165. 3-ÁI
TỬ - MỘT VÙNG ĐẤT THIÊNG.
Vì
sao Chúa Tiên lại chọn cửa Việt Yên để đổ bộ lên Ái Tử mà không chọn cửa Tùng Luật
để vào Minh Linh hay chọn Cửa Eo để vào Châu Hóa? Bởi Ái Tử, Trịnh coi là cửa Tử,
còn Nguyễn Hoàng lại tìm ra được cửa Sinh.Vị Chúa 34 tuổi này đã thể hiện sự
tinh thông binh pháp. Ái Tử được dòng sông Thạch Hãn ôm từ ba phía: Bắc, Đông
và Nam. Rào Ái (sông Ái Tử) nằm ở phía Tây như một đường huyền. Vậy là bốn phía
có bốn hào nước sâu đủ chặn bước quân thù để bảo vệ Nguyễn Hoàng đang trong cơn
thất cơ lỡ vận, tìm đường sống!
Trịnh Kiểm biết rằng không bao giờ Nguyễn
Hoàng vào cửa Thuận An để lên Hóa Châu, nơi đó đã có sẵn thành quách, dinh thự
và quan lại của ông ta đang chờ?! Nguyễn Hoàng cũng không vào cửa Tùng Luật
(Minh Linh) mà nơi đó đã có quân Trịnh chiếm giữ. Nguyễn Hoàng đã không bị sập
bẫy. Dưới con mắt của Trịnh, Ái Tử là một địa điểm tầm thường. Nhờ vậy, 13 năm
đầu, Nguyễn Hoàng tạm yên thân xây dựng tính hòa hiếu, thủy chung với cư dân bản
địa. “Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm.
Chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ
không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở
thành một nơi đô hội”
Đến
Ái Tử, định doanh 13 năm (1558-1570), Chúa lại dời đại bản doanh về làng Trà
Bát đúng 30 năm (1570-1600). Rồi đến thôn Trà Liên với 26 năm Dinh Cát,
(1600-1626). 68 năm định đô tại đây đã mang lại những tiền đề vô cùng lợi hại để
dựng nên nghiệp đế. Nguyễn Hoàng với thiên tư dĩnh ngộ của một tài năng dời non
lấp biển đã nhận ra con đường sống còn khi chọn Ái Tử để làm chốn nương thân.
Ái
Tử là một vùng hoang mạc cát trắng nắng vàng trơ trọi. Tuy nhiên Đoan quốc công
lại nhìn rõ thế tiến, thế lùi. Binh bộ đứng trên cồn cát làm điểm tựa cho Trấn
thủ. Binh thuyền nép bên cửa sông phòng khi bất trắc. Sông Thạch Hãn chảy đến
khúc quanh này thì dịu lại như bàn tay người mẹ hiền muốn ôm lấy Ái Tử. Vua
Minh Mạng đã cho khắc hình tượng sông Thạch Hãn cùng với dòng Vĩnh Định vào Thuần
Đỉnh, đỉnh thứ sáu trong chin đỉnh đồng đặt trước sân Thế Tổ miếu trong Hoàng
thành Huế.
Với cặp mắt tinh tường của một nhà quân sự, với
tài thao lược của một vị tướng, với cái tâm, cái tầm của một nhà chiến lược,
Nguyễn Hoàng đã đặt nền móng cho Đại Việt tiến về Phương Nam, mở rộng cương vực
mà ngày nay chúng ta được thừa hưởng một non sông gấm vóc trải dài từ Lũng Cú đến
tận chót mũi Cà Mau, mang tên là nước Việt Nam yêu dấu!
Năm
1613, Nguyễn Hoàng đã gần 90 tuổi, biết mệnh trời đã đến lúc từ
giã cõi trần, ông cho gọi con thứ 6 Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn: “Đất Thuận Quảng, phía
Bắc có Núi Ngang (Hoành Sơn) và Sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía
Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sẵn
vàng sắt, biển có cá, muối, thật là đất dụng võ của người anh
hùng”.
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng mất
ngày 3 tháng 6 âm lịch, nhằm ngày 10-7-1613, thọ 89 tuổi. Chúa Tiên là
người đặt nền móng cho việc lựa chọn vùng Huế làm thủ phủ xứ Đàng
Trong và là kinh đô của Việt Nam thời Nguyễn. Nguyễn Hoàng xứng đáng
là vị khai canh của vùng đất Thuận Quảng và Nam Bộ. Ông có mười
người con trai, trấn thủ Thuận Quảng 56 năm (1558-1613). Sau này triều
Nguyễn truy tôn là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế.
***
Con
trai thứ 6 của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên đã 51 tuổi mới nối
ngôi cha. Phúc Nguyên cũng được vua Lê ban hàm Thái bảo, tước Quốc
công. Nguyễn Phúc Nguyên nối ngôi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng từ năm 1613,
trấn thủ Thuận Quảng. Đây là ông chúa có bản lĩnh, bắt đầu là việc
không thần phục chúa Trịnh, định quốc tính là Nguyễn Phúc. Từ đời
này trở đi, vương triều Nguyễn có chữ đệm là Phúc. Không nộp thuế
cống, trả lại sắc phong cho vua Lê.
4.NÊN TÔ CHỨC LỄ HỘI MANG TÊN NGUYỄN HOÀNG
VỚI ÁI TỬ’
Hiện nay trên toàn cõi Việt Nam, mỗi
năm có tới hàng trăm lễ hội được tổ chức. Nào là lễ hội Hoa Đà Lạt, nào là Lễ hội
Trái cây đồng bằng sông Cửu Long, nào là Lễ hội Cồng chiêng Tây Nguyên…Tính đến
năm 2009, cả nước ta có 7966 lễ hội, chia ra như sau: Dân gian có 7019 lễ hội, Tôn giáo có 544 lễ hội.
10 lễ hội du nhập từ nước ngoài. Địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc
Ninh, Thái Bình, Hải Dương và Phú Thọ…Tính đến năm 2014, Việt Nam có gần 30 lễ
hội được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Trong danh
sách này, Quảng Trị chưa có tên một lễ hội nào.
Quảng Trị năm 2015 có 2 lễ hội lớn. Đó là Lễ hội Thống nhất non sôn g được
tổ chức vào dịp 40 năm Ngày Toàn thắng 30/4/1975 – 30/4/2015, ngay tại địa điểm
đầu cầu Hiền Lương và Lễ hội Hùng thiêng đất nước được tổ chức tại Thành cổ Quảng
Trị, nhân Ngày Thuong binh Liệt sĩ 27/7 hàng năm, (gọi chung là Lễ hội Đêm
Thành Cổ - thiếu chữ Quảng Trị ,NV)
Tôi muốn nêu lên đây ý tưởng tổ chức lễ hội mang tên NGUYỄN HOÀNG VỚI ÁI TỬ hay là VÙNG ĐẤT THIÊNG DỰNG NGHIỆP ĐẾ NHÀ NGUYỄN.
Lễ hội sẽ được tổ chức hàng năm hoặc vào ngày kỵ của Nguyễn Hoàng - ngày mùng
Ba tháng Sáu Âm lịch hoặc một ngày khác không trùng với các lễ hội của tỉnh.
Kịch bản và Lời bình có thể mời
những văn nghệ sĩ, chuyên gia giỏi về nghề viết kịch bản; (như ở Quảng Trị có
thể mời Nghệ sĩ Nhân dân Xuân Đàm, nhà thơ Xuân Đức…và các nhà thơ trong và
ngoài tỉnh, chủ yếu là lực lượng văn nghệ sĩ của Hội Văn học – Nghệ thuật Quảng
Trị)
. Tôi thử phác thảo ra những chương như sau:
. Tôi thử phác thảo ra những chương như sau:
Chương Một – Khởi
nguồn dựng nghiệp đế.
Chương Hai - Ái Tử với 7 vại nước đầy.
Chương Ba – Mở rộng
bờ cõi về phương Nam.
Chương Bốn (cuối) –
Tổ quốc Việt Nam yêu dầu
Chương Một. Mở đầu (trên màn ảnh lớn) là hình ảnh một đoàn chiến thuyền vượt sóng to,
gió lớn, đổ bộ lên cửa Việt Yên. Đứng trước mũi thuyền lớn là hai vị: Võ tướng Hạ
Khê hầu Đoan Quận công Nguyễn Hoàng và Uy Quốc công Thái phó Nguyễn Ư Dĩ.
Trên sân khấu lớn sẽ có những cảnh: đông đảo
nhân dân bản địa mừng vui đón đoàn. Trong khi đó Lời thơ hào sảng ngân lên (trích thơ của nhà thơ…). Đồng thời có Lời
bình đọc to lồng trong tiếng nhạc nền, có thề là những bản Lưu thủy hành vân hoặc
một vài bài theo cổ thể.
Chương
Hai. Thay hình (trên màn ảnh lớn) là hình ảnh một vùng
cát trắng hoang sơ, phủ đầy cỏ dại. Gió Nam thổi bay những độông cát mịt mù trắng
xóa dồn dập tận chân trời.Một đoàn người chân trần, nón lá, áo tơi lầm lũi bước
đi những bước đi nặng nhọc, mệt mỏi. Có người ngã vật ra do nóng và khát. Lời
thơ não nề cất lên, tả rõ đây là vùng Ô châu ác địa, dân tình sống trong cực khổ
nghèo nàn, có thể tả nỗi mong chờ một điều may mắn nào đó hoặc là một vị cứu
tinh đến để mang lại cho họ cuộc sống đủ đầy, no ấm.
Trên sân khấu lớn sẽ có những cảnh: Mặt
trước đặt 7 chum nước (chum to và thật chứ
không dùng đạo cụ). Một cụ già (dân bản địa) râu tóc bạc phơ, lưng trần,
đóng khố tiến đến nơi đứng của 2 vị Nguyễn Hoàng và Nguyễn Ư Dĩ (chính giữa sân khấu) và tâu lên bài thơ
Dâng Nước. Lời thơ vang lên trong tiếng nhạc bát âm và đoàn vũ công múa lượn.
Trang phục là của dân bản địa thời đó.
(Còn
tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét