Bài thơ Nguyên tiêu vang
vọng mãi ngàn sau
Trong Lời Điếu của cố Tổng bí thư Lê Duẩn đọc trước quảng trường Ba Đình sáng 6-9-1969 năm 1969 có đoạn viết : “ Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch,người anh hùng hùng hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Bác
Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta không những được nhân dân Việt
Nam tôn vinh là vị anh hùng dân tộc
mà còn được cả thế giới ngợi ca. Đặc biệt trong Nghị quyết cùa Tổ
chức Giáo dục-Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) đã “ ghi
nhận rằng năm 1969 sẽ được đánh dấu bằng Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc của
Việt Nam và là một nhà văn hóa lớn”.
Đúng
như vậy, Người là một bậc đại nhân, đại trí và đại dũng. Và Người
xứng đáng được tôn vinh là một nhà thơ lớn, một thi hào của Việt
Nam. Trong kho tàng đồ sộ về văn hóa, Người đã để lại cho muôn đời
sau có một bài thơ được liệt vào tác phẩm bất hủ, danh bất hư
truyền là bài thơ Nguyên tiêu. Và giờ đây hàng năm bài thơ đó được
lấy làm tâm điểm cho Ngày Hội Thơ Việt Nam.
Bài thơ Nguyên tiêu ra đời trong
hoàn cảnh nào ?
Tính
từ đêm 19-12-1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra cho đến Tết
Nguyên tiêu, tháng Giêng năm Mậu Tý (1948), nhân dân Việt Nam đã tiến
hành công cuộc bảo vệ Tổ quốc bằng vũ lực đã được hơn 400 ngày.
Với chiến thắng lẫy lừng Thu Đông năm 1947, với chiến thắng Lũng
Mười, Mường Him đầu năm 1948 đã đưa cuộc trường kỳ kháng chiến của
nhân dân ta vào một giai đoạn mới, hết thời kỳ phòng ngự chuyển sang
thời kỳ cầm cự để rồi tiến tới thời kỳ tổng phản công. Mà đỉnh
cao chói lọi là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-1954).
Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng đầu xuân Mậu Tý (1948) để
nhìn lại hơn một năn chống Pháp, đồng thời đề ra mục tiêu mới cho
cuộc trường kỳ kháng chiến. Sau cuộc họp ấy, Bác trở về căn cứ trên
một chiếc thuyền. Trời đã khuya lắm rồi. Trước cảnh sông nước mênh
mang, ánh trăng rằm như dát vàng lên giang sơn cẩm tú Việt Nam. Nguồn
thi hứng từ trong sâu thẳm trái tim của vị thống soái Việt Nam tuôn
trào:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính
viên
Bác
bảo cho chúng ta biết : đêm nay, rằm
tháng Giêng, trăng tròn., khi Người nhìn từ con thuyền lững lờ trên
sông nước chiến khu nhìn lên bầu trời và thấy ông trăng ngời ngợi.
Trăng của tháng đầu năm, trăng nguyên đán
và tròn trăng soi tỏ cảnh vật. Người thơ Hồ Chí Minh đã chuyển
ý từ trăng sang xuân. Trăng khai xuân tràn đầy sức sống dã cho ta thấy
rõ:
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân
thiên
Sông
xuân, nước xuân và trời cũng xuân. Xuân, mùa đẹp nhất trong năm. Tiết
trời ấm áp. Cây cối đâm chồi nẩy lộc. Sức sống mãnh liệt bừng lên.
Câu thơ thứ hai này làm cho ta cảm nhận được một tứ thơ gợi cảnh dồn
dập bay vút từ dòng sông mênh mang lên tận trời cao. Bản chất cái đẹp đuợc phát hiện. Giữa
trăng và xuân có sự giao hòa kết hợp thật mới lạ trong thơ của
Người. Trăng xuân đó hòa quyện cùng đất nước, sáng bừng sắc màu hội
họa dưới cái nhìn của nhà thơ lung linh tỏa sáng, diệu kỳ!
Nhưng
Bác của chúng ta, Người Cha đẻ của lực lượng vũ trang Việt Nam không
phải ngồi trên thuyền mịt mờ khói sóng để ngắm trăng, để an nhàn
“thưởng nguyệt chiêm hoa” như bao nhà thơ khác. Ở đây, cuộc chiến đấu
với quân thù để giành lại độc lập, tự do, thống nhất đã làm cho tứ
thơ trở nên hiện thực. Ra trận, chàng Vệ quốc quân sau này trở thành
anh lính bộ đội Cụ Hồ lại thấy “trăng treo đầu súng”. Trăng cũng vào
trận đánh. Có gì đẹp hơn thế! Và nhà thơ Hồ Chí Minh đã nhân cách
hóa ánh trăng, coi trăng là bầu bạn thân thiết khi : Trăng vào cửa sổ
đòi thơ/ Việc quân đang bận xin chờ trăng ơi!
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Thì
ra, vị Tổng tư lệnh tối cao đang bàn việc quân cơ. Trước đó trong bài Cảnh khuya, Người đã không sao ngủ
được vì nỗi lo cho dân, cho nước trước hiểm họa xâm lăng của giặc
Pháp. Dù vậy, người thơ Hồ Chí Minh vẫn nghe, vẫn thấy ánh trăng với
vẻ đẹp huyền diệu, quyến rũ :
Tiếng
suối trong như tiếng hát xa
Trăng
lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
Cảnh
khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa
ngủ vì lo nỗi nước nhà
Khói
sóng trong thơ cổ điển thì đã có “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Thôi Hiệu – Hoàng Lạc Lâu) hoặc “ Yên ba thâm xứ hữu ngư châu” (Cao Bá
Quát – Thú Nhàn). Ở đây “yên ba thâm xứ” của Hồ Chí Minh đã làm mới
vẻ đẹp thơ cổ. Nơi xa xăm khói sóng không còn là nỗi buồn nhớ cánh
hạc vàng không trở lại, không thấy con thuyền đánh cá (hữu ngư châu)
buông xuôi thế sự mà yên ba thâm xứ của Bác là để bàn việc quân, để
hành động. Vẻ đẹp đầy hiện đại, mặc dù Bác đã vận dụng thơ cổ
điển.
Dạ bán quy lai nguyệt mãn
thuyền
Nữa
đêm mới bàn xong việc quân. Nữa đêm mới trở về. Cảm hứng thơ lại trở
về với ánh trăng, thật lãng mạn vô cùng: Trăng đầy thuyền. Con thuyền
chở những người có phận sự là bàn việc nước thì giờ đây trở về
thì chở đầy trăng. Ý thơ rất quen mà lạ. Và hết sức lạc quan vì
cuộc chiến mới bước sang năm thứ hai. Trước mắt, còn những “ba ngàn
ngày không nghỉ” để rồi có một Điện Biên Phủ lẫy lừng “nên vành hoa
đỏ, nên thiên sử vàng” (Tố Hữu). Chúng ta đọc lại toàn bài để cảm
thụ hết vẻ đẹp của bài thơ theo thể Đường luật. Chỉ có 4 câu nên có
thể gọi là Tứ tuyệt Đường thi. Bài thơ mang vẻ đẹp và cốt cách Đông
phương:
Kim
dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân
giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên
ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ
bán quy lai ngu nguyệt mãn thuyền
Và bản dịch nguyên tiêu sang
Việt ngữ của Xuân Thủy
Dịch
thơ là một việc rất khó. Khó bởi vì đang từ một ngôn ngữ này
chuyển sang một ngôn ngữ khác thí khó mà dịch đúng ý tứ của nguyên
tác. Nhà thơ, nhà ngoại giao Xuân thủy- người học trò nhỏ của Bác -
sau này là Bộ trưởng Ngoại giao của nước ta và tham gia đàm
phán hội nghị Paris. Những năm ở Việt Bắc-Thủ đô gió ngàn-có vinh
dự được ở gần Bác nên khi bài thơ Nguyên Tiêu ra đời thì tức khắc được dịch ra tiếng Việt như sau:
Rằm
giêng lồng lộng trăng soi
Sông
xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa
dòng bàn bạc việc quân
Khuya
về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Không
biết có chính xác hay không mà Thư Trai trong tạp chí Thơ dẫn lời của
Bác khen Xuân Thủy:”Dịch lưu loát,
giữ được chất thơ, nhưng dòng thứ hai có ba chữ xuân hòa với nhau mà
bản dịch chỉ co hai chữ xuân, thế là ý thì đủ mà chữ thì thiếu”. Tuy
nhiên, bản dịch đã tồn tại hơn 50 năm qua và rất nhiều người biết
đến. Đây là phần thưởng quý giá dành cho nhà thơ Xuân Thủy. Mặc
dù(tôi còn nhớ rõ) sau ngày tiếp quân Thủ đô, những năm 1955,1956,1957
ở Hà Nội có rất nhiều nhà thơ dịch bài thơ Nguyên Tiêu của Bác,
trong đó có bản dịch tương đối hoàn hảo của các nhà thơ Nam Trân, cụ
Bùi Kỷ v.v..
Những
năm Bác chưa đi xa vào cõi vĩnh hằng, cứ mỗi lần Tết đến Xuân về
nhân dân cả nước mong ngóng được nghe Thơ Chúc Tết của Bác. Đó là
một nét đẹp văn hóa của nhân dân ta và là tấm lòng kính yêu vô hạn
dối với Hồ Chủ Tịch.
Ngày
nay, chúng ta lại có Ngày Thơ Việt Nam. Âu đó cũng là cách làm để
tưởng nhớ đến nhà thơ cách mạng Hồ Chí Minh.
Nhà thơ là chiến sĩ
Chiến sĩ hóa nhà thơ
Bác
của chúng ta là như vậy đó.
Viết
cho Ngày Hội Thơ Việt Nam.
Nguyên
tiêu Quý Tỵ
Biên
Hòa, ngày 24 tháng 2 năm 2013.
Nhà thơ Xuân Bảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét