NGÀY
THƯƠNG BINH LIỆT SĨ 27-7
Túy
ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
Khảo luận của nhà thơ Xuân Bảo.
Trịnh Công Sơn có bài
hát: Một nghìn năm nô lệ giặc Tàu
Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, từ nhà Triệu 111 -TCN đến Ngô Quyền 939 CN có 6 cuộc khởi nghĩa lớn được chính sử
ghi chép. Đó là:
Khởi nghĩa Mê
Linh của Hai Bà Trưng 40-43,
Khởi nghĩa Bà
Triệu Ẩu 248,
Nhà Lý Bí + Triệu Quang Phục + nhà Hậu Lý 541-602,
Khởi nghĩa Mai Hắc Đế 722,
Khởi nghĩa nhà Phùng Hưng 791-800,
Khởi nghĩa nhà Khúc Thừa Dụ + (Dương Đình Nghệ - Kiều Công Tiễn)
906-938.
Trong đó có 2 cuộc khởi nghĩa là do phụ nữ lãnh đạo. Đó là cuộc Khởi nghĩa Mê Linh của hai chị em Trưng Trắc và Trưng
Nhị và của Bà Triệu Ẩu.
Và 100 năm nô
lệ giặc Tây...
? có bao
nhiêu cuộc khởi nghĩa chống Pháp?
MỘT ÔNG VUA VĂN VÕ KIÊM TOÀN
Nước Nam ta
có rất nhiều ông vua đồng thời là nhà thơ. Triều Trần có đến 7 ông vua là thi
sĩ. Cuối thời phong kiến, gần ta nhất có các ông hoàng Tuy Lý Vương, Tùng Thiện
Vương. Vua Tự Đức là một nhà thơ lớn.
Tuy nhiên,
trong lịch sử thì có một ông vua vừa làm vua, VỪA CẦM QUÂN,vừa làm thơ nổi tiếng
là vua Lê Thánh Tông.
Lê Thánh
Tông, tự là Tư Thành, huý là Hạo, con trai út của Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc
Giao - con gái Thái Bảo Ngô Từ. Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi.
Mẹ Nhân Tông khi đó đang buông rèm chính sự, cho đón Tư Thành về ở trong cung rồi
phong làm Bình Nguyên Vương hằng ngày cùng vua Nhân Tông và các vương hầu học tập
tại toà Kính Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập, thông tuệ hơn người, được vua
Nhân Tông rất yêu quý.
Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất
- 1442. Ngày 6 tháng 6 năm Canh Thìn - 1460, các quan đại thần phế truất Nghi
Dân, rước Tư Thành - lúc đó 18 tuổi lên ngôi. Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc
nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở
mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn bán, ban hành chế độ quân điền, coi trọng
việc bảo vệ biên giới quốc gia. Bản đồ biên giới quốc gia Đại Việt được hoàn
thành dưới triều Lê Thánh Tông. Và là người xuống chiếu giải oan cho Ức Trai
trong vụ Lệ Chi Viên án. Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu vua Lê Thánh
Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm
tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta.
Bộ Đại việt sử ký toàn thư do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm Kỷ Hợi -
1479 dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông còn lập ra Hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất
nước thời đó gọi là "Tao Đàn nhị thập bát tú" do nhà vua làm nguyên
suý. Trong đó có Thân Nhân Trung – người có câu văn bất hủ, được ghi vào Văn miếu
Quốc Tử Giám: Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
***
Không có vị
nguyên thủ quốc gia (ở nước Nam) lại lo cho dân đến cùng như vua Lê Thánh Tông.
Ở nửa sau thế kỷ XV, trong bối cảnh cực kỳ thuận lợi của một triều đại thái
bình thịnh trị, thơ Nôm được triều đình nhà Lê với vị minh quân Lê Thánh Tông đặc
biệt chú trọng. Nhà vua đã nâng việc sáng tác thơ Nôm từ chỗ tự phát đến quy mô
quốc gia. Thơ Nôm đã tuyển thành tập “Hồng Đức quốc âm thi tập”.
Lê Thánh Tông
là một thi nhân hội tụ được cả 3 yếu tố không thể thiếu với một thi nhân đích
thực: trí tuệ phong phú, tài năng sáng tạo thơ và tính chất lãng tử trong tâm hồn.
Ông vua hiền
triết này có cái nhìn “vạn vật nhất thể”, thấy được cái vĩ đại trong cái hèn mọn,
cái may trong cái rủi, cái đẹp trong cái xấu, cái sướng trong cái khổ. Thơ Lê
Thánh Tông hàm chứa ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Lê Thánh Tông như một vị thánh
nhân đức đã “thế thiên” đi ban phát hạnh phúc cho con người ở cõi nhân gian,
cho thần dân mà ông hết lòng yêu thương.
Chỉ riêng một sự việc của Vũ Thị Thiết, quê ở
Nam Xương, vợ chàng Trương Sinh nghe con trẻ trỏ cái bóng trên tường, gọi đó là
cha mình. Hãy nghe một đoạn “án oan” này của Nguyễn Dữ viết trong Truyện kỳ mạn
lục:
…Qua sang năm
sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương Sinh tới nhà thì mẹ đã từ
trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ rồi bế đứa con nhỏ đi thăm. Ra đến đồng
đứa con trẻ quấy khóc, Sinh dỗ dành:
- Con nín đi, đừng khóc. Cha về, bà đã mất,
lòng cha buồn khổ lắm rồi!
Đứa con thơ ngây nói:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông
lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc
nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:
- Khi ông chưa về đây, thường có một người
đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, ngồi cùng ngồi, nhưng chẳng bao giờ
bế Đản cả.
Tính chàng
hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn có cách
gì tháo gỡ ra được.
Về đến nhà mắng
vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa Tía.
Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba
năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường hoa
chưa từng bén gót. Đâu có sự hư thân mất nét như lời chàng nói. Dám xin trần bạch
để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn
không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con
nói, chỉ thường thường mắng mỏ, nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm
bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa
vào chàng vì có cái thú vui nghi gia, nghi thất. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm
báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gẫy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu
tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gẫy cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng
tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng
con rẫy bỏ, điều đâu bày buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin
ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước
xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá,
lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm chi diều quạ,
chẳng những là chịu khắp mọi ngưởi phỉ nhổ.
Nói xong gieo
mình xuống sông mà chết.
Chàng tuy giận
là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng động long thương, tìm vớt thây nàng
nhưng chẳn thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dưới
ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:
Ô, Cha Đản lại
đến rồi.
Chàng hỏi
đâu? Nó trỏ bóng chàng ở trên vách.
Đây này!
Sự việc chỉ có thế mà vua Lê Thánh
Tông đã có đến 2 bài thơ.
Bài thứ nhất. Miếu bà Trương;
Nghi ngút đầu
ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như
miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu
nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi
cho lụy tới nàng?
Chứng quả đã
đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chẳng
lọ mấy đàn tràng?
Qua đây mới
biết nguồn cơn ấy
Khá trách
chàng Trương khéo phũ phàng
Và bài thứ hai Hoàng Giang, điếu Vũ nương.
Ngàn lau san
sát, cỏ xanh xanh
Sảy nhớ ngày
xưa kẻ tiết trinh
Cách trở bấy
lâu hằng giữ phận
Hiềm nghi một
phút bỗng vô tình
Hay lòng, phó
mặc vầng cao thẳm
Lẻ bóng tìm
nơi chốn vắng thanh
Dầu nhẫn ai
ai qua đến đấy
Thương nàng
hòa lại trách Trương sinh
Tâm hồn của vị
vua thi sĩ dạt dào tình cảm hiện còn khắc trên đá trước cửa miếu Vũ nương tại
Lý Nhân, Hà Nam.
Thơ Nôm của
Lê Thánh Tông và của thời Hồng Đức là “máu mủ ruột rà”, là di sản văn hóa vô
cùng quý báu của dân tộc Việt Nam ta cần được phổ cập đến mọi người.
Bên bờ Phước
Long Giang,
Nhà thơ Xuân
Bảo.Bài đăng lại vao ngày hom nay, khi cao trào Co vit 19 đã xâm nhập Đồng Nai.
Ngày 29/7/2021.
Nhà thơ Xuân
Bảo.