208. NHỮNG KỶ NIỆM VỀ BA
TÔI.
(Trích
Chương Những ngày ở cố đô Huế)
.
1.
Ba tôi đưa tôi đến trường học.
Tôi
vào học cours Enfantin (Lớp Đồng ấu) niên khóa 1941-1942 tại trường Nhà Binh
trong Trại Con gái – nơi ở cuả gia đình binh lính (Camp mariée) – thuộc Đồn
Mang Cá khi tôi lên sáu.
`Buổi
sáng tựu trường, Ba tôi xin phép được nghỉ làm việc ở cơ quan Tham mưu Lữ đoàn
5 (État Major thuộc 5è Brigate) để đưa tôi đến lớp. Ông mặc quân phục lính
Pháp, cấp Sergent (Đội) rất chỉn chu.
Ông
trìu mến dắt tay tôi đi vòng qua sân vận động trong trại để đến trường. Trường
đóng gần bờ hào, nhìn sang bên kia là bức thành cổ của Hoàng thành Huế. Cạnh
trường là một cái vườn hoa nho nhỏ, trong đó có cái trạm xá, giống như trạm y tế
xã bây giờ, cũng của nhà binh.
Trường
chỉ có 3 lớp: Lớp Đồng ấu (cours Enfantin), lớp Dự bị (cours Préparatoire), lớp
Sơ đẳng (cours Elémentaire). Mỗi lớp có khoảng 30 học trò. Các học trò lớp Đồng
ấu không mang theo sách vở, học cụ. Sau khi chào cờ xong. Cờ là một lá cờ tam
tài xanh trắng đỏ được mắc vào dây kéo treo sẵn trên cái cột dựng ở sân trường.
Thầy giáo Phong, (tôi không nhớ họ) cũng mặc đồ nhà binh với hàm Sergent (Đội)
đọc tên từng học trò và hướng dẫn vào chỗ ngồi. Lớp có 2 dãy bàn học, mỗi bên
có 5 hàng ghế, ghế có 3 chỗ ngồi. Trên bàn học phía trước có 3 cái lỗ khoét sâu
xuống để vừa cái gô-đê đựng mực, thường là mực tím. Dưới mặt bàn có 3 ô ngăn
cách để học trò dùng đựng cái tráp sách bằng gỗ mỏng. Bảng đen được treo trên
tường, gần bàn của thầy. Góc phía dưới có để một hộp phấn trắng và một cái khăn
lau bảng. Tường hai bên và phía sau treo những bức họa vẽ về đề tài trẻ con,
nhiều màu sắc và vui mắt.
Có
một tấm bản đồ to xứ Đông Pháp treo gần bảng đen. Xứ Đông Pháp, tên Tây là
Indochine-Française. Sau này lớn lên khi có trí khôn tôi mới biết đó là xứ Đông
Dương, (Indochinoise) gồm 3 nước Việt Nam, Lào và Cao-mên. Việt Nam thì có 3 kỳ:
Bắc kỳ gọi là Tonkin. Trung kỳ gọi là Annam, Nam kỳ gọi là Cochinchine.
Mỗi
học trò được phát một cái tráp, trong có quyển sách học vần a, b (bê) c (xê), một
quyển vở kẻ ô ly để viết tập, một cái thước kẻ, một cây viết chì, một cây viết
mực, một tờ giấy thấm và một cục gôm (tẩy). Học cụ, sách vở là của Tây cho
không. Đặc biệt hồi đó tôi chưa bao giờ nghe 2 từ: học phí.
Sau
khi vào lớp, ổn định chỗ ngồi rồi thì cha mẹ học sinh ra về. Hồi đó tôi cũng
chưa từng nghe 4 từ: phụ huynh học sinh. Vào lớp, thầy hô: Tất cả lớp đứng dậy!
Các trò đều răm rắp nghe theo. Thầy lại hô: Chào các trò! Cả lớp đồng thanh đáp
lại: Kính chào thầy!
Và
học trò bắt đầu học chữ theo quyển sách đánh vần. Thầy viết lên bảng 3 chữ a, b
và c. Thầy cầm cái thước kẻ chỉ vào từng chữ. Chỉ vào chữ a, thầy nói a. Cả lớp
đồng thanh aaa rõ thật to và thật dài. Cả một buổi sang chỉ học có 3 chữ a, b
và c.
Nghe tiếng còi trong thành hú 3 hồi dài. Đây
là còi báo 11 giờ. Hết hồi còi thứ ba, thầy lại hô: Tất cả lớp đứng lên! Và thầy
nói: Buổi học đầu tiên hôm nay kết thúc. Chào các trò!
Tất
cả học trò ùa ra sân trường, ríu rít như một đàn chim non. Cha mẹ các trò đã chờ
sẵn. Đứa thi được dắt tay, có đứa lại được cha hay mẹ bồng lên. Ba tôi đã thay
bộ quân phục, thay vào đó là bộ đồ civil đón tôi về nhà.
Buổi
học đầu đời của tôi là như vậy đó. Giờ đây, sau gần 80 năm khi Ba Mạ tôi đã về
với ông bà, tổ tiên. Tôi năm nay cũng đã hơn tám chục tuổi. Và được nuôi dạy
trong môi trường của một gia đình gia giáo. Tôi trưởng thành và trở thành nhà
báo, nhà thơ cũng nhờ vào sự dạy dỗ của Ba Mạ tôi. Trong đó công lao lớn nhất dạy
dỗ tôi để trở thành một người có văn hóa là công đầu của Ba tôi.
Viết bài này để tưởng nhớ về người cha kính
yêu nhân ngày Kỵ Ba tôi, ngày 12
tháng 9 âm lịch hàng năm.
Bên bờ Phước Long
Giang, đêm 11 rạng sáng ngày 12 tháng 9 năm Đinh Dậu, tức ngày 30 tháng 10 năm
2017.
Nhà thơ Xuân Bảo.
Kỳ sau: Ba Mạ tôi cho tôi đi thăm hoàng thành Huế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét