “có mảnh áo cũng nhường cho
con”, như Nguyễn Duy đã viết.
Thu
1999
X.B
– D.T
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)