Viết tiếp Ký sự Thăm quê. Phần 2
1. Thăm nơi tôi khóc chào đời.
.
Song Cầm là khách sạn mang tên nữ nhà văn Nguyễn Thanh
Song Cầm. Nhà văn có cuốn tiểu thuyết tự truyện Cánh chim trong bão tố đã được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam cấp
phép ấn hành năm 2009 và được tái bản vào năm 2011. Phó giáo sư Tiến sĩ Khoa
Ngôn ngữ - Văn học trường Đại học Khoa học Huế Hồ Thế Hà viết Lời giới thiệu. Nhà văn có cuốn tiểu
thuyết tự truyện Cánh chim trong bão tố đã được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn Việt
Nam cấp phép ấn hành năm 2009 và được tái bản vào năm 2011. Phó giáo sư Tiến sĩ
Khoa Ngôn ngữ - Văn học trường Đại học Khoa học Huế Hồ Thế Hà viết Lời giới
thiệu.
Ảnh. Nhà thơ Xuân Bảo với nữ nhà văn Nguyễn Thanh Song
Cầm.
Tôi viết Lời tựa. Sách đã được dịch ra
tiếng Anh, xuất bản ở Mỹ do dịch giả Ton That Dzien chuyển ngữ. Sách có tên là
WINGS THE STORM. Ngoài phần nguyên bản có thêm bài viết của ông Hồ Lưu với nhan
đề là The storm is being pushed back toward origin. (Cơn bão đang được đẩy lùi
về phía nguồn gốc của nó).
Sách xuất bản lần thứ nhất, dày 476 trang, có phụ bản
in ở trang bìa 2 là ảnh 1: Chân dung của Mạ và Song Cầm và ảnh 2: là 2 vợ chồng
Song Cầm Michimi và 4 người con. Phụ bản cuối sách là 4 tác phẩm hội họa đặc sắc
(trong hơn 2000 tác phẩm) của Bé Lưu, con út của Song Cầm vẽ từ năm lên 7 tuổi.
Cuốn Cánh chim trong bão tố đã được Hội Nhà Văn Thừa
Thiên Huế tổ chức hội thảo ngày 26/6/2011. Có nhiều bản tham luận của các nhà
văn lớn tuổi như Hồng Nhu, Nguyễn Khắc Phê…Tôi và nhà thơ Võ Nguyện có tham luận.
Các nhà văn, nhà thơ từ Hà Nội, Bắc Ninh, Sài Gòn, Quảng Trị về tham dự hội thảo.
Tất cả tham luận đều ngợi khen tác phẩm
đầu tay của nữ nhà văn Song Cầm có lối viết chân thực, gây nhiều xúc động cho
người đọc.
***
Cô tiếp tân đưa cho tôi cái chìa khóa
phòng 401 và hướng dẫn bố con tôi vào thang máy. Tắm rửa xong, do đi đường thấm
mệt nên hai bố con đi nghỉ. Trời Hương Giang Ngự Bình không nóng lắm và có máy
lạnh nên chúng tôi ngủ một giấc dài đến hơn 5 giờ chiều. Thức dậy, tôi sang
thăm thân mẫu Song Cầm và các cháu. Mạ Song Cầm nay đã gần tuổi 90, bệnh xương
khớp người già luôn hành hạ, nhưng Mệ vẫn
giúp Song Cầm bếp núc. Song Cầm thỉ bận bịu suốt ngày lo cho 4 đứa con. Căn nhà
nằm trong một kiệt nhỏ, khiêm nhường dù cạnh đó là cái hotel Song Cầm 6 tầng, đủ
tiện nghi cho một khách sạn 4 sao.
Tôi hỏi thăm Michimi. Song Cầm nói: 5 hôm nữa Michimi sang Việt Nam.
Gặp nữ nhà văn, tôi nhắc lại
chuyện Song Cầm đưa Shosho – đứa con thứ hai - đi chữa bệnh tự kỷ ở Hà Nội. Shosho
nay về nhà có biểu hiện trở lại bình thường. Cháu hỏi:
o
- Ôông ở mô? Tôi trả lời:
o
- Ở Biên Hòa, Đồng Nai. Shosho nói:
- Ở Biên Hòa, Xuân Lộc, Đồng
Nai. Shosho thêm địa danh Xuân Lộc vào câu trả lời.
Song Cầm rất vui thấy con mình biết rõ cả
địa danh Xuân Lộc, mặc dầu cháu chưa bao giờ đến đó.
Đã nhiều lần Song Cầm gọi điện cho tôi,
nói:
- Khi nào về Quảng Trị nhớ ghé Huế để Song Cầm cùng đi cho vui. Tôi cảm
ơn và lần này tôi muốn đi thăm nơi tôi khóc tiếng khóc chào đời. Song Cầm bảo:
- Ngày mai, 8 giờ em sẽ đưa bố con anh đi.
Lịch trình đi gồm thăm lại Mang Cá Kẻ Trài, Bao Vinh; quay lại vào cửa Chính Bắc
rồi sang An Hòa về cửa Thượng Tứ rồi lên thăm Huyền Trân công chúa.
(Còn tiếp)
Bên bờ Phước Long Giang, Kỷ niệm ngày sinh V.I. Lénin
22/4/2019.
Nhà thơ Xuân Bảo.
THĂM QUÊ.
Thăm nơi tôi khóc chào đời 2
Sáng hôm sau 20/4, đúng 8 giờ. Song Cầm
sang khách sạn chuẩn bị khởi động xe. Tôi bảo để Triệu Quang lái xe. Song Cầm
nói: Em quen đường sá, để em lái.
Chưa ai ăn sáng cả. Tôi bảo Song Cầm tìm
hiệu bún bò ngon. Đi đến một đoạn, Cầm ghé xe vào quán O Cương nằm sâu trong kiệt.
Qua nơi này, tôi nhớ có lần tôi với nhà thơ Ngô Minh, nhà văn Vĩnh Nguyên đã từng
ngồi uống cà phê với nhau. Ngô Minh nhờ tôi xin giấy phép xuất bản cuốn sách Vượt
Trường Sơn. Trong sách có nhắc tới một đoạn nói về cải cách ruộng đất. Gia đình
nhà thơ cũng bị đấu tố và xử trí. Tôi đã cố gắng liên hệ hai ba nhà xuất bản nhưng họ đều không cho giấy phép. Thôi đành lỗi
hẹn với Ngô Minh vậy!
Xe qua đầu cầu phía nam cầu Tràng Tiền,
nơi có cái khách sạn Morin của Tây. Nơi đây ngày 9 tháng 3 năm 1945. Nhật đảo
chính Pháp và nhốt một lũ quan quân Phú lang sa, sau đó chúng giết hết. Tôi còn
nhớ hồi đó ở đầu cầu phía bắc có biển tên toàn quyền Đông Dương: Paul Bert.
Tôi nói với Song Cầm và luật sư Triệu
Quang, những năm ở Huế, tôi được Ba Mạ nhiều lần đi qua chiếc cầu này.
Năm 1993, tôi về Huế được phó Chủ tịch tỉnh
Lê Văn Sắc cho đến thăm công trình khôi phục cầu Tràng Tiền. Tôi đã có cái bút
ký Cầu Tràng Tiền sau vài mười hai nhịp. Chỉ huy trưởng công trường Trần Thế Thành đã
chiêu đãi tôi một chầu ca Huế. Nhóm dân ca Huế có 9 nghệ sĩ do nữ nghệ sĩ ưu tú
Châu Dinh chỉ đạo. Hai giờ đồng hồ ngồi trong chiếc thuyền rồng, bập bềnh trên
sông nước tôi đã được nghe lại nhiều bản ca Huế, đậm đà tình nghĩa núi Ngự sông
Hương.
Xe qua chợ Đông Ba rồi đến cầu Gia Hội,
không lên cầu mà rẽ trái đi xuống con đường dọc sông Ba Loan về Mang Cá.
Ký ức tôi còn ghi đậm những điều sau đây:
Mạ
tôi kể: Năm 1934, Ôông Mệ nội tôi làm lễ cưới cho Ba tôi. Trước đó, gia
đình Ôông Mệ tôi đã dạm ngõ một người con gái họ Phạm. Chẳng hiểu
vì lý do gì mà sau khi Ba tôi ở Côn Minh về thì ông xin từ hôn và Ôông
Mệ tôi lại đi hỏi cưới Mạ cho Ba tôi. Mệ ngoại tôi là người làng Đại
Hào. Đám cưới Ba Mạ tôi tổ chức đi rước dâu bằng thuyền. Đi từ con
hói chợ Thuận, ra sông Thạch Hãn rồi ngược lên Phường Sãi. Cả đoạn
đường sông này dài gần hai chục cây số, đi về mất hẳn một ngày
trời, kể cả thời gian làm lễ nghi đám cưới. Cưới xong Ba Mạ tôi vào
Huế.
Mạ tôi là một người đàn bà được
nuôi dạy tốt trong một gia đình gia giáo. Cũng như những người con
khác trong gia đình, Bà được ông bà ngoại cho đến trường học chữ.
Học xong lớp Sơ đẳng thì ở nhà để lo chuẩn bị vào đời, tức là
những bước chuẩn bị đi lấy chồng. Ngày đó những gia đình quyền quý
có con gái thường được những gia đình môn đăng hộ đối để ý tới. Và
đến tuổi cài trâm, thì có người mai mối tới nói chuyện hôn nhân.
Tính từ năm Bính Thìn (1916) đến năm Giáp Tuất (1934) Mạ tôi bước lên
thuyền hoa về nhà chồng vừa đúng 18 tuổi. Công việc chính của Mạ tôi
là lo tề gia nội trợ và chăm sóc nuôi dạy con cái. Người vợ lính
không lo đến cơm áo vì lương chồng cũng đủ sống. Không những thế, Mạ
tôi còn nuôi người giúp việc và ẵm bồng con nhỏ. Lúc tôi biết đi, Mạ
thường cho tôi theo bà đi vãn cảnh chùa, thường thì hay đi chùa Từ
Đàm hoặc chùa Thiên Mụ. Hai mạ con đi xe tay, một loại xe hai bánh có
người kéo. Cái xe tay này cũng đã đi vào văn học sử với truyện ngắn
Ngựa người và người ngựa của
nhà văn Nguyễn Công Hoan. Đặc biệt hơn, cái xe tay này được Nguyễn Ái
Quốc vẽ minh họa cho bài viết tố cáo thực dân Pháp thời chúng đô hộ
nước ta.
Và ngày mười sáu tháng giêng năm Ất Hợi
tôi chào đời. Theo lịch Vạn Niên thì ứng với thứ 2 ngày 18 tháng 2 năm
1935. Bây giờ lý lịch và các loại giấy tờ đều ghi ngày sinh của tôi
là ngày 16 tháng 1 năm 1935. Ghi như vậy là không đúng với thực tế.
Nhưng mà thôi, gần tám mươi năm qua, tôi đã mang ngày sinh như thế thì
cứ để thế. Có gì tuyệt đối đâu. Tôi nghĩ rằng nhiều, rất nhiều
người cũng có ngày sinh không đúng vì qua hai cuộc chiến tranh, nhiều
giấy tờ bị thất lạc. Khi tôi lên năm, đến tuổi đi học, vào lớp Đồng
Ấu tương tự lớp Một bây giờ. Tôi được Ba tôi dắt đến trường. Trường
cũng nằm trong khuôn viên Trại Con gái Mang Cá. Vào lớp những học trò
chúng tôi không hề mang sách vở. Khi ngồi vào chỗ ngồi thì trên mặt
bàn đã để sẵn đó một cái tráp bằng gỗ mỏng, trong đó có mấy cuốn
sách và mấy cuốn vở tập, một cây bút chì, một cây bút mực, một
cục gôm (tẩy), một tờ giấy thấm, một cái thước kẻ. Cái gô-đê mực
tím đặt lọt xuống lỗ hõm mặt bàn.
Lớp Đồng ấu có ài học đầu tiên là
nhận dạng bảng chữ cái, bắt đầu từ chữ a, b, c. Quốc ngữ gồm 23 chữ
cái phụ âm và 11 chữ nguyên âm. Cùng lúc, học trò phải học luôn bảng
alphabet francais gồm 26 chữ cái, so với tiếng Việt thì có thêm 4 chữ
là f, j, w, z nhưng không có chữ đ và những chữ oe viết liền nhau, chữ
i có hai dấu chấm trên đầu, chữ c có dấu ngoặc dưới đít. Sách giáo
khoa thư tiếng Việt chỉ dẫn học hết vần bằng thì sang vần trắc. Vần
bằng bắt đầu bằng chữ b, và 11 nguyên âm, đọc bê a ba, bê ă bă, bê â
bâ…cho đến bê u bu, bê ư bư rồi sang phụ âm c tiếp theo. Vần trắc bắt
đầu bằng chữ a, và 22 phụ âm đọc là a xê ác, ă xê ăc, â xê âc…Còn tập
viết thì phải kẻ thước nghiêng 45 độ bằng bút chì và chữ cũng phải
tập viết nghiêng. Tập viết nét đầu tiên là nét sổ, cứ theo nét bút
chì kẻ trước cách một dòng thì xuống hàng, học trò chấm ngòi bút lá
tre vào mực rồi vẽ theo. Tập nét sổ như vậy đến hai cuốn vở viết
tập mới được tập viết theo chữ. Môn này gọi là écriture. Thầy dạy
hết sức tận tình, đi từng bàn nắn bàn tay cho từng học trò khi tập
viết. Vì thế nên những ai đã đi học thời đó đều có nét chữ hao hao
giống nhau và nói chung là chữ rất đẹp. Nhờ khổ luyện tập viết mà
sau này tôi đã nhận viết giấy khen, bằng khen cho các cơ quan, viết
bằng bút rông (rond) những chữ lớn, bút sắt loại chữ thường.
Chương trình học lúc đó chia theo
thời khóa biểu: Ngày học hai buổi sáng và chiều. Giữa giờ ra chơi 15
phút. Ngày thứ 5 chỉ học môn thủ công, ngày thứ 7 học buổi sáng,
chiều nghỉ. Tôi còn nhớ như in cái trường nhà binh mà tôi bước đầu
vào học. Trường có ba lớp, mỗi lớp khoảng ba mươi học trò. Lớp Đồng ấu
(Enfantin), lớp Dự bị (Préparatoire), lớp Sơ đẳng (É1émentaire). Trên
các bức tường của mỗi lớp đều có treo bản đồ Đông Pháp (Carte
géographie de l’Indochine francaise), gồm ba nước: Việt Nam, Lào và
Cao-mên. Trong cuốn Nouveau Petit LAROUSSE của Pháp xuất bản năm 1951 tại
Paris, Đông Pháp chỉ có 5 xứ: Laos (Lào), Cambodge (Cao-mên), Tonkin (Bắc
kỳ), Annam (Trung kỳ), Cochinchine (Nam kỳ), không có tên nước Việt Nam.
Mặc dù chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Tuyên ngôn Độc lập
ngày 2 tháng 9 năm 1945 dõng dạc tuyên bố trước thế giới đã được 6
năm? Thực là láo toét! Ba nước này đều bị thực dân Pháp thôn tính
và thống trị. Chúng đặt nền đô hộ do một tên toàn quyền người Pháp
đứng đầu.
Ba tháng nghỉ hè (vacance) thì được
nghỉ hoàn toàn. Trường tổ chức cho đi nghỉ mát ở cửa Thuận An - một
bãi biển rất đẹp của Thừa Thiên - hoặc đi thăm các lăng tẩm, đền đài
chung quanh thành phố Huế và nhiều nơi khác…Những ngày hè bọn trẻ
chúng tôi được cha mẹ cho về thăm quê. Tôi rất ngỡ ngàng trước những
cánh đồng lúa chín vàng và ngây thơ hỏi Mạ: - Cái hột ni là hột
chi?
Mạ tôi cười mà rằng: - Cái hột con
ăn hàng ngày đó. Tôi thấy hột gạo nấu cơm nó khác với hột lúa!
Trại Con gái Mang Cá có nhiều dãy
nhà. Mỗi dãy có tới mấy chục căn hộ. Căn hộ hai đầu dãy thì thông
nhau, nhìn ra hai phía, dùng bố trí cho cấp bậc đội và đội sếp. Còn
từ cai trở xuống thì chỉ ở những căn giữa.Ông Lê Bá Vận, có bà con với
ông Tổng bí thư Lê Duẩn, người Bích La, Triệu Phong, Quảng Trị hồi này mới có
chức cai sếp (caporal chef) ở căn giữa, Sau này ông Vận là trung đoàn trưởng
trung đoàn 95 Quân đội Nhân dân.
Căn
hộ Ba Mạ tôi ở gần sân vận động. Trước mặt nhà về phía tây là nhà
của ông đội sếp Nguyễn Văn Hinh. Ông này đặt tên con theo cái giờ nó
được sinh ra. Còn tên thật theo giấy khai sinh thì khác. Thằng đầu
cùng tuổi với tôi tên là À dix heures, tức Mười giờ. Bọn học trò
chúng tôi thường chọc ghẹo nó, gọi nó là Thằng đít giơ theo tiếng
Việt là thằng đít nhớp. Thằng em nó được đặt tên là À onze heures
dix minutes, tức Mười một giờ mười phút. Chúng tôi lại gọi tên nó
bằng tiếng Việt: Thằng ông giơ đít mi nút. Ông Nguyễn Văn Hinh, sau
Hiệp định Genève lãnh đạo phe chống Ngô Đình Diệm và bị Diệm tiêu
diệt nặng nề.
Trong Trại này có một cái biệt thự
riêng biệt, được đặt sau ngôi đền, từ ngoài