205."Dân ta phải biết sử ta".
Bài số 8.Đô đốc nữ tướng Bùi Thị Xuân
Sinh:1771. Mất:1802. Nguyên nhân mất: Gia Long xử tử
Quê
quán thôn Xuân Hòa (nay thuộc thôn Phú
Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).. Con cái TrầnThị
Cúc (Bích Xuân).
Bùi
Thị Xuân là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư gồm Bùi Thị Xuân • Bùi
Thị Nhạn • Trần Thị Lan • Nguyễn Thị Dung • Huỳnh Thị Cúc, là vợ Thái phó Trần Quang Diệu và là một
Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử .
Bà
là con gái của Bùi Đắc Chí. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị
Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền, nàng là người có nhan sắc, khéo
tay và viết chữ đẹp. Đến khi theo học võ với Đô thống Ngô Mạnh, bà cũng nhanh
chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm. Nhờ vậy sau này, người con gái này đã
dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ
tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến
ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn
cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc.
Với
tài nghệ (ngoài tài kiếm thuật, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi) cộng
với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng
lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ
buổi đầu.
Theo
tài liệu, trong trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789), bà chỉ
huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) chỉ huy.Trong
những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh dẹp các phe chống đối vương
triều mới (nhà Tây Sơn), trong số đó có lực lượng của hoàng thân nhà Lê là Lê
Duy Chỉ cấu kết với Tù trưởng Bảo Lạc (Hà Tuyên)...
Giữa
lúc nhà Tây Sơn đang từng bước ổn định tình hình trong nước, ngày 29 tháng 7
năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Kể từ đấy vương triều này bắt đầu
suy yếu do vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) còn nhỏ, lại bị người cậu ruột là
Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền. Thời
gian này, Bùi Thị Xuân được cử vào trấn thủ Quảng Nam, còn chồng bà (Trần Quang
Diệu) thì được cử vào Diên Khánh chống ngăn quân Nguyễn. Đến khi nghe tin cha
con Bùi Đắc Tuyên bị tướng Võ Văn Dũng bắt giết, Trần Quang Diệu cả sợ, phải
kéo quân về kinh đô đóng ở bờ Nam sông An Cựu, thì bà cũng nhận được lệnh hồi
triều.
Nghe
mật thám báo tin nội bộ nhà Tây Sơn đang lục đục, chúa Nguyễn Phúc Ánh liền tổ
chức ngay những cuộc tấn công. Nhưng quân Nguyễn vừa tiến vào thành Quảng Nam,
thì bị đánh một trận tơi bời. Tức tối vì thua mưu trí đàn bà, chúa Nguyễn thề sẽ
sớm rửa mối nhục[4]. Thấy Chúa Nguyễn rút lui hết, đến lúc ấy, Bùi Thị Xuân mới
kéo quân về Phú Xuân để cùng chồng dàn xếp việc triều chính...
***
Mùa
xuân năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy vào trấn giữ Nghệ An,
còn tự mình cầm quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Trong chiến dịch này, Bùi Thị
Xuân được lệnh đem 5.000 quân đi hộ giá.
Thấy
thế trận ngày càng bất lợi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết vào lũy
Trấn Ninh, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt
đẫm áo giáp. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ
chúa Nguyễn cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh
bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn
tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh. Bùi Thị Xuân bèn nắm áo ngự
bào của nhà vua để khuyên cố đánh. Nhưng khi nghe tin tướng Nguyễn Văn Trương
phá tan thủy binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình), cướp được hầu hết tàu
thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng; thì đội quân của bà hốt
hoảng bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy...
Đây
có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế.
Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không
sao gượng lại được nữa.
Được
tin đại quân Tây Sơn thua to ở Trấn Ninh, Tư đồ Vũ Văn Dũng và chồng Bùi Thị
Xuân là Thái phó Trần Quang Diệu, dù biết không thể giữ được Quy Nhơn, nhưng vẫn
gắng gượng đến tháng 3 cùng năm trên mới rời bỏ thành, đem binh tượng đi đường
thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, ý là để hội quân với vua Cảnh Thịnh cùng lo
chống giữ.
Sử gia C.B.Mabon kể: Trần
Quang Diệu cùng vợ và con gái, dẫn theo một số tàn quân chạy ra Bắc bằng đường
thượng đạo Ai Lao. Đến châu Quy Hợp, Diệu xuống Hương Sơn thì biết tin Nghệ An
đã mất. Quân sĩ của Diệu bỏ cả rồi, mấy hôm sau vợ chồng Quang Diệu đều bị bắt
cả...Vua Cảnh Thịnh cùng hai em và vài tướng tá vượt qua sông Nhị Hà, tính trốn
lên vùng Thượng du cũng bị dân chúng bắt và đóng cũi nộp cho quân Nguyễn.
Một giáo sĩ phương Tây tên là De La Bissachère
(người có dịp chứng kiến buổi hành hình) được viết năm 1807, mô tả lại cái chết
của mẹ con bà Bùi Thị Xuân, sử gia Phạm Văn Sơn đã có lời giới thiệu như sau: -Mẹ con bà Bùi Thị Xuân, người ta (ý nói đến
vua Gia Long) cũng rất căm thù, nên cũng dùng hình phạt dã man nhất. Nguyên
nhân là bà đã điều khiển binh sĩ đánh vào lũy Trấn Ninh hết sức kịch liệt, đã
làm cho chúa Nguyễn và các tướng sĩ có phút phải thất thần, tưởng chừng nguy khốn
đến nơi.
“Đứa
con gái trẻ của bà (Bùi Thị Xuân).
Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy.
Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách: Con phải chết
anh dũng để xứng đáng là con của ta!...Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn
kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu
voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng
bắn hỏa pháo, đâm
cây nhọn sau mông con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy
bà tung lên trời...Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi
bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống to lên những tiếng đầy sợ hãi khiến
hàng vạn người xem hoảng hốt theo” (Theo De La Bissachẻre).
Công
luận bình phẩm, hầu hết đều khen ngợi oai danh và tiết tháo của Bùi Thị Xuân.
Theo sử liệu, sở dĩ được vậy là vì trong cuộc đời bà có mấy sự việc đáng chú ý
sau:
1.Có tấm lòng thương dân. Gặp năm mất mùa, nhiều phủ huyện ở trấn Quảng
Nam sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Triều thần lập tức tiến
cử Bùi Thị Xuân ra nơi đó làm Trấn thủ. Đến nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các
hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hội
lộ...bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra, bà còn
ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và mạnh dạn ra
tuyên cáo rằng: Ai vác cày bừa, nông cụ thì được coi là dân lành...Vì thế nạn
trộm cướp và chống đối ở Quảng Nam (nhất là ở huyện Quế Sơn) nhanh chóng chấm dứt,
dân chúng lại được yên ổn làm ăn. 2. Không
vì tình riêng. Thái
sư Bùi Đắc Tuyên, người làng Xuân Hòa (huyện Tuy Viễn), là cậu của vua Cảnh Thịnh,
và là chú của Đô đốc Bùi Thị Xuân. Năm 1795, vì ông bị Võ Văn Dũng giết chết vì
tội chuyên quyền. Bấy giờ, có nhiều người nghi ngại Bùi Thị Xuân, vì bà là cháu
ruột của Đắc Tuyên. Nhưng khác với những gì xầm xì, bà đã không hề thù oán người
giết chú ruột mình, cũng như lợi dụng sự rối ren đó mà đi theo đối phương hay
tìm nơi cát cứ.3.Nỗ
lực đến giây phút cuối cùng.
Đề
cập đến tinh thần quyết chiến thắng của Bùi Thị Xuân trong trận Trấn Ninh
(1802), trong bài thơ dài Bùi phu nhân ca của danh sĩ Nguyễn Trọng Trì
(1854-1922) có đoạn:
Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao
Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào
Hoàng hôn thành dốc bi già động
Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều
Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc
Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc
Thùy ngôn cân quắc bất như nhân?
Dĩ cổ phương kim tam đinh túc.
Nghĩa
là:
Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi
dao bén thoát ra.
Gió xuân thổi máu bay đẫm tấm chinh
bào
Nơi góc thành tiếng tù và lay động
bóng hoàng hôn
Có người dung nhan kiều diễm như đóa
hoa phù dung
Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh
trống trợ chiến cho ba quân.
Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông
Hoàng Hà
Ai bảo khăn yếm không bằng người ?
Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc.
4.Bại trận vẫn hiên ngang. Ngoài thái độ hiên ngang khi bị hành hình,
người ta còn truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, chúa Nguyễn bèn sai người
áp giải đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chí:
-Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?
Bà
trả lời:
-Chúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự
nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan
nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với
chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Còn nói về đức độ, thì
Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với
Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối
với bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái
tích kẻ tôi trung của người là khuyến khích tôi mình trung với mình. Chỗ hơn
kém rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên đế ta đừng thừa long quá sớm, thì
dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước này.
Chúa
Nguyễn gằn giọng:
-Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng
cho Cảnh Thịnh?
Bà
đáp:
-Nếu
có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt
chân được tới đất Bắc Hà.
Sử gia Phạm Văn Sơn viết: Người
ta cảm phục Bùi Thị Xuân chẳng riêng chỗ bà có nhan sắc hơn người, mà còn ở chỗ
có gan dạ và trí lược của một đại tướng. Người ấy đã có công gây dựng một phần
sự nghiệp của chồng và của ba anh em vua Tây Sơn, đã bao phen xuất nhập chiến
trường, vào sinh ra tử.
Giáo
sư sử học Nguyễn Khắc Thuần, viết: Trong khởi nghĩa Tây Sơn nói riêng và
trong lịch sử quân sự Việt Nam nói chung, Bùi Thị Xuân là một hiện tượng rất đặc
biệt. Cùng với chồng và hàng vạn các nghĩa sĩ Tây Sơn, bà đã đi suốt cả một cuộc
trường chinh ba chục năm trời, anh dũng chống cả thù trong lẫn giặc ngoài, một
lòng một dạ vì sự nghiệp cứu dân cứu nước. Từ một phụ nữ bình thường, Bùi Thị
Xuân đã trở thành một danh tướng được đời đời kính trọng.
Cảm
phục bà, một người không rõ tên, đã làm bài thơ sau:
Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung
Bên
bờ Phước Long Giang, ngày 22/8/2017
Nhà
thơ Xuân Bảo sưu
tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét