183. XUÂN ĐINH DẬU HÀ THÀNH DU KÝ.
3.Thăm Bà ChúaThác Bờ.
Nước ta hiện tại
có 127 con đường với tổng chiều dài là 17.530 cây số được gọi là Quốc lộ. Quốc
lộ số 6 từ Hà Nội, qua 3 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, tại điểm cuối ở thị
xã Mường Lay, có chiều dài là 504 km. Con đường này có 10 đèo dốc lớn, trong đó
đèo Pha Đin (Cổng trời) dài tới 32 km, từ km 360 đến km 392.
Quốc lộ 6 nổi tiếng
trong chiến tranh chống Pháp với 2 trận tấn công cứ điểm Giang Mỗ (xã Bình
Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa
Bình) và chiến công của Anh hùng Cù Chính Lan. Còn đó, xác chiếc xe tăng mang
nhãn hiệu USA.
Chiến dịch Hòa
Bình, trong một trận phục kích trên đường số 6 tại Giang Mỗ ngày 7 tháng 12 năm
1951, do bị lộ trận địa, quân Pháp phản kích dữ đội. Cù Chính Lan là người đi
sau cùng, dùng súng máy bắn kiềm chế đối phương cho đơn vị rút, rồi quay lại
tìm người bị thương, đưa được ba đồng đội trở về đơn vị an toàn. Sáu ngày sau,
ngày 13 tháng 12 năm 1951, đơn vị lại phục kích quân Pháp lần thứ 2 cũng tại
Giang Mỗ. Có một xe tăng Pháp tiếp viện, bắn dữ dội vào đội hình, chặn đường
rút và làm nhiều chiến sĩ ta thương vong. Cù Chính Lan nhảy lên xe tăng kề tiểu
liên vào khe hở trên tháp xe bóp cò, nhưng không may tiểu liên bị hóc, chiếc xe
vẫn vừa chạy vừa bắn. Cù Chính Lan hô anh em tập trung lựu đạn cho mình rồi lại nhanh nhẹn nhảy lên xe, giật
nắp quăng lựu đạn vào trong xe, lính tăng Pháp nhặt lựu đạn ném ra và hốt hoảng
lái xe tăng chuyển hướng. Thời cơ diệt xe tăng ngay trước mắt, Cù Chính Lan
dũng cảm mở chốt lựu đạn, chờ cho khói thuốc xì ra được một vài giây rồi mới
ném vào buồng lái, lựu đạn nổ diệt hết lính
trong xe. Chiếc xe dừng lại tại chỗ, tạo điều kiện cho đồng đội hoàn
thành nhiệm vụ. Do thành tích này, anh được tuyên dương trước đại hội chiến sĩ
thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc.
Ngày 29 tháng 12
năm 1951, đơn vị anh được lệnh đánh đồn Gô Tô (Hòa Bình). Tiểu đội anh được
giao nhiệm vụ đột phá hàng rào cho đại quân tấn công. Dù bị thương nặng 3 lần,
anh vẫn cố gắng tham gia chiến đấu cho đến khi tử thương do mất máu.
Di tích ghi dấu
chiến công diệt xe tăng của Cù Chính Lan hiện nằm ở dốc Giang Mỗ cạnh đường 6A
(cũ) thuộc địa phận xóm Giang Mỗ, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà
Bình. Xác chiếc xe tăng, mang nhãn hiệu Mỹ: "B2885498USA", hiện vật chính
của di tích nằm ở giữa khu đất có kè đá xung quanh. Trên tấm bia liệt sĩ Cù
Chính Lan đặt ở nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hoà Bình được xây cất chu đáo,
khang trang, giữa bia có một ngôi sao vàng năm cánh, vành ngoài bia ốp gạch màu
nâu nhạt. Mặt trước bia trân trọng ghi dòng chữ màu trắng: "Liệt sĩ Cù
Chính Lan, Anh hùng Quân đội".
Cuối năm 1956, đầu
năm 1957, Trung ương tăng cường cho Khu Tự trị Thái Mèo một số cán bộ, giúp Tây
Bắc xây dựng về mọi mặt. Tôi là một trong 200 cán bộ tăng cường đó.
Thời gian này,
phần đất biên cương phía bắc chia làm 2 khu tự trị. Khu Tự trị Thái Mèo gồm các
tinh Sơn La, Nghĩa Lộ và Khu Tự trị Việt Bắc.Khu Tự trị Thái - Mèo thành lập
ngày 29/4/1955 cho đến năm 1965 thì đổi tên thành Khu Tự trị Tây Bắc (1965 -
1976). Diện tích: 67.300 km². Dân số đến năm 1975 có tổng cộng chưa đầy nửa triệu
người, gồm các dân tộc Thái, Kinh, Mường, H'Mông, Dao...Lúc này tỉnh lỵ đặt tại
thị xã Sơn La. Có 1 thị xã và 18 huyện.
Khu Tự trị Thái
- Mèo (1955-1962) hay Khu Tự trị Tây Bắc (1962-1975), là một đơn vị hành chính
cũ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là một trong hai vùng lãnh thổ được
hưởng quy chế tự trị thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
***
Năm 1890 Auguste
Pavie, lúc bấy giờ là đại diện của Pháp tại Luang Prabang (Lào) đề nghị chính phủ Pháp công nhận Đèo Văn Trị, một thủ
lĩnh người Thái Trắng ở châu Lai làm lãnh chúa xứ Thái vùng Sip Song Chau Tai.
Họ Đèo được tập quyền cha truyền con nối.
Vào thập niên
1940 khi tình hình Chiến tranh Pháp-Việt ngày càng lan rộng, người Pháp quyết định
tách xứ Thái ra khỏi Bắc Kỳ và chính thức thiết lập Khu Tự trị Thái vào tháng 7
năm 1948. Nằm trong đơn vị này là các sắc dân Lô Lô, Khơ-mú, Dao và H'Mông. Khu
Tự trị Thái bao gồm tỉnh Lai Châu, Sơn La và Phong Thổ. Thủ phủ đặt ở thị xã Lai
Châu cũ, nay là thị xã Mường Lay.. Tiếng Thái và tiếng Pháp là hai ngôn ngữ
chính thức của xứ Thái.
Năm 1950 dưới
chính thể của Quốc trưởng Bảo Đại, theo Dụ số 6 ký ngày 15/4 thì Khu Tự trị
Thái được gom vào cùng 8 tỉnh khác ở phía bắc và Xứ Thượng Nam Đông Dương ở Cao
nguyên Trung phần để thành lập Hoàng triều Cương thổ (tiếng Pháp: Domaine de la
Couronne). Xứ Thượng Nam Đông Dương bao gồm các tỉnh Đồng Nai Thượng, Lang
Biang, Pleiku, Darlac và Kon Tum. Theo đó thì Hoàng triều cương thổ có vị khâm
mạng cai trị nhân danh hoàng đế Bảo Đại. Nhưng không thực hiện được đối với các
tỉnh miền bắc vì chiến tranh. Còn ở Cao nguyên Trung phần thì do đại tá bá tước
Pierre Didelot, con rể của Nguyễn Hữu Hào, chồng của Agnès Nguyễn Hữu Hào, chị
của Nam Phương hoàng hậu làm khâm mạng.
Thực hiện chính
sách lập khu vực tự trị của các dân tộc ở những vùng có điều kiện theo Nghị quyết
của Quốc hội, ngày 29 /4 /1955, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra Sắc
lệnh số 230/SL thành lập Khu Tự trị Thái - Mèo.
Khu Tự trị Thái
- Mèo phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây và phía nam giáp Lào, phía đông nam
giáp vùng Mường Hoà Bình, phía đông có dãy núi Phan Xi Păng ngăn cách với các
dân tộc tập trung ở lưu vực sông Hồng.
Khu Tự trị bao gồm
16 châu: Mường Tè, Mường Lay, Sình Hồ (nay viết là Sìn Hồ), Điện Biên, Quỳnh
Nhai, Sông Mã, Tuần Giáo, Thuận Châu, Mường La, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu, Phù
Yên (tức là toàn bộ hai tỉnh Sơn La, Lai Châu), Phong Thổ (thuộc tỉnh Lào Cai),
Than Uyên, Văn Chấn (thuộc tỉnh Yên Bái). Dưới cấp khu chỉ có cấp châu và cấp
xã, bỏ cấp tỉnh (Sơn La, Lai Châu). Điều này được hợp thức hóa trong Hiến pháp
năm 1959, trong đó quy định Khu tự trị
là đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Ngày 18 /10 /1955,
lập thêm 2 châu Tủa Chùa và Mù Cang Chải.
Ngày 27 /10/1962,
Quốc hội cho đổi tên Khu Tự trị Thái Mèo thành Khu Tự trị Tây Bắc và thành lập
ba tỉnh trong khu: Tỉnh Lai Châu gồm 7 huyện: Điện Biên, Tuần Giáo, Mường Tè, Tủa
Chùa, Mường Lay, Sình Hồ và Phong Thổ. Tỉnh Sơn La gồm 7 huyện: Quỳnh Mai, Thuận
Châu, Mường La, Mai Sơn, Sông Mã, Yên Châu, Mộc Châu và thị xã Sơn La. Tỉnh
Nghĩa Lộ gồm 4 huyện: Than Uyên, Mù Cang Chải, Văn Chấn và Phù Yên.
Đến cuối năm
1962, đầu năm 1963, 3 tỉnh nói trên được thành lập: Sơn La và Lai Châu là tái lập,
còn Nghĩa Lộ là tỉnh mới.
Khu Tự trị Tây Bắc
tồn tại cho tới ngày 27/12/1975 thì giải thể cùng với Khu Tự trị Việt Bắc, đồng
thời những quy định trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 về
cấp khu tự trị cũng bị bãi bỏ theo Quyết định của Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ
2.
***
Sáng ngày
12/2/2017, vợ chồng cháu Kỳ Anh - Bích Phượng đánh chiếc Toyota Innova 7 chỗ xuống
đậu ở đầu Ô Quan Chưởng. Kỳ Anh là con rể bà Bích, trước làm ở Đài Truyền hình
Việt Nam, sau chuyển sang làm việc ở cơ quan đại diện EU tại Hà Nội. Bích Phượng
là con gái bà Nguyễn Thị Ngọc Bích, con gái cả của nhà tư sản Tân Việt, hoa
khôi một thời và là nạn nhân của cái đám cưới 20 triệu đồng hồi năm 1957. Bố
Bích Phượng là nhà báo Vũ Đình Thành – chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô – chuyển
ngành, ông về làm Thư ký tòa soạn báo Thể thao. Bích Phượng làm việc ở Toyota
Việt Nam.
Trong chuyến đi
Hà Nội đầu năm 2015, chúng tôi cũng đã mượn chiếc xe này để đi Yên Tử và Đường
Lâm. Chương trình thăm Thác Bờ là do con gái tôi Nguyễn Thúy Ngọc đề xuất.
Từ Hà Nội vào
cây số đầu tiên khoảng hơn 10 km để gặp Quốc lộ 6, ngay tại cầu sông Nhuệ là km
00. Từ đây lên tới thành phố Hòa Bình là 63 km. Đến cây số thứ 28 đã thấy hiện
ra sừng sững hai hòn núi đá vôi cao vút. Tôi nói với mọi người: chúng ta đã đi
vào miền Tây Bắc rồi đó. Phạm Toản hát khe khẽ: Qua miền Tây Bắc núi vút ngàn trùng xa…. Khi sắp vào thành phố Hòa
Bình, tại ngã ba Dốc Kẽm có tấm biến chỉ đường, mũi tên chìa ra bên trái: Sơn
La 256 km, mũi tên chìa về bên phải: thành phố Hòa Bình 2 km. Thúy Ngọc và cháu
Hà mải theo dõi bản đồ con đường lên Thác Bờ trên Map Google. Xe đi theo hướng
Sơn La, mải tới khi qua Dốc Cun rồi Thúy Ngọc mới la hoảng lên: Nhầm đường rồi!
Chúng tôi quay lại khoảng non chục cây số thì bên trái quốc lộ có tấm biển chỉ
đường vào Thung Nai. Dốc Kẽm và dốc Cun tuy không dài lắm, nhưng khá nguy hiểm
với những tay lái không quen đường. Tôi hỏi Thúy Ngọc: Điểm thăm thú hôm nay là
nơi nào? Thúy Ngọc bảo là Thác Bờ. Vậy thì ta phải quay lại đường vào cảng Bình
Thanh. Từ
Quốc lộ 6 xe chạy hơn 20 km thì đến cảng Bình Thanh. Dọc đường thấy những tấm
biển chỉ tên đường mang tên Tây Tiến. Tôi lấy làm lạ, Tây Tiến là tên một bài
thơ của Quang Dũng nói về Sông Mã, chẳng dính dáng gì với sông Đà? Chẳng hiểu
vì sao con đường này lại được đặt tên là đường Tây Tiến? Nhà thơ Nhân văn-Giai
phẩm này viết bài thơ Tây Tiến từ năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, có những câu đậm
chất bi hùng:
…Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xuân
Áo bào
thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm
lên khúc độc hành.
Nhưng phải đến
hai câu này:
Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà
Nội dáng Kiều thơm…
thì tai họa mới ập xuống cuộc đời của
Quang Dũng. Đi chỉnh huấn về, nghệ sĩ đa tài (và cũng đa truân) Bùi Đình Diệm,
tên thật của Quang Dũng lui về ẩn thân trong nghèo nàn và bệnh tật. Ông ra đi
trong âm thầm lặng lẽ ở tuổi 67! Cháu Thúy Hà dẫn bài thơ Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng không sót một câu và nhắc một vài chi tiết trong bài tùy bút Sông Đà
của cụ Nguyễn Tuân. Thúy Hà là sinh viên năm thứ 3 của Đại học Xã hội – Nhân
văn thành phố Hồ Chí Minh.
***
Đến
một ngã ba, phía tay phải là ra cảng Bình Thanh, phía tay trái là đến Khu Du lịch
cảng Thung Nai. Thung
Nai là một xã miền núi thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, có diện tích 36,38
km². Cái tên Thung Nai bắt nguồn từ thời hồng hoang, nơi đây là một thung lũng
rộng lớn có rất nhiều hươu, nai sinh sống. Tên gọi Thung Nai ra đời từ đó. Xã
Thung Nai giáp với các xã Bình Thanh, Bắc Phong của huyện Cao Phong, xã Ngòi
Hoa và Trung Hòa của huyện Tân Lạc, xã Vầy Nưa của huyện Đà Bắc, dân cư chủ yếu
là người Mường. Thung Nai cách thành phố Hà Nội hơn 100 km.
Với vẻ đẹp kỳ
thú, Thung Nai được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long trên núi" khi sông Đà được
chặn dòng để xây thủy điện. Nhờ hệ thống núi đá vôi rất đặc trưng của Hòa Bình,
khi ngập nước, Thung Nai chẳng khác nào một Hạ Long thu nhỏ. Ở Thung Nai có rất
nhiều địa danh để tham quan, khám phá như bản Mu, lòng hồ thủy điện Hòa Bình, đền
Bà Chúa Thác Bờ, chợ nổi, hang Trạch, động Thác Bờ... Cảnh quan tại Thung Nai đẹp
và hoang sơ với những đảo đá trên hồ và những khu rừng rậm rạp. Đến đây, du
khách còn có dịp thưởng thức những món ăn ngon như cá thiểu hồ sông Đà hun
khói, lợn Mường cắp nách.
Mới hơn 10 giờ,
khi xe chúng tôi trên đường vào Thung Nai thì đã có rất nhiều xe rời Thung Nai.
Từ ngoài đường đã thấy một cô gái chạy theo xe chúng tôi. Thì ra đây là vợ một
chủ tàu tiếp thị. Vào đến cổng của Khu Du lịch, bên tay phải một bãi đậu xe ôtô
đã kín chỗ. Sau khi mua vé xong thì xe chúng tôi được nhân viên hướng dẫn chỗ đậu
xe gần bờ vực, xuống bến tàu.Trông mà thấy ghê ghê. Thúy Ngọc đồng ý thuê chiếc
tàu này với giá 1.300.000 đồng để tham quan các điểm trên lòng hồ thủy điện. Tàu
vỏ sắt, có hai tầng, mỗi tầng trải được hai chiếc chiếu đôi. Chủ tàu nhanh
chóng bắc cầu cho khách xuống. Trên tàu đã có 2 nhóm người xuống trước. Tôi
nghe loáng thoáng Thúy Ngọc thuê nguyên chuyến sao bây giờ lại có khách cùng
đi. Do vậy, chủ tàu chỉ lấy một nửa tiền thuê tàu.
Bến cảng Thung
Nai có rất nhiều tàu lớn tàu bé, đậu san sát. Khách du lịch đến đây rất đông.
Có nhiều chiếc rời bến và cũng có nhiều chiếc đưa khách tham quan xong trở về.
Tại bến cảng Khu Du lịch Thung Nai, phía sau là lòng
hồ thủy điện Hòa Bình.
Điểm tham quan đầu
tiên của chúng tôi là Đền Chúa Thác Bờ.
Theo sử cũ, vào
đầu thế kỷ 15, dưới
thời nhà Lê. Bà Chúa vốn là người Mường. Chúa Thác Bờ tên thật là Đinh Thị Vân,
con gái một gia đình tộc trưởng người Mường ở Kim Bôi, Hòa Bình. Chúa xưa vốn
là tiên nữ, giáng sinh vào nhà họ Đinh. Khi đất nước gặp cơn loạn lạc, bà đã tập
hợp dân Mường liên kết với các dân tộc khác ở vùng đất này, đứng lên đánh đuổi
quân xâm lược. Có
một lần, khi vận chuyển lương thực cho nhà vua, thuyền của bà gặp nạn. Xác bà
trôi về đây và hiển linh. Để tưởng nhớ công lao của bà, người dân đã lập đền thờ
và vinh danh bà là Đức thánh Thác Bờ, là người cai quản cả một dọc Tây Bắc, các
xứ Mường Hòa Bình, xứ Thái Sơn La, Lai Châu.
Cũng có thuyết
cho rằng: Sau khi đã đánh đuổi được bọn ngoại xâm, bà được triều đình giao cho
cai quản vùng đất Mường ở Hòa Bình. Tại đây bà giúp dân ổn định cuộc sống, dạy
nhân dân lên rẫy làm nương, xuống sông Đà thả lưới đánh bắt cá. Chúa Thác còn
là người giúp dân trị thủy, chế ngự con sông Đà cuồn cuộn sóng hung dữ. Khi
thanh nhàn, chúa lại một mình trên chiếc thuyền độc mộc, chèo từ Bến Ngọc, Sông
Đà đi du ngoạn khắp các thắng cảnh.
.Vào năm 1979,
nhà nước quyết định đắp đập ngăn sông làm nhà máy thủy điện Hoà Bình, đền Thác
Bờ xưa không còn nữa, một gia đình họ Quách đã phát tâm và nhờ sự đóng góp của
thập phương qua 5 lần xây dựng và di chuyển đã xây dựng được đền Chúa Thác Bờ
ngày nay.
Chúa được thờ ở
rất nhiều nơi nhưng nổi tiếng nhất vẫn là đền Chúa Thác Bờ tại Thung Nai và đền
Chúa Thác Bờ tại Vầy Nưa, Đà Bắc.
Chúa Thác Bờ rất
hay ngự về đồng, Chúa ngự về đồng thường mặc áo trắng, quầy đen, đai xanh, bên
hông có xà tích bạc. Sau khi chúa về khai chuông rồi một tay cầm chèo, một tay
cầm mồi, bẻ lái dạo chơi trên sông Đà.
Đền Chúa Thác Bờ
là địa danh thắng cảnh hàng năm được rất đông du khách đến chiêm bái, được lập ở
thị xã Hòa Bình, ngay trên hòn đảo giữa dòng sông Đà, ngoài ra còn có một nơi
còn lưu lại thánh tích rõ ràng nhất của Chúa Thác Bờ là Động Tiên_nằm sừng sững
giữa dòng sông Đà cuộn sóng. Từ các địa danh này đi tới nhà máy thủy điện Hòa
Bình rất gần và đều phải đi bằng ca nô mới tới được. Ngày tiệc của Chúa Thác Bờ
là ngày 1/4 âm lịch (có người nói là 12/4 âm lịch).
Gốc tích 2 đền
thờ Chúa Thác Bờ tại Thác Bờ.Trước đây tại xã Hào Tráng, huyện Đà Bắc có một
ngôi miếu và một ngôi đền đều thờ Chúa Thác Bờ. Ngôi miếu và ngôi đền đều có một
thủ nhang riêng. Khi nhà nước đắp đập thủy điện Hòa Bình, thủ nhang ngôi miếu
đưa miếu lên đất Thung Nai, Cao Phong và phát triển thành Đền Chúa Thác Bờ
Thung Nai, còn thủ nhang đền cổ đưa đền lên đất Vầy Nưa, Đà Bắc và trở thành Đền
Chúa Thác Bờ Vầy Nưa.
Đây chính là câu
hỏi mà rất nhiều người quan tâm. Căn cứ sự nghiên cứu về lịch sử và di vật Đền
Thung Nai và Đền Vầy Nưa thì Sở VHTT Hòa Bình đã xác định Đền Vầy Nưa là xuất
phát từ ngôi đền cổ tại xã Hào Tráng, huyện Đà Bắc xưa kia. Hiện đền Vầy Nưa
còn có 2 bức tượng cổ về hai bà Chúa Thác Bờ và cái chuông cổ có trước đây mấy
trăm năm là di vật của ngôi đền cổ. Mặt khác, cả hai bà chúa đều được sinh ra tại
xóm Mó Né, Vầy Nưa, Đà Bắc. Như vậy Đền Vầy Nưa không chỉ là được xuất phát từ
đền cổ mà còn chính là quê sinh của cả hai bà Chúa.
Cả hai ngôi đền
đều thờ Chúa Thác Bờ chứ không phải Đền Thung Nai thờ Chúa Thác Bờ còn đền Vầy
Nưa thờ Cô bé Thác Bờ như mọi người lầm tưởng. Ngoài ra, có người cho rằng Đền
Thung Nai là thờ bà chúa người Dao, còn bên Đền Vầy Nưa thờ bà chúa người Mường.
Đây là một quan niệm hết sức sai lầm, Bà Chúa Thác Bờ là sự hóa thân của cả hai
bà người Dao và bà người Mường chứ không tách bạch là hiện thân của riêng bà
nào. Ý kiến mỗi đền thờ một bà là trái với sắc phong của vua Lê Lợi và phá hoại
tình cảm bền chặt lâu đời của cộng đồng người Dao, người Mường nơi đây.
Vậy đâu là đền
thờ chính của Chúa Thác Bờ? Theo nghiên cứu của Sở VHTT Hòa Bình trên cơ sở lịch
sử và các di vật còn lưu được (Tượng cổ của Chúa Thác Bờ và chuông cổ) thì đã xác định Đền Vầy Nưa là xuất phát từ
ngôi đền cổ. Nhờ đó đền Vầy Nưa đã được công nhận là di tích lịch sử và nhà nước
đứng ra quản lý. Hiện đã có dự án trùng tu Đền Vầy Nưa. Như vậy, Đền Vầy Nưa là
nơi thờ chính của Chúa Thác Bờ.
***
Nhà tôi và mấy
cháu leo rất nhiều bậc tam cấp lên đền. Tôi ngồi lại bên một quày bán nước, thức
ăn và cá nướng. Có 3 người đàn bà cũng ngồi tại đây. Thấy tôi loay hoay tìm chỗ
ngồi, một cô chạy vào quán lấy ra miếng bìa cạc tông đưa cho tôi để lót chỗ ngồi.
Tôi hỏi: mấy cô ở đâu tới? Bọn cháu ở Phú Thọ. Cô tên Kim Oanh, trạc tuổi bốn
mươi, sinh sống ở thành phố Việt Trì. Nhà có cửa hiệu mặt phố nói: Chồng cháu bảo
cháu nên đi du lịch một chuyến cho biết đó biết đây. Anh ấy chọn nơi tham quan
là lòng hồ thủy điện Hòa Bình. Thế là mấy chị em rủ nhau lên đây từ hôm qua.
Chúng cháu nghỉ lại nhà ngôi nhà cổ Cối xay gió.
Nhắc đến Việt Trì tôi lại nhớ hồi còn chiến
tranh chống Mỹ, tôi thường đi viết về các nhà máy ở khu công nghiệp Việt Trì;
nhà máy giấy, nhà máy đường, nhà máy mỳ chính… và xa hơn một chút là nhà máy
thuốc trừ sâu. Tại nhà máy giấy, tôi quen biết và làm việc với giám đốc Lương
Trọng Ngộ. Sau giải phóng anh về làm giám đốc nhà máy giấy Cogido Biên Hòa.
Chúng tôi lại hội ngộ. Mỗi lần đi tầu hỏa lên Việt Trì, xuống ga tôi thấy một
cây quéo cổ thụ mọc đơn độc trong sân ga, tỏa bóng mát một vùng. Quéo cùng họ với
xoài nhưng quả nhỏ hơn và cực chua. Tôi hỏi Kim Oanh cây quéo trong sân ga Việt
Trì có còn không? Cô ấy bảo: vẫn còn.
Tôi mua một khúc
xúc xích làm bằng thịt heo Mường vừa nướng xong, rất thơm ngon để nhâm nhi với
lon bia Halida. Kim Oanh mời tôi ăn bánh giò cũng mới vớt từ nồi luộc ra, đang
còn nóng hôi hổi. Tôi từ chối, nhưng hai cô bạn kia lại bảo: Cụ cắn một miếng
cho vui. Tôi đành xơi một miếng nhỏ và trả lại chiếc bánh cắn dở cho Kim Oanh.
***
Con tàu đã hú
còi gọi khách trở về. Tàu đưa chúng tôi đến động Thác Bờ.
Động Thác Bờ thuộc xóm Bưng, xã Ngòi
Hoa, huyện Tân Lạc, động nằm ngay trên bến Ngọc ở sườn núi phía bắc, trong dãy
núi Chủa bên bờ hồ Hòa Bình. Không chỉ gắn với quần thể di tích đền Bờ thờ Bà
Chúa thượng ngàn có công giúp vua Lê Lợi dẹp loạn phương Bắc, đây cũng từng là
nơi trú chân của nhiều cánh lái buôn ngược xuôi sông Đà khi qua đây gặp sóng to
gió lớn.
Nhà
nghỉ Cối Xay Gió, phong cách Hà Lan ở Thung Nai,mô phỏng câu chuyện Don Kihôtê
Do đó, động Thác
Bờ từ lâu đã thu hút du khách thập phương đến bái vọng và du lịch. Không gian
linh thiêng cùng những thạch nhũ kỳ ảo khiến động Thác Bờ là điểm đến thú vị
dành cho những du khách thích khám phá trên hành trình du lịch Thung Nai mùa
này.
Vào mùa nước cạn,
du khách muốn tham quan động phải leo bộ gần 100 bậc đá từ chân núi đến cửa động.
Mùa nước dâng, du khách đi từ thuyền sang nhà nổi, trên một bè ghép bằng tre
bương chạy dài khoảng 50 m vào thẳng cửa động. Từ trên cửa động, du khách có thể
phóng tầm mắt ra xa để thả hồn mình ngắm toàn bộ dải Đà giang kỳ vĩ, thưởng ngoạn
những kiệt tác thiên nhiên của tạo hóa với núi non điệp trùng và vẻ đẹp của
hang động huyền kỳ.
Động Thác Bờ được
chia làm ba khu, ngoài lòng động với những khối nhũ đá còn có khu vực tiếp du
khách, lên cao khoảng 50 m là khu thờ Phật. Khu vòm động này khá rộng, có không
khí mát lành. Vào sâu trong động, nhìn thấy những khối thạch nhũ muôn hình vạn
trạng được hình thành do cặn của nước nhỏ giọt đọng lại trải qua hàng trăm
nghìn năm, mới thấy sức sáng tạo của Mẹ thiên nhiên là vô cùng vĩ đại. Ta
sẽ bắt gặp những hình thù kỳ lạ và khá sinh động, thỏa sức chiêm ngưỡng và tưởng
tượng ra những hình thù khác nhau của nhũ đá như cá chép hóa rồng, cây vàng,
cây bạc, ô trời, lọng trời, giàn đàn đá, giàn cồng chiêng Mường... Khối dưới đất
mọc lên, khối từ trên sà xuống, vô cùng đa dạng.
Nơi đây, đặc biệt
có cá Măng nướng sông Đà, và các đặc sản núi rừng như thịt gà hấp lá chanh, thịt
lợn Mường nướng mật bày trên lá chuối, măng luộc, cơm gạo nương, rượu táo mèo,
rau rừng đồ chấm lòng cá.
(Còn tiếp: Thăm Thủy điện Hòa Bình)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét