159.Bài thơ Nguyên
tiêu vang vọng mãi ngàn sau.
Tiểu luận của Xuân Bảo
Nhân Ngày Thơ Việt Nam, tôi cho đăng lại bài này để góp tiếng
nói của mình vào dịp cả nước hân hoan đón chào Tết Nguyên tiêu Bính Thân. Mong
rằng từ nay và mãi mãi về sau .Ngày Thơ Việt Nam sẽ là Ngày hội của nền thi ca
Việt Nam
.
Trong Lời Điếu của cố Tổng bí thư Lê Duẩn đọc trước quảng trường Ba Đình sáng 6-9-1969 có đoạn viết : “ Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Bác Hồ muôn vàn kính
yêu của chúng ta không những được nhân dân Việt Nam tôn vinh là vị
anh hùng dân tộc mà còn được cả thế giới ngợi ca. Đặc biệt trong Nghị quyết cùa
Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) đã “ ghi
nhận rằng năm 1969 sẽ được đánh dấu bằng Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là một nhà văn
hóa lớn”.
Đúng như vậy, Người là
một bậc đại nhân, đại trí và đại dũng. Và Người xứng đáng được tôn vinh là một
nhà thơ lớn, một thi hào của Việt Nam. Trong kho tàng đồ sộ về văn hóa, Người
đã để lại cho muôn đời sau có một bài thơ được liệt vào tác phẩm bất hủ, danh
bất hư truyền là bài thơ Nguyên tiêu. Và giờ đây hàng năm bài thơ đó được lấy
làm tâm điểm cho Ngày Thơ Việt Nam.
Bài thơ Nguyên tiêu ra
đời trong hoàn cảnh nào ?
Tính từ đêm
19-12-1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra cho đến Tết Nguyên tiêu, tháng
Giêng năm Mậu Tý (1948), nhân dân Việt Nam đã tiến hành công cuộc bảo vệ Tổ
quốc bằng vũ lực đã được hơn 400 ngày. Với chiến thắng lẫy lừng Thu Đông năm
1947, với chiến thắng Lũng Mười, Mường Him đầu năm 1948 đã đưa cuộc trường kỳ
kháng chiến của nhân dân ta vào một giai đoạn mới, hết thời kỳ phòng ngự chuyển
sang thời kỳ cầm cự để rồi tiến tới thời kỳ tổng phản công. Mà đỉnh cao chói
lọi là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-1954).
Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng mở rộng đầu xuân Mậu Tý (1948) để nhìn lại hơn một năm chống
Pháp, đồng thời đề ra mục tiêu mới cho cuộc trường kỳ kháng chiến. Sau cuộc họp
ấy, Bác trở về căn cứ trên một chiếc thuyền. Trời đã khuya lắm rồi. Trước cảnh
sông nước mênh mang, ánh trăng rằm như dát vàng lên giang sơn cẩm tú Việt Nam.
Nguồn thi hứng từ trong sâu thẳm trái tim của vị thống soái Việt Nam tuôn trào:
Kim dạ nguyên tiêu
nguyệt chính viên
Bác bảo cho chúng ta
biết : đêm nay, rằm tháng Giêng, trăng tròn., khi Người nhìn từ con
thuyền lững lờ trên sông nước chiến khu nhìn lên bầu trời và thấy ông trăng
ngời ngợi. Trăng của tháng đầu năm, trăng nguyên đán và tròn trăng
soi tỏ cảnh vật. Người thơ Hồ Chí Minh đã chuyển ý từ trăng sang xuân. Trăng
khai xuân tràn đầy sức sống đã cho ta thấy rõ:
Xuân giang, xuân thủy
tiếp xuân thiên
Sông xuân, nước xuân
và trời cũng xuân. Xuân, mùa đẹp nhất trong năm. Tiết trời ấm áp. Cây cối đâm
chồi nẩy lộc. Sức sống mãnh liệt bừng lên. Câu thơ thứ hai này làm cho ta cảm
nhận được một tứ thơ gợi cảnh dồn dập bay vút từ dòng sông mênh mang lên tận
trời cao. Bản chất cái đẹp đuợc phát hiện. Giữa trăng và xuân
có sự giao hòa kết hợp thật mới lạ trong thơ của Người. Trăng xuân đó hòa quyện
cùng đất nước, sáng bừng sắc màu hội họa dưới cái nhìn của nhà thơ lung linh
tỏa sáng, diệu kỳ!
Nhưng Bác của chúng
ta, Người Cha đẻ của lực lượng vũ trang Việt Nam không phải ngồi trên thuyền
mịt mờ khói sóng để ngắm trăng, để an nhàn “thưởng nguyệt chiêm hoa” như bao
nhà thơ khác. Ở đây, cuộc chiến đấu với quân thù để giành lại độc lập, tự do,
thống nhất đã làm cho tứ thơ trở nên hiện thực. Ra trận, chàng Vệ quốc quân sau
này trở thành anh lính bộ đội Cụ Hồ lại thấy “trăng treo đầu súng”. Trăng cũng
vào trận đánh. Có gì đẹp hơn thế! Và nhà thơ Hồ Chí Minh đã nhân cách hóa ánh
trăng, coi trăng là bầu bạn thân thiết khi : Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Việc
quân đang bận xin chờ trăng ơi!
