168. NHỚ GIỌNG HÒ O QUÝ.
Hồi
ức của Xuân Bảo.
Một ngày cuối năm.
Trong cuộc họp mặt bàn thành lập Ban Liên lạc đồng hương Quảng Trị ở Đồng Nai,
o Tư người Vĩnh Linh, tuổi đã trên năm mươi, góp vui bằng một điệu hò mái nhì.
Tiếng hò của o Tư làm tôi nhớ tới người con gái làng Thượng Phước – quê ngoại
tôi – cách đây hơn nửa thế kỷ.
Làng Thượng Phước nằm
ven con sông Thạch Hãn, quanh năm nước chảy hiền hòa. Chỉ có những ngày tiểu
mãn, những ngày “tháng bảy nước nhảy lên
bờ,” dòng sông mới đục ngầu phù sa, mang theo bao thứ từ tận tít nguồn Hàn,
trên dãy Trường Sơn trôi về. Bọn trẻ chúng tôi thường đi cặp mé sông vớt củi rều,
có khi vớ được cả những con heo rừng nhỏ, những con mang (mển) còn sống, đem về
thui thui, đun dun, nấu nấu, cả xóm cùng vui.
Trước ngày vỡ mặt
trận Trị Thiên - Huế, dòng Thạch Hãn man mác, dìu dặt bao nhiêu điệu hò thân
thương trên những chiếc đò ngược xuôi bến Trấm và xa hơn nữa là Bơng, là Chả
Cá, Đá Nổi, Đà Nầm, Thác Lo, Ngày đó và cho đến cả những năm đánh Tây, đường
lên nguồn chủ yếu là đường sông. Cứ sau mỗi mùa thu hoạch, những chiếc nốốc to
được chất đầy bắp, sắn chở về xuôi. Những tay thạo nghề sông nước và cũng rất
giỏi giang trong các làn điệu hò mái đẩy, mái nhì. Cho đến khi xuất hiện bài
thơ Cô lái đò của Lương An:
…Đò
em lên xuống Ba Lòng
Chở
người cán bộ qua vùng chiến khu…
Dòng Thạch Hãn như
được thổi thêm luồng sinh khí mới. Đêm đêm, khi vừa lặn mặt trời, bến Trấm rộn
rịp bước chân người cán bộ, anh bộ đội và cả người đi buôn, xuống đò lên chiến
khu. Đò đi trong đêm, đi trong ánh trăng rừng bàng bạc. Hai bên bờ là những
trái núi sừng sững. Và tiếng hò lại được cất lên, hòa vào sương, vào núi, vào
trăng làm chộn rộn lòng người.
Thượng Phước trước
sông, sau độộng. Ở giữa có cánh đồng Bàu Lác, Bàu Ông Phe, hai mùa lúa trĩu hạt
sây bông. Trước Cách mạng tháng Tám, cứ tới mùa cày, mùa cấy, mùa gặt, thợ bạn
từ Lâm Thủy, Câu Nhi, Trà Lộc…kéo nhau lên để mùa nào việc nấy. Cánh đồng làng
tấp nập từng tốp, từng tốp áo dài vá vai khom lưng dưới nắng dãi, mưa dầu làm lụng.
Và để quên đi cái mệt nhọc của công việc đồng áng, tiếng hò được cất lên giữa đất
trời bao la, lan tỏa khắp thôn làng, thấm sâu vào lòng người.
Mạ tôi cũng là một người hò rất hay. Ngày còn
bé, tôi đã được nghe Mạ hò với rất nhiều làn điệu. Hò mái nhì, hay còn gọi là
điệu hò sông nước. Đây là điệu hò khoan thai, theo nhịp mái chèo. Tôi thường
nghe Mạ hò câu hò in đậm vào lòng người dân mất nước:
“Chiều
chiều trước bến Văn Lâu *
ai ngồi ai câu
ai sầu ai thảm
ai thương ai cảm
ai nhớ ai đợi ai trông.
Thuyền
ai thấp thoáng bên sông
Đưa
câu mái đẩy chạnh lòng nước non”.
Nhưng tôi nhớ nhất
là điệu hò Ru em:
Ru em,
em théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu…
Và
những năm ở Hà Nội, tôi đã làm bài thơ Gửi cánh chim xa để nhớ về mẹ, trong đó
có những câu:
…Về bên nôi cũ, đến con tìm
Lời
mẹ ngày xưa ru con ngủ
Ầu
ơi! Giấc ngủ nhẹ êm êm…
***
Tháng 2 năm 1947, giặc Pháp đổ bộ
lên cửa biển Tư Hiền, rồi nống chiếm Quảng Trị. Thượng Phước cách thị xã Quảng
Trị không đầy năm cây số rừng. Nhưng đây là vùng tự do. Bọn trẻ chúng tôi, đứa
thì vào du kích, đứa đi bộ đội, đứa lên Ba Lòng, đứa ra Hà Tĩnh để học, tùy
theo sức mình mà tham gia kháng chiến. Trong chi đoàn Thanh niên Cứu quốc thôn,
có o Quý được trời phú cho một chất giọng tuyệt vời, hát đã hay mà hò lại càng
hay hơn.
Nhưng đêm trăng sáng, chi đoàn tổ
chức sinh hoạt giữa cánh đồng Bàu Lác, cố nhiên là phải vào mùa khô, mùa giáp Tết.
Phần thứ hai, bao giờ cũng có tiết mục liên hoan văn nghệ. Tiếng hát, tiếng hò
lại được cất lên một cách tự nhiên như con người cần hít thở khí trời vậy. Và
không thể thiếu được giọng hò o Quý. O Quý hò, tập thể chúng tôi xô (xô là tiếng
hò đệm xen vào để người hò hò tiếp câu sau). Có một tối, chi đoàn đang vui văn
nghệ thì có mấy anh bộ đội đến chung vui. Quý biết đây là lính của Tỉnh đội bộ,
có bí số là C.210, thường về đóng quân ở
xóm Mộ, làng Thượng Phước. Quý liền cất ngay tiếng hò:
Ai
về nhắn với Hai trăm mười (210)
Mau
lên Thượng Phước kẻo có người đợi trông.
Trong nhóm bộ đội đó có anh Hà, người có dáng thư
sinh, hò đáp:
Nghe tên o Quý đã lâu
Nay eng mới chộ muốn trao câu ân tình.
Quý đỏ mặt xấu hổ. Không ngờ cái buổi giao duyên ban
đầu ấy đã trở thành duyên nợ giữa hai người. Sau cái lụt năm Thìn (1952) họ làm
lễ cưới.
***
Trời
chạng vạng tối. Càng gần Tết, trời Quảng Trị dường như lạnh hơn. Tổ hò địch vận
có ba người. Hai tay súng và O Quý được lệnh chuẩn bị lên đường. Bốt Cầu Bàu Vịt
nằm trên đoạn đường sắt và quốc lộ 1 chạy qua làng Nhan Biều, được chọn cho buổi
hò hôm nay.
Không
biết từ ngàn xưa đến nay có cuộc chiến tranh nào trên trái đất này đã có chuyện
đem điệu hò quê hương rót vào tai kẻ địch để khuyên chúng tỉnh ngộ, trở lại với
cội nguồn dân tộc? Thế mà ở ta lại có chuyện đó. Đây có lẽ là một “binh chủng”
hết sức độc đáo, hết sức đặc biệt. Nên chăng giành cho loại hình này một chỗ đứng
trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Vũ
khí chính ra trận đêm nay của tổ hò là một cái loa tay. Loa làm bằng sắt tây, đầu
nhỏ có gắn miếng tôn loe ra, vừa đủ cho người sử dụng ghé miệng vào nói hoặc
hò, ở giữa có tay cầm và phần cuối loa rộng ra, đường kính vừa bằng cái đọi
canh to. Viết đến đây, tôi lại nghĩ và lấy làm tiếc, giá như hồi đó có cái máy
cát-xét, thi ta cứ hò vào đó, thu băng xong, đêm về đem đặt ở một chỗ xuôi gió,
bấm máy, hò vào tai kẻ địch thì đỡ hy sinh biết mấy! Tổ hò địch vận chúng tôi
có hai khẩu súng mà một khẩu là loại mút-cờ-tông từ thời đệ nhất thế chiến, mỗi
lần bắn súng giật ê cả và một khẩu súng trường Nga dài lêu nghêu, bắn từng phát
một, bốn trái lựu đạn, hai dao găm, hai cái cuốc nhỏ (thực ra đây là cái chét
chuyên dùng làm cỏ lúa vãi), hai cái xẻng quân dụng của Pháp (chiến lợi phẩm của
du kích Triệu Sơn giật bom giết bọn giặc đi càn ở đầu làng Thượng Phước). Những
dụng cụ này dùng để đào hố vừa đủ cho mấy người ngồi để tránh đạn trong bốt bắn
ra. Ngoài những thứ vũ khí ấy, họ còn thêm một thứ nữa mà kẻ thù không sao có
được. Đó là ngọn lửa cách mạng hừng hực cháy trong những trái tim thanh xuân của
họ. Kể cũng lạ, hồi đó chúng tôi đi vào cuộc thử lửa để giành lại độc lập cho Tổ
quốc sao mà thanh thản, vô tư và nhiệt thành đến thế!
Để
bảo đảm cho tổ hò địch vận, ngay từ chiều lúc vừa chạng vạng, tổ cảnh giới, gồm có Dượng Phụ, tôi và Bùi Hữu Tưởng, đã đến
trước vị trí để nắm tình hình, theo dõi xem bọn địch có rải quân phục kích xung
quanh bốt hay không. Nhớ lại hôm đi hò đầu tiên, chính bọn địch cũng ngỡ ngàng
phút chốc khi nghe tiếng hò cất lên. Nhưng đến lúc chúng nhận ra, trong những
câu hò đó là lời kêu gọi của Việt Minh thì chúng bắn xối xả như vãi đạn. Cũng
may là bên ta có sự chuẩn bị hầm hố chu đáo nên không hề hấn gì. Lúc đầu Quý
cũng thấy sợ và giọng hò lạc đi trong tiếng vèo vèo đạn xé về phía mình. Mãi những
lần hò sau rồi quen dần. Giặc bắn cứ bắn, ta hò cứ hò.
O
Quý buộc chặt lại chiếc khăn len quàng cổ. Giọng O lại cất lên:
-
Ơ hờ! Anh ơi, mau mau quay súng
trở về
Đồng
bào đang đợi, vợ ở quê đang chờ
-
Súng trong tay, anh bắn giặc Tây
Về
đây cứu nước đêm ngày em mong.
Một
loạt đạn bay ra. Đèn pha quét loang loáng. Chờ im tiếng súng O Quý lại hò:
- Ơ hờ! Mau về với chính nghĩa anh ơi!
Khỏi làm bia miệng cho đời cười chê.
Lần
này thì bọn giặc trong bốt không bắn ra nữa. Chúng còn gọi vọng ra: Hò nữa đi!
Khi
tiếng súng lặng im là lúc tiếng hò chiếm ngự trời đêm. Tiếng hò cao vút lên tận
không trung. Các vì sao xao xuyến lung linh. Tiếng hò như những lời nhắn gửi của
quê hương, làng mạc đối với những đứa con lầm đường lạc lối. Tiếng hò có sức
bay xa, lan tỏa trong đêm đối với bà con trong vùng địch tạm chiếm, đem đến cho
họ niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến trường kỳ. Tiếng hò
như đọng lại trên từng nhánh lá, cành cây, ngọn cỏ và đi vào lòng người. Đã có
nhiều anh lính ngụy vác súng quay về với kháng chiến, với quê hương.
***
Đêm
nay, không biết là đêm thứ bao nhiêu Quý cùng đồng đội đi hò dịch vận. Lính trong
những đồn bốt giặc đóng từ cầu ga Quảng Trị ra đến Đông Hà đều được nghe giọng
hò da diết của Quý. Năm Con Rắn (Quý Tỵ) sắp đi qua và năm Con Ngựa (Giáp Ngọ -
1954) sắp về. Càng gần thắng lợi càng dày gian nan! Chiến trường Đông Dương
như một lò lửa đã đến hồi sắp tàn. Bọn Pháp dồn quân tướng ra lòng chảo Điện
Biên Phủ. Ở Quảng Trị, những cuộc càn quét, bắn phá của chúng thưa thớt hơn.
Chúng đang co cụm và bên ta thì tăng cường những trận tập kích vào hệ thống
phòng thủ của chúng, tích cực quấy rối địch, trong đó có một mũi: hò địch vận.
Hò địch vận đã phát triển thành một phong trào rộng lớn, có bài bản. Bất kỳ nơi
nào trên đất Quảng Trị có đồn bốt giặc là nơi đó có giọng hò địch vận được cất lên. Những bài (hay câu) hò được sáng tác và in thành những cuốn sách
nhỏ do Ty Thông tin – Tuyên truyền tỉnh ấn hành. Tổ hò địch vận còn sử dụng cả
những câu hò được đăng trên tờ báo Dân (cơ quan của Tỉnh Đảng bộ Quảng Trị), những
bài hò đăng trên báo Cứu Quốc Liên khu 4. Cũng có khi sử dụng những bài hò của
anh chị em trong chi đoàn sáng tác, mà phần lớn là của tôi.
Bốt Ái Tử đêm nay tăng cường thêm
nhiều đèn pha. Ánh sáng ma quái của chúng liên tục quét đi quét lại, tưởng chừng
một con chuột cũng không thoát được sự kiểm soát của chúng. Giặc đang lồng lộn
điên cuồng của thời kỳ dãy chết. Tổ của O Quý được ém sau một động cát. Cái thứ
cát mịn như nhung và trắng tựa bông đang ấp ủ những đứa con vì độc lập của Tổ
quốc mà không quản ngại gian khổ, hy sinh. Gió lạnh nhè nhẹ thổi. Sắp Tết rồi,
đất trời như có sự chuyển mình, giao thoa. Một cây mai vàng đơn độc bên hàng
rào nhà ai đã ra hoa và tỏa ngát hương thơm man mác đến tận chỗ anh chị em đang
nằm đợi đêm xuống để bắt đầu vào cuộc.
-
Ơ hờ! Mau về chính nghĩa anh ơi
Khỏi
làm bia miệng cho đời cười chê
Mới chỉ có một câu hò vừa dứt thì
từng loạt đạn liên thanh nhằm vào nơi có giọng hò bắn xối xả như mưa. Chúng còn
dùng cả súng phóng lựu, cả đại liên bắn tới tấp. Chiếc loa tay thủng lỗ chỗ.
Các tay súng bên ta nổ súng đáp lại và yêu cầu Tổ O Quý rút lui. Pháo sáng sáng rực
một góc trời. O Quý bò ra được một đoạn, vào cái nơi trống trải mà một bên là đường
sắt, một bên là đường số 1 thì một quả đạn pháo của địch nổ. Mảnh đạn quái ác của
giặc đã cướp đi sinh mạng người con gái quê tôi đang độ tuổi thanh xuân, cướp
đi của Quảng Trị một giọng hò mà nếu Quý còn sống thì có thể sánh cùng các nghệ
sĩ Châu Loan, Hồng Lê sau này.
O Quý hy sinh để lại biết bao
thương tiếc cho chi đoàn Thanh niên Cứu quốc, cho gia đình, họ mạc, xóm làng
quê hương. Anh Hà chồng o Quý mải cho tới Hiệp định Genève được ký kết 3 tháng,
mới được tin vợ hy sinh. Những năm tháng ác liệt đó anh theo Trung đoàn 95 đi
khắp chiến trường Bình Trị Thiên, Hạ Lào. Và đầu năm 1954, anh có mặt ở chiến
trường Điện Biên Phủ.
Đứng bờ bắc sông Hiền Lương, anh
gửi theo gió lời cầu nguyện về linh hồn một người con gái Thượng Phước chưa từng được làm mẹ một ngày:
Sống anh hùng,
chết vẻ vang.
Xuân
Bảo
(Viết
lại có bổ sung-Bên bờ Phước Long Giang, ngày 8 tháng 8 năm 2020, sau tiết Lập Thu Canh Tý một ngày)
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét