279. HUẾ VỚI CON ĐƯỜNG “GỖ LIM”.
Khi viết những dòng này, tôi lại nhớ đến đề
thi văn tốt nghiệp Trung học phổ thông năm nay. Ngày xưa gọi là thi tú tài. Đề
ra lấy từ tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dòng sông Hương” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, quê làng Bích Khê, huyện
Triệu Phong, Quảng Trị. Làng Bích Khê nổi tiếng vì có nhà cách mạng Hoàng Thị
Ái, có nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với mối tình đầu nghiệt ngã với ca sĩ Tân Nhân, có
doanh nhân giàu có nước Mỹ Hoàng Kiều với cuộc tình ngắn ngủi không lấy gì làm “vinh
dự” với người mẫu nội y Ngọc Trinh.
Sông Hương vốn dĩ trời sinh ra đã đẹp. Có
dòng nước mát lành và bốn mùa trong xanh. Khi chảy qua kinh thành Phú Xuân còn
mang theo nhiều mỹ từ: Hương Giang trầm mặc, trữ tình, lãng mạn và thơ mộng...
Và cặp đôi phạm trù: Sông Hương, núi Ngự là niềm vinh hạnh cho người dân cố đô.
Người đời khó ai quên vua Gia Long đã chọn
Thuận Hóa làm kinh đô từ khi ngài lên ngôi đầu thế kỷ 19 (1802). Và đã xây dựng
kinh thành này với nhiều danh lam thắng cảnh: đền chùa, miếu mạo, lăng tẩm; có
chùa Linh Mụ, Từ Đàm…,có Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, có Phu Văn Lâu, bến Thương
Bạc, có cửa Ngọ Môn, Thượng Tứ, có cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp do
Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer khởi xướng và vân vân…
Hoàng thành Phú Xuân (Huế) đã được tổ chức
UNESSCO vinh danh là Di sản Văn hóa của nhân loại.
Không cần thêm một kiến trúc nào làm thêm
để cho Huế đẹp, nếu muốn Huế là điểm đến của du khách thì hãy giữ lại những gì
gọi là cổ kính. Cái ngôi nhà chọc trời của Vincom như một cái gai đâm vào mắt
người Huế, như đâm vào cả khu Thành Nội vốn có rất nhiều danh thắng: cửa Ngọ
Môn, điện Cần Chánh và Thái Hòa, có Thế miếu và sân Cửu đỉnh…
Cái “con đường gỗ lim” của Huế với Lời bàn của nhà thơ
Xuân Bảo
Đường đi bộ ven sông Hương có lẽ là công
trình của Huế tạo nên dư luận nhiều nhất từ vài chục năm trở lại đây. Thực ra
con đường đó tạo thành một tuyến đường đi bộ trên mặt nước kéo dài từ bến Tòa
Khâm đến cầu Dã Viên dài chưa đầy nửa kilômet (452m, rộng 4 mét), với kinh phí
là 64 tỷ VND.
Gỗ lim sẽ khó thích nghi với thời tiết nắng
nóng và mưa lũ của Huế, đồng thời chặn dòng chảy của sông sẽ không chịu đựng được
sức đẩy của nước lũ.
Tôi lại nhớ cầu Trường Tiền do Pháp xây dựng
kiên cố là vậy mà không
ngờ chỉ sau 5 năm (năm Nhâm Thìn - 1904), cơn bão lịch sử đã xô đổ cây cầu
thép; cầu có 6 vài thì 4 bị hất đổ xuống sông. Năm 1906, cầu được tu sửa lại và
mặt cầu đổ bê tông thay vì lót gỗ lim như trước.
Người dân đất Thần kinh đã ba lần chứng kiến
cây cầu này đổ sập xuống dòng sông Hương.
Khi mới hoàn thành, là một cây cầu thép vững
chắc với kết cấu và kỹ thuật văn minh của phương Tây, do nhà thầu Effel xây dựng
- cầu Trường Tiền khiến cho chính quyền và nhà thầu hết sức tự hào.
Ngày 19/12/1946, theo chủ trương tiêu thổ
kháng chiến, cầu Trường Tiền bị giật sập để chặn bước quân Pháp. Lúc 2 giờ
sáng, một tiếng nổ lộng óc làm rung chuyển cả thành phố. Chiếc vài cầu Trường
Tiền tại vị trí nổ bị nâng lên cao, sau đó sập xuống, lệch với nhịp tiếp giáp đến
3 mét. Cuộc kháng chiến ở Cố đô Huế đã mở màn như vậy đó.
Mãi đến năm 1953, dưới thời Quốc trưởng Bảo
Đại, việc tái thiết nguyên dạng cầu mới được thực hiện.
13
năm sau, xuân Mậu Thân 1968, cầu Trường Tiền một lần nữa bị giật sập. Đêm
7/2/1968, một tấn thuốc bom đã làm sập nhịp cầu số 4, phá hủy hoàn toàn trụ cầu
thứ 3. Sau đó, một chiếc cầu phao lát gỗ theo kiểu dã chiến được dựng lên tại
vài cầu số 3 và số 4.
Mùa thu năm 1993, tôi về Huế và được Phó
chủ tịch tỉnh Lê Văn Sắc (Ông đã mất) đưa đi thăm công trình khôi phục cầu Trường
Tiền. Nghĩa là sau 25 năm, cầu mới được làm lại nguyên dạng như trước đây. Hôm
đó chỉ huy trưởng Công trình khôi phục cầu Trường Tiền Trần Thế Thành đã chiêu
đãi tôi một chầu Ca Huế trên sông Hương. Nhóm nghệ sĩ do nghệ sĩ ưu tú Châu
Dinh chỉ đạo. Tôi có cái bút ký Cầu Trường
Tiền sáu vài…
Trải qua những thăng trầm lịch sử, với vẻ
duyên dáng của mình, cầu Trường Tiền và dòng sông Hương thơ mộng trở thành cảm
hứng vô tận cho giới văn nghệ sĩ. Năm 1941, trong thời gian lưu lạc tới xứ Huế,
thi sĩ Nguyễn Bính đã ví nét cong cong của nhịp cầu cùng màu sơn nhũ bạc
(nguyên bản) như hình ảnh của chiếc lược ngà:
“…Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ…”.
Tôi lại nhớ Sông Hương đẹp là thế, thơ mộng
là thế cho nên nếu cần thì ai đó làm cho nó đẹp thêm chứ không nên cái kiểu như
cố văn sĩ Nguyễn Tuân đã viết về con sông Đà hung bạo mà trữ tình …“Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn
mây mùa xuân bay trên Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội vì mỗi độ thu về. Chưa hề
bao giờ tôi thấy Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực
Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai
chữ.”Tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân – 1960).
Đà Giang thành Rivière noire Sông Đà đen,
Pháp dịch và cho vào bản đồ Đông Dương.
Tôi cũng thấy đôi bờ sông Hương không cần
phải thêm Con đường gỗ lim để nó “đẹp thêm, thơ mộng thêm” mà chỉ thấy con đường
này như cái lược bí (mà không có răng) chải chấy của các cụ ta xưa. Các nhà thiết
kế cũng đã đè mái tóc Hương Giang, đẹp như nữ sinh Đồng Khánh ngày nào để giắt
cái lược bí chải chấy (chí) vào. Thật đáng buồn!
Ông thị trưởng thành phố Namyangigu (Hàn Quốc, thành phố hợp tác hữu
nghị với Huế) – tặng Huế bức tượng Người
đàn ông cúi đầu Greetingman. Tác giả tượng
là của điêu khắc gia Yoo Young Ho, làm bằng nhôm, màu xanh da trời, đá machan với
kích thức thông thường là 2m x 2,4m x 6m, đường kính giá đỡ 4m. Bức tượng được
đúc ở Hàn Quốc và sẽ vận chuyển về Việt Nam. Mọi chi phí vận chuyển sẽ do phía
Hàn Quốc chịu.
Bức tượng này sẽ được đặt tại Công viên 3
tháng 2, nhưng phải thu ngắn lại, chứ để cao 6 mét thì không ra thể thống gì! Công viên này nằm ở đường Lê Lợi, trước mặt Trường Đại học Sư phạm
- Đại học Huế vốn là Trường Quốc học ngày xưa. Năm 2002, nơi đây là nơi đặt những tác phẩm điêu khắc của các họa sĩ quốc tế tham
gia Trại sáng tác điêu khắc được tổ chức nhân Festival Huế .
. Nhưng theo tôi, nếu có đặt thì đặt ngay đầu đường Gỗ lim thì phù
hợp và có tính liên hoàn với cái tình
hữu nghị giữa ta với Hàn Quốc vì Đường Gỗ lim với tượng Người đàn ông cúi đầu đều
do Hàn Quốc tặng Huế ?!!!
Huế đã chọn các nhà quy hoạch Hàn Quốc, và
kèm theo là khoản viện trợ hơn 6 triệu USD cho con đường Gỗ lim. Có đôla, thì
muốn làm gì thì làm à? Của chùa mà! Trong khi đó đồng bào huyện miền núi A Lưới
còn gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống???
***
Sáng ngày 4/7, chúng tôi đi thăm sông
Hương để chiêm ngưỡng dòng sông trầm mặc thơ mộng mà những năm tuổi thiếu thời
tôi đã được đằm mình trong nó. Cả nhà lững thững đi bộ. Đến quán bún bò của O
Cương thì vào. Quán này, cách đây hơn 2 tháng, tôi và cậu cả luật sư Nguyễn Triệu
Quang đã cùng với nhà văn Nguyễn Thanh Song Cầm vào ăn sáng. Ra đến bờ sông,
tôi muốn dùng cà phê nhưng tìm không thấy. Cách đây hơn chục năm, dọc theo bờ
sông có rất nhiều quán xá, nay thì nhừơng chỗ cho Công viên. Có một cụm tượng
Gà trống to dùng làm từ Tết Đinh Dậu (2017) vẫn còn đứng sừng sững trong công
viên. Tôi lại nhớ tới hồi trước 1945, thời thực dân Pháp đô hộ nước ta. Những
chiếc ôtô khách mang nhãn hiệu Renaul thường
vẽ hai bên hông hình con gà trống – biểu tượng nòi giống Gauloire của nước
Phú-lang-sa.
Khi ngang qua “Đài Chiến sĩ trận vong”. Thúy
Ngọc nói với tôi: bố mẹ đứng sát vào để con lấy ảnh Bia Quốc học. Cũng như nhiều
người dân, kể cả dân Huế và Thúy Ngọc đã nhầm lẫn. Đây không phải là “bia” cũng
không phải là “bình phong” trường Quốc học mà đây là Đài Chiến sĩ trận vong do
Pháp xây dựng.
Đài Chiến sĩ trận vong - một kiến trúc có
lịch sử rõ ràng. Công trình này nguyên bản là một kiến trúc tưởng niệm, để tưởng
niệm những binh sĩ người Pháp và người Việt ở các tỉnh Trung Kỳ đã tham chiến
và tử trận trong Thế chiến thứ nhất (1914-1918).
Thực chất công trình này không liên quan
gì đến trường Quốc học. Bình phong của trường Quốc học thì đã có tấm Bình phong
long mã được xây dựng từ năm 1896 từ khi thành lập trường và hiện nay vẫn còn
trong khuôn viên của trường..
Đài Chiến sĩ trận vong (tên tiếng Pháp là
“Monument aux Morts”) được Toà Khâm sứ Pháp ở Trung Kỳ cho xây dựng vào năm
1920. Đây là một kiến trúc tưởng niệm, cũng là bia ký ghi khắc nội dung liên
quan tới công trình. Công trình được triển khai rất nghiêm cẩn và công phu, với
việc thành lập một uỷ ban phụ trách việc thực hiện, lựa chọn địa điểm và hình
thức xây đài. Uỷ ban đặc trách này gồm 3 quan chức người Pháp và một quan chức
của Nam triều là cụ Nguyễn Đình Hòe đương chức là tham tri của Viện Cơ mật.
Tôi nhìn lên bảng Kim khánh thì ôi thôi,
không còn một dòng chữ nào. Rất lâu trước đây, ở mặt trước đài là một “kim khánh” bằng đá
đề tên và chức vụ trang trọng của 31 tử sĩ người Pháp, ở mặt sau ghi khắc tên họ
và quê quán 78 tử sĩ người Việt ở các tỉnh Trung Kỳ (cho tới trước thời điểm
trùng tu hiện tại vẫn có thể đọc được một số tên).
Tháng 4/1920, Uỷ ban phụ trách đã mở một
cuộc thi thiết kế Đài Chiến sỹ trận vong. Sau một tháng có 4 đồ án gửi đến dự
thi. Sau khi xét duyệt kỹ lưỡng, Uỷ ban đã chọn đồ án của hoạ sỹ - thầy giáo
Tôn Thất Sa lúc này đang dạy hội hoạ ở trường Bá Công Huế để thi công. Công việc
xây dựng kéo dài 4 tháng với kinh phí gần 10.000 đồng do ngân sách Toà Khâm sứ
đài thọ.
Đài Chiến sĩ trận vong được khánh thành
long trọng vào ngày 23/9/1920, với sự hiện diện của vua Khải Định, toàn quyền
Đông Dương Maurice Long, các quan chức cao cấp của Chính phủ bảo hộ và Nam triều,
các cựu chiến binh người Việt và nhiều người Pháp ở Huế.
Đài Chiến sĩ trận vong là một kiến trúc có
dạng bình phong hình cuốn thư được lồng vào giữa một cửa tam quan. Kiến trúc
chính được đặt trên một tầng nền đài rộng có lan can bao quanh và lối lên 4
phía. Lan can được xây kiểu bổ trụ chắp hình hoa sen và viền gạch gốm men trang
trí. Phía trước nền đài hai bên có hai trụ biểu cao khoảng 10m nhấn mạnh tính
chất của không gian tưởng niệm. Đài được xây bằng bê tông cốt thép và gạch, có
2 tầng đặt trên 1 bệ gồm 7 bậc. Tầng dưới kiểu tam quan, tầng trên thu lại ở giữa
như một gác nhỏ. Hai tầng có 12 mái, lớp ngói ống tráng men màu. Các trang trí
khá tinh xảo, kết hợp cả tô đắp, khảm sành sứ, vẽ hoa văn màu với nội dung,
hình thức đậm phong cách cung đình Huế như hình rồng, sen, chữ thọ, chữ vạn…; đề
tài ngũ phúc, tứ thời…Đây là đài tưởng niệm đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam.
Tuy Đài Chiến sĩ trận vong là một sản phẩm
của thực dân Pháp; song nhờ giá trị nhân văn và cách thức tổ chức đàng hoàng,
chuẩn bị kỹ lưỡng; trân trọng những giá trị cảnh quan và kiến trúc truyền thống,
các tác giả đã để lại cho xứ Huế một công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị
bền vững.
Nhưng, không biết tự khi nào, người ta đã
lãng quên hay cố tình lãng quên cái tên và lịch sử của một công trình - tới nay
đã ngót trăm năm, làm đẹp cho miền sông Hương núi Ngự, là điểm nhấn đô thị của Huế.

Hai vợ chồng tôi bên Đài Tưởng niệm Chiến sĩ trận vong Huế.
Cái tên mới lưu truyền trong dân gian đã
đành, nhưng cũng có rất nhiều sách vở, tài liệu, văn bản hành chính cũng gọi
công trình này là “Bia Quốc học” ???. Mới đây nhất, dự án trùng tu công trình
cũng mang tên “Trùng tu và cải tạo Bia
Quốc học, công viên Lý Tự Trọng”. Trùng tu - bảo tồn là một ngành khoa học,
trong đó có khoa học lịch sử. Sự thay đổi đó đã thể hiện một cách thiếu khoa học
của công tác bảo tồn, trùng tu, thiếu tôn trọng lịch sử.
Và cũng không biết tự khi nào, hai mặt trước
sau của bia đã bị phá huỷ, trát, quét vôi đè lên những hàng chữ ghi khắc nội
dung. Sau đó lúc thì kẻ khẩu hiệu, khi
thì để trống, để người ta băn khoăn tự hỏi: bia này là bia gì? Và không gian tưởng
niệm nguyên thuỷ nhiều khi lại trở thành không gian lễ hội vui chơi múa hát, mặt
bia lại trở thành nơi trình chiếu, hiển thị thông tin cho sự kiện. Đài không
còn ý nghĩa tâm linh của nó. Cũng cần nói thêm rằng công trình này chưa được
công nhận là di tích lịch sử.
Theo kiến trúc sư Phùng Phu – nguyên giám
đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, Đài Chiến sĩ trận vong được trùng tu gần
đây nhất là năm 1992. Khi đó ông và nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã nghiên cứu
rất kỹ để phục dựng nội dung văn bia. Song khi triển khai thực hiện, có chỉ đạo
chỉ trùng tu kiến trúc, không khôi phục nội
dung văn bia. Và tấm bia không chữ xuống cấp tồn tại đến này hôm nay.
Hãy trả lại cái tên ban đầu của Đài Chiến
sĩ trận vong!
Có thể thông cảm điều này trong những năm
tháng qua bởi sự biến động của thời cuộc và chính trị. Nhưng tới thời điểm bây
giờ, cần phải sòng phẳng, trả lại những giá trị chân của lịch sử. Tiến sĩ Trần
Đình Hằng - Phân viện trưởng Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế -
người theo dõi rất sát dự án trùng tu hiện tại cho rằng: Đài Chiến sĩ trận vong
là công trình mang tính thiêng, cần phải được ứng xử với tinh thần nhân văn và
hoà hợp. “Không thể quan niệm đó là sản phẩm thời thực dân phong kiến, lại chưa
được công nhận là di tích về mặt hành chính, mà ứng xử tùy tiện!.
Còn theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa -
nguyên giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin Thừa Thiên - Huế, đây là một công trình
kiến trúc - nghệ thuật đặc sắc về sự tiếp biến văn hóa Pháp của người Việt thời
kỳ đầu thế kỷ 20. Việc chưa công nhận di tích là sự chậm trễ của cơ quan chức
năng. Nhưng dù chưa được công nhận thì giá trị về kiến trúc - mỹ thuật hiển hiện
trên công trình cho thấy nó cần phải được bảo tồn.
“Theo
tôi, cách tốt nhất là trùng tu đúng nguyên trạng ban đầu. Đừng vì e ngại công
trình này của Pháp xây dựng nhằm tưởng niệm lính Pháp mà né tránh hoặc phủ nhận.
Thời gian gần 100 năm đủ để chúng ta nhìn nhận thực chất và trả công trình này
về lại giá trị lịch sử của nó!”.
Viết đến đây tôi lại nhớ đến Đài Kỷ niệm –
còn gọi là Đài Chiến sĩ ở Biên Hòa. Công trình này được Pháp xây dựng vào năm
1923 với tên gọi “Đài Kỷ niệm người Việt trận vong”.
Lối kiến trúc của đài mô phỏng theo kiểu
Ngọ môn Huế. Đài Kỷ niệm là một công trình đặc sắc, mang màu sắc dân tộc, do
hai giáo sư người Pháp là ông Robert Balick và bà Balick – giáo sư chuyên về đồ
gốm, thiết kế và trực tiếp hướng dẫn thợ và học sinh trường Bá nghệ Biên Hòa
thi công. Từ xa, ta có thể nhìn thấy hai trụ cao của đài được dán bằng gạch gốm
men xanh đen với hai câu đối chữ Hán:
“Dũng sĩ tri thân phò tổ quốc danh bi biểu trụ vạn cổ
chấn lưu phương.
Chinh hồn toàn tiết phân hương quan thu cúc xuân hoa
thiên niên truyền điệt tử”
Mỗi đỉnh trụ đều cẩn búp sen bằng sành với
ý nghĩa mong người đã khuất được siêu thăng cõi Phật. Giữa hai búp sen là hình
mặt trời, dưới có ba chữ Hán “Chiến sĩ đài”. Tấm bia đặt trong đài khắc bốn chữ
Hán sắc sảo “Vị quốc vong khu” để tưởng nhớ người bản xứ bỏ mình vì “Mẫu quốc đại
Pháp”!
Năm 1923, sau năm năm kết thúc cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), khi những nấm mồ nạn nhân chiến tranh
phi nghĩa đã xanh cỏ, khi những giọt nước mắt khóc thương của người thân đã khô
cạn, chính quyền thuộc địa Pháp xây dựng đài để làm gì? Những oan hồn mà tên họ
được khắc trên bia đá kia là ai? Câu hỏi đó không khỏi làm băn khoăn lòng người
khi dừng chân bên Đài Kỷ niệm.
Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp đã vạch rõ
sự mị dân một cách lố bịch của chính quyền thuộc địa Pháp về sự kiện “Những
ngày hội ở Biên Hòa” khi tổ chức khánh thành “Đài kỷ niệm người Việt trận vong”
ngày 21/01/1923. Theo bài diễn văn của công sứ Pháp đọc tại buổi lễ thì tên tuổi
những người được tạc trên bia kia là “Những thanh niên bản xứ tình nguyện rời bỏ
quê hương lên đường sang Pháp để chiến đấu bảo vệ “mẫu quốc” và hiến thân cho sự
nghiệp thiêng liêng cao cả ấy”. Con số thanh niên Việt Nam “tự nguyện hiến
thân” ấy là bao nhiêu? Trong chương “Thuế máu” của tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đã đặt
chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt
trời trên quê hương đất nước mình nữa…” Mỉa mai thay người ta bảo họ tình nguyện,
họ tình nguyện trong cảnh bị vây ráp, dồn ép trước những lính Pháp canh gác, lưỡi
lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn.
Chúng ta đọc lại phần kết chương Thuế máu
của Nguyễn Ái Quốc để hiểu rõ cảnh mị dân lố bịch và phong tục kỳ quái mà chính
quyền thuộc địa Pháp tổ chức “Những ngày hội ở Biên Hòa”.
“…Để lấy tiền bỏ vào quỹ xây dựng Đài kỷ
niệm người Việt trận vong của tỉnh Biên Hòa, ban tổ chức ngày hội đang tích cực
chuẩn bị một chương trình tuyệt diệu. Người ta bàn tán sẽ có nào là yến tiệc giữa
vườn theo kiểu Anh, nào là chợ phiên, nào là khiêu vũ ngoài trời…Tóm lại, sẽ có
nhiều và đủ thứ trò chơi để ai ai cũng có thể góp phần làm việc nghĩa một cách
thú vị nhất đời…Ngày 21 tháng 1 tới, chúng ta hãy đi Biên Hòa, chúng ta sẽ vừa
được dự những hội hè linh đình vui tươi, vừa được dịp tỏ cho những gia đình tử
sĩ Việt Nam ở Biên Hòa thấy rằng chúng ta tưởng nhớ đến sự hy sinh của con em họ.Thật
là thời đại khác, phong tục khác. Những phong tục kỳ quái làm sao!”
Người khẳng định: “Như thế là trong một việc
mà chính quyền thuộc địa đã phạm hai tội ác đối với nhân dân”
Đài Kỷ niệm ở Biên Hòa vẫn còn đó, sừng sững
giữa không gian và thời gian. Gần nửa thế kỷ khói lửa ngập tràn, những kẻ thù
xâm lăng Pháp, Nhật, Mỹ, Pol-pốt, bọn bành trướng bá quyền phương bắc lần lượt
bị thất bại nhục nhã ê chề. Đài kỷ niệm ở Biên Hòa không chỉ là tấm bia câm lặng
về những người đã chết. Qua Bản án chế độ thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã biến
nó thành bản cáo trạng hùng hồn, lên án chế độ thực dân tàn bạo, chà đạp lên một
dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà ngày 01/5/1930, bảy
năm sau ngày khánh thành Đài Kỷ niệm, một lá cờ đỏ búa liềm xuất hiện ngạo nghễ
tung bay ngay tại đây. Rồi mười lăm năm sau, hàng vạn người dân Biên Hòa, đội
ngũ chỉnh tề, tầm vong vạt nhọn, cờ đỏ sao vàng đã rầm rập đi ngang qua đài kỷ
niệm để đón chào nền độc lập tự do vào mùa thu tháng Tám năm 1945 lịch sử. Mùa
xuân năm 1975, Đài Kỷ niệm lại chứng kiến đoàn quân chiến thắng hùng hậu với xe
tăng trọng pháo tiến vào Biên Hòa, hoàn thành Chiến dịch Hồ Chí Minh tại đất Đồng
Nai.
Đài Kỷ niệm Biên Hòa đã được Bộ Văn hóa xếp
hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Đài Chiến sĩ ở Biên Hòa do Pháp xây dựng năm 1923.
***
Đi bên bờ nam sông Hương nhìn sang bờ bắc
thấy rõ mồn một Phu Văn Lâu, thấy xa xa mờ mờ Cửa Ngọ Môn. Có một người đàn ông
tuổi chừng năm mươi đang bó những bó cỏ, cắt từ mép sông đưa lên xe máy. Tôi hỏi:
Chừng này cỏ bán được bao nhiêu ? Ông ta trả lời: Bán được 15 ngàn đồng. Làm việc
cả gần một buổi sáng mà thu nhập chừng đó! Tôi lại nghĩ đến những “ông đầy tớ
dân – công bộc của dân” sống phè phỡn hơn cả ông hoàng bà chúa. Nạn tham nhũng ở
ta bao giờ mới triệt bỏ được nhỉ?
Tìm mãi mới thấy một kios cà phê. Cà phê
Huế không ngon bằng cà phê Trung Nguyên, nhưng đành phải dùng thôi.
Mệt quá và cũng đã đến giờ hẹn với giáo sư
Trần Văn Hối, tôi vẫy taxi Mai Linh để về khách sạn Song Cầm. Sửa soạn xong,
chúng tôi định kêu xe, nhưng nhà văn Nguyễn Thanh Song Cầm nói: Để em đưa đi.
Chúng tôi đến nhà anh chị Hối ở 264 đường Phan Bội Châu, gần Đàn Nam Giao đúng
10 giờ. Nhà văn còn về lo cho việc con gái đầu Aya tốt nghiệp đại học nên xin
kiếu.
Anh chị Hối rất vui khi được gặp lại nhà
tôi. Chị Nụ thì khen nức nở: Hơn 40 năm qua rồi mà chị Minh vẫn trẻ đẹp như
xưa! Bữa cơm thân mật được chị Nụ chuẩn bị từ sáng sớm. Có đủ các món đặc sản của
Huế. Cả gia đình giáo sư có mặt đầy đủ. Anh Hối nhắc lại những kỷ niệm hồi còn
chiến tranh chống Mỹ. Mỗi lần anh từ trường Đại học Sư phạm Vinh ra Hà Nội đều
có ghé nhà tôi ở 59 phố Hàng Đào. Các thầy Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Duy Bình,
Nguyễn Việt Anh…đều có tới thăm gia đình chúng tôi. Thế mà bây giờ đã nhiều người
đi xa. Giáo sư Trần Văn Hối cũng đã xấp xỉ cửu tuần rồi. Ôi, Thời gian!
Tạm biệt Huế thân thương. Tạm biệt Mang Cá
– Kẻ Trài, Bao Vinh, Thành Nội…Tạm biệt những người bạn rất đỗi yêu thương trìu
mến! Chúng tôi lại ra sân bay Phú Bài để về Đồng Nai.
Nơi mà:
Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.
Bên bờ Phước Long Giang, ngày Quốc khánh Pháp - 14
tháng 7 năm 2019, vẫn còn trong Tiết khí Tiểu thử và Đại thử- nồng oi và
nóng bức, ngày 12 tháng 6 năm Kỷ Hợi
Nhà thơ Xuân Bảo