Yên ba thâm xứ đàm
quân sự
Thì ra, vị Tổng tư
lệnh tối cao đang bàn việc quân cơ. Trước đó trong bài Cảnh
khuya, Người đã không sao ngủ được vì nỗi lo cho dân, cho nước trước
hiểm họa xâm lăng của giặc Pháp. Dù vậy, người thơ Hồ Chí Minh vẫn nghe, vẫn
thấy ánh trăng với vẻ đẹp huyền diệu, quyến rũ :
Tiếng suối trong như
tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ,
bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ
người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi
nước nhà
Khói sóng trong thơ cổ
điển thì đã có “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Thôi Hiệu – Hoàng Lạc Lâu)
hoặc “ Yên ba thâm xứ hữu ngư châu” (Cao Bá Quát – Thú Nhàn). Ở đây “yên ba
thâm xứ” của Hồ Chí Minh đã làm mới vẻ đẹp thơ cổ. Nơi xa xăm khói sóng không
còn là nỗi buồn nhớ cánh hạc vàng không trở lại, không thấy con thuyền đánh cá
(hữu ngư châu) buông xuôi thế sự mà yên ba thâm xứ của Bác là để bàn việc quân,
để hành động. Vẻ đẹp đầy hiện đại, mặc dù Bác đã vận dụng thơ cổ điển.
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Nữa đêm mới bàn xong
việc quân. Nửa đêm mới trở về. Cảm hứng thơ lại dào dạt với ánh trăng, thật
lãng mạn vô cùng: Trăng đầy thuyền. Con thuyền chở những người có phận sự là
bàn việc nước thì giờ đây trở về chở đầy trăng. Ý thơ rất quen mà lạ. Và hết
sức lạc quan vì cuộc chiến mới bước sang năm thứ hai. Trước mắt, còn những “ba
ngàn ngày không nghỉ” để rồi có một Điện Biên Phủ lẫy lừng “nên vành hoa đỏ,
nên thiên sử vàng” (Tố Hữu). Chúng ta đọc lại toàn bài để cảm thụ hết vẻ đẹp
của bài thơ theo thể Đường luật. Chỉ có 4 câu nên có thể gọi là Tứ tuyệt Đường
thi. Bài thơ mang vẻ đẹp và cốt cách Đông phương:
Kim dạ nguyên tiêu
nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy
tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm
quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Và bản dịch bài thơ Nguyên
tiêu sang Việt ngữ của Xuân Thủy
Dịch thơ là một việc
rất khó. Khó bởi vì đang từ một ngôn ngữ này chuyển sang một ngôn ngữ khác thì
khó mà dịch đúng ý tứ của nguyên tác. Nhà thơ, nhà ngoại giao Xuân thủy - người
học trò nhỏ của Bác - sau này là Bộ trưởng Ngoại giao của nước ta và tham gia đàm
phán hội nghị Paris. Những năm ở Việt Bắc -Thủ đô gió ngàn – Xuân Thủy có vinh
dự được ở gần Bác nên khi bài thơ Nguyên Tiêu ra đời thì tức
khắc được ông dịch ra tiếng Việt như sau:
Rằm giêng lồng lộng
trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu
trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc
quân
Khuya về bát ngát
trăng ngân đầy thuyền
Không biết có chính
xác hay không mà Thư Trai trong tạp chí Thơ dẫn lời của Bác khen Xuân Thủy: “Dịch
lưu loát, giữ được chất thơ, nhưng dòng thứ hai có ba chữ xuân hòa
với nhau mà bản dịch chỉ có hai chữ xuân, thế là ý thì đủ mà chữ
thì thiếu”. Tuy nhiên, bản dịch đã tồn tại hơn nửa thế kỷ qua và rất
nhiều người biết đến. Đây là phần thưởng quý giá dành cho nhà thơ Xuân Thủy.
Mặc dù (tôi còn nhớ rõ) sau ngày tiếp quân Thủ đô, những năm 1955,1956,1957 ở
Hà Nội có rất nhiều nhà thơ dịch bài thơ Nguyên Tiêu của Bác, trong đó có bản
dịch tương đối hoàn hảo của các nhà thơ Nam Trân, cụ Bùi Kỷ v.v..
Những năm Bác chưa đi
xa vào cõi vĩnh hằng, cứ mỗi lần Tết đến Xuân về nhân dân cả nước mong ngóng
được nghe Thơ Chúc Tết của Bác. Đó là một nét đẹp văn hóa của nhân dân ta và là
tấm lòng kính yêu vô hạn dối với Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, chúng ta đã
có Ngày Thơ Việt Nam. Âu đó cũng là cách làm để tưởng nhớ đến nhà thơ cách mạng
Hồ Chí Minh.
Nhà thơ là chiến sĩ
Chiến sĩ hóa nhà thơ
Bác của chúng ta là
như vậy đó.
( bên bờ Phước Long Giang, ngày
13 tháng Giêng Bính Thân)
Nhà
thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét