257. ÔNG
NỘI TÔI LÀM LÝ TRƯỞNGTHỜI BẢO ĐẠI.
Tính
theo thời gian mà Phả ký Tộc Nguyễn Ngọc có hiện tại thì dòng họ này đến hiện
nay là 16 đời, tương ứng với thời điểm Chúa Tiên vào đây. Làng Đại Hào có họ
Nguyễn tám phái mà phái Nguyễn Ngọc của tôi là lớn nhất. Chi của cha tôi có
nhiều người đỗ đạt.
Theo
Phả ký Nguyễn Tộc làng Đại Hào ghi chép từ đầu thế kỷ 20 thì Ông nội
tôi nhiều lần lều chõng vào kinh đô ứng thí. Ông đỗ vào Trường Nhì Bạch
Giáo sư trúng sĩ bổ. (theo ghi chép ở cuốn Chi phổ họ Nguyễn Tám phái làng
Đại Hào). Ra trường, ông được bổ về dạy học (thầy dạy chữ Nho) ở làng Lâm Xuân,
huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Lâm Xuân là làng nghề dệt chiếu rất đẹp. Ở đây
có một hủ tục là không cho con gái lấy chồng ngoài làng, bởi sợ mất nghề. Cũng
như ở Bắc Ninh, làng Vân có nghề nấu rượu nổi tiếng cho nên làng không gả con
gái cho nơi khác. Các bậc bô lão trong làng đề nghị ông tôi làm thơ nói lên tác
hại của hủ tục này. Ông tôi đã làm một bài vè để cho dễ nhớ. trong đó có những
câu:
…Ba mươi tuổi tác đó chừ
E lẫn thẩn mà trẻ qua già tới
Ngọc phải giá không buông còn đợi?!
Thế nhưng ông tôi quyết về quê: Văn chương
phú lục chẳng hay/Trở về làng cũ học cày cho xong. Triều đình dường như tiếc
cái công lao dùi mài kinh sử nên cũng cho ông tôi làm lý trưởng đến gần chục
năm. Lý trưởng còn được gọi là xã trưởng chức tương đương như chủ tịch phường,
xã bây giờ. Dân Quảng Trị quê tôi phát âm không chuẩn nên thường gọi xã ra
thành ông xạ. Lúc còn nhỏ, những khi ba mạ cho về thăm làng, tôi thường được
ông nội dạy bảo bằng những câu chữ nho như: nhân chi sơ vốn bản thiện, nhân bất
học bất tri lý - ấu bất học lão hàn vi…Ông dạy tôi học chữ thánh hiền bằng những
bài học vỡ lòng trong cuốn Tam thiên tự như Thiên trời địa đất. Cử cất tồn
còn. Tử con tôn cháu. Lục sáu tam ba. Gia nhà quốc nước. Tiền trước hậu sau.
Ngưu trâu mã ngựa…Ông còn dạy tôi viết chữ Hán. Ông đem ra cái mâm gỗ, lấy cát
Tiểu Trường Sa (tức là loại cát lấy ở đoạn giữa cắt khúc đồng bằng và miền
duyên sơn). Ở Quảng Trị ngày nay còn nhiều từ đoạn Thành Cổ đến các xã thuộc
huyện Hải Lăng – bây giờ đoạn này còn được gọi là “Đại lộ kinh hoàng” trong
“Mùa hè đỏ lửa” năm 1972. Cát được đổ vào xâm xấp lòng mâm, sau đó dùng ngón trỏ
viết tập. Thí dụ: Chữ Thiên gồm hai nét ngang và một nét phẩy, một nét mác. Viết
xong, lắc cái mâm cho cát trở về bằng phẳng như ban đầu. Ở cái thời đó, cách tập
viết như thế quả là một sáng kiến vĩ đại, vừa tiết kiệm giấy lại vừa luyện cho
nhuần nhuyễn quen tay. Đến khi nào thuần
thục thì mới dùng bút nho viết lên giấy bổi.
Tôi cũng thường được ông cho theo ra đồng. Tuy
là lý trưởng nhưng ông cũng phải lam lũ ruộng nương như những lực điền. Tôi còn
nhớ như hằn sâu vào ký ức thơ ngây của tôi về cái cung cách làm việc của những
công bộc của dân thời đó. Chuyện là như thế này: Ông tôi đang cày ruộng. Có một
người dân cần lên quan có việc gì đó nên phải lặn lội ra đồng để tìm xã trưởng
ký chứng vào đơn. Ông tôi họ (dừng) trâu lại và lên bờ gặp đương sự. Sau khi
rút cây bút nho, thường dắt tai, Ông tôi mút vào miệng cho ướt đầu thấm mực, ký
chứng vào đơn, Ông tôi lấy cái triện vận trong lưng quần ra, hà hơi cho ẩm hơi
nước rồi kê lá đơn vào đầu gối ấn cái triện vào, (triện, miền bắc gọi là con dấu,
miền nam gọi là cái mộc) nơi có chữ ký của ông. Hồi đó dân ta không mặc quần dải
rút hay lồng bằng dây thun như ngày nay mà mặc quần lưng vận.
Ông tôi là người hay chữ. Chữ nho
ông viết rất đẹp. Ông được dân làng rất mến mộ. Trong làng nhà nào có việc quan
hôn tang tế đều đến xin ông tôi cho đôi câu đối, hoành phi hoặc văn ai, văn điếu.
Mặc dù làm việc “nước”, nhưng ông tôi cũng phải lao động cật lực để nuôi sống
gia đình. Khi việc làng, ông được trọng vọng ngồi chiếu trên. Khi hết việc, ông
tôi chỉ làm người dân như mọi người. Nhũng ngày giáp Tết Nguyên đán, ông tôi
thường mang chiếu, tráp, giấy điều, mực nho ra ngồi dưới tán cây đa cạnh đình
làng để viết thuê câu đối. Viết đến đây tôi lại nhớ đến nhà thơ Vũ Đình Liên với
bài thơ Ông đồ nổi tiếng. Vì thế tôi càng nhớ và thương ông tôi da diết.
Mệ nội tôi, quê phường Dương Xuân,
làng An Cư, tổng An Cư cùng phủ Triệu Phong là cháu quan đại thần Nguyễn Văn Tường.
Quan Nguyễn Văn Tường sinh năm 1824, theo phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết
nên bị thực dân Pháp bắt ông giam xuống tàu chở vào Gia Định, rồi chở ra đày ở
đảo Tahiti và chết tại đó năm 1886.
Bên
bờ Phước Long Giang,ngày 25/12/2018. Noel 2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét