1.
Ba Mạ tôi cho tôi
đi thăm hoàng thành Huế.
(Tiếp
theo Những kỷ niệm về Ba tôi).
I
Năm
1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi là Hoàng đế Gia Long. Ông đã thành công trong việc
thiết lập việc kiểm soát của mình trên toàn bộ lãnh thổ, do đó làm cho Huế trở
thành thủ đô đương thời. Huế được gọi là kinh sư. Kinh thành Huế được vua Gia
Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh
vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng.
Kinh thành Huế hay
Thuận Hóa kinh thành là một tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của triều đại
nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ 1802 đến khi ông vua cuối cùng thoái vị vào
năm 1945.
Trong thời Pháp
thuộc, Huế thuộc Trung kỳ. Huế là kinh đô cho đến năm 1945, khi Hoàng đế Bảo
Đại thoái vị. Chính quyền mới lấy
Hà Nội làm thủ đô.
Đây
là nơi vua Gia Long làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế, để tiếp tục sự nghiệp
của Nguyễn Hoàng là người có công mở rộng bờ cõi phương Nam.
Đoàn
người của Võ tướngThái úy Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng đổ bộ lên cửa sông Thạch
Hãn, thường gọi là cửa Việt Yên, còn gọi là cửa Việt Khách, dựng trại ở Ái Tử
thuộc huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong. Cùng đi có người cậu là Uy Quốc công
Thái phó Nguyễn Ư Dĩ và hàng ngàn binh mã bản bộ từ quý hương Gia Miêu ngoại
trang (Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hóa). Ái Tử là nơi bắt đầu khởi dựng cơ nghiệp
của nhà Nguyễn. Năm 1570, Nguyễn Hoàng chuyển dinh trấn về Trà Bát (nay là làng
Trà Liên). Những địa danh Ái Tử, Trà Bát, Dinh Cát đã mang một sứ mệnh lớn
lao. Chính vì lẽ đó mà khi Phú Xuân trở thành kinh đô, các chúa, vua nhà Nguyễn
đã không quên tôn vinh vùng đất ‘dung thân’ của các bậc tiên phụ trên đất Quảng
Trị là Cựu dinh.
Triều
đại nhà Nguyễn kể từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đặt chân lên cửa Việt Khách, Quảng
Trị đến Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy thì sụp đổ, đúng 387 năm. Tuyên ngôn thoái vị của
hoàng đế Bảo Đại đọc chiều 25 tháng 8 năm 1945 trước cửa Ngọ Môn, chấm dứt triều
đại nhà Nguyễn với 9 chúa và 13 vua.
Bảo
Đại có câu nói nổi tiếng: “Riêng về phần Trẫm,
trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn
làm Vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là Dân tự do,
trong một nước độc lập. Trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh
nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của
chúng ta.”
(Chiếu Thoái vị của Bảo Đại).
Nhưng
rồi ông ta không giữ được lời nói tốt đẹp đó.
Tôi
được sinh ra năm Ất Hợi – ngày 16 tháng Giêng ta, nhằm vào ngày thứ hai 18
tháng 2 năm 1935 – trước hoàng tử Nguyễn Phúc Bảo Long đến gần một năm. Bảo
Long sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, nhằm ngày 10 tháng Chạp cùng năm Ất Hợi. Sinh thời, có lần nhà thơ Thu Bồn nói với tôi: Bà cụ thân sinh nhà thơ kể rằng Thu Bồn sinh trùng ngày sinh của Thái tử nên bà được triều đình ban phát 3 vuông lụa điều.
Lớn lên tôi đã nghe câu ca dao:
Nhà
vua thân với Lang -sa
Để
Tây ăn cướp trứng gà của dân.
Vài
nét lịch sử tên gọi Huế.
Chữ Huế
xuất xứ từ đâu ra? Phải nói rằng có từ Huế
(chữ Hóa mà thực dân Pháp không phát âm được nên đã gọi chệch ra là “ué”).
Trong mẫu tự của người Pháp chữ H, là chữ câm.
Nếu như năm 1301, vua Trần Nhân Tông không
làm cuộc viễn du 9 tháng sang kinh đô Chiêm Thành để tăng thêm quan hệ hữu hảo
láng giềng, sống hòa hiếu với nhau thì đâu có cuộc hôn nhân ngoại giao giữa người
anh hùng chống Nguyên – Mông, thái tử Harijatti - khi lên ngôi là vua Jaya
Shimhavarman III, tức Chế Mân với công chúa Trần Huyền Trân. Đầu năm 1305, Đoàn
sính lễ do Chế Bồ Đài dẫn đầu đem theo hơn trăm người và vàng bạc châu báu cùng
với lời cam kết dâng 2 Châu Ô và Châu Lý để cầu hôn.
Huyền
Trân về Chiêm Thành, mặc dầu trước đó Chế Mân đã có chính thất là hoàng hậu
Tapasi, người xứ Java, nhưng nàng vẫn được tấn phong làm hoàng hậu với mỹ hiệu
là Paramecvari. Nhân dân Châu Ái, Châu Hoan kéo nhau vào khai thác vùng Thuận
Hóa, làm nên một cuộc đại di dân. Phú Xuân (Huế sau này) trở thành kinh đô Đại
Việt. Châu Hóa gồm 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên trở nên sầm uất.
Mà trước đó, như nhận định của Sùng Nham hầu Dương Văn An viết trong Ô Châu cận
lục:” Hoàng Việt ta dựng nước, sách trời
đã định rõ phân giới. Ngoài 4 thừa tuyên, nguời Ái Châu hào phóng chuộng
nghĩa. Người Hoan, Diễn thuần túy hiếu học. Xưa nay đều thường nói như vậy. Hóa
Châu ta tiếp đất Quảng, đất đai hẻo lánh, phong tục quê mùa, muôn vật thưa thớt
không thể so với Ái Châu và Hoan Châu được. Từ khi có Đặng Tất nổi tiếng tướng
giỏi. Dục Tài lừng danh khoa bảng thì quê ta phong thổ và nhân tài dần dần sánh
ngang thượng quốc”.
Vua
Trần Anh Tông tiếp quản vùng đất mới và đổi tên là Châu Thuận và Châu Hóa. Việc
kết hợp hai châu này làm một và đặt tên phủ là Thuận Hóa được thực hiện dưới thời
thuộc nhà Minh. Đến đời nhà Hậu Lê, Châu Thuận và Châu Hóa thành Thuận Hóa và
trở thành một đơn vị hành chính. Năm 1604, Nguyễn Hoàng đã bỏ cấp huyện Điện
Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành cấp phủ, sáp nhập vào trấn Quảng Nam.
Thuận Hóa là vùng đất trải dài từ phía nam Đèo Ngang cho tới đèo Hải Vân. Năm
1626, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh đến làng Phước Yên (Phúc An) thuộc
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên và đổi dinh thành phủ. Năm 1636, Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm
nơi đặt phủ. Năm 1687, Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái, dời phủ chúa về làng Phú
Xuân, thuộc huyện Hương Trà. Năm 1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu dời phủ về
làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên. Năm 1738, Võ Vương Nguyễn Phúc
Khoát lên cầm quyền thì phủ chúa mới trở về lại vị trí Phú Xuân và yên vị từ đó
cho đến ngày thất thủ về tay quân họ Trịnh.
Sự
xuất hiện của tên địa danh Huế. Hiện chưa có nguồn thông tin nào khẳng định địa
danh "Huế" chính thức xuất hiện lúc nào, theo một số thông tin thì: Vua
Lê Thánh Tông có lẽ là người đầu tiên nói đến địa danh Huế trong bài văn nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Trong đó
có câu: "Hương kỳ nam, vảy đồi mồi,
búi an tức, bì hồ tiêu, thau Lào, thóc
Huế, thuyền tám tầm chở đã vạy then".
Những
tài liệu sử học cũ (ngoại trừ Quốc triều Chính biên Toát yếu) khi nói tới Huế,
đều dùng tên Phú Xuân hoặc Kinh đô, hoặc Kinh, chứ không dùng tên Huế.
Bộ
Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim là bộ sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ
quốc ngữ, ngoài nguồn sử liệu truyền thống, tác giả đã sử dụng nguồn sử liệu của
phương Tây, và tên Huế xuất hiện.
Trong
hồi ký của Pierre Poivre, một thương nhân Pháp đến Phú Xuân vào năm 1749, cái
tên Huế xuất hiện nhiều lần dưới dạng hoàn chỉnh là Hué.
Năm
1787, Le Floch de la Carrière đã vẽ bản đồ duyên hải Đàng Trong cho Bộ Hải quân
Pháp, trong đó bản đồ đô thành Huế được vẽ một cách khá rõ và cái tên Huế đã được
ghi như cách người Pháp thường viết về sau: HUÉ.
Trong
gần 150 năm, từ 1802 đến 1945 kinh đô Huế dưới bàn tay khéo léo của người thợ
Việt Nam đã hình thành một hoàng thành nguy nga, tráng lệ. Huế được công nhận năm
danh hiệu UNESCO ở Việt Nam: Quần thể Di
tích Cố đô Huế (1993), Nhã nhạc cung đình Huế (2003), Mộc bản triều Nguyễn
(2009), Châu bản triều Nguyễn (2014) và Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung
đình Huế (2016).
Bên bờ Phước Long
Giang, đêm mùng 10 tháng 10 năm Đinh Dậu.
Nhà thơ Xuân Bảo.
Kỳ sau: II. Huế đẹp và cổ kính.
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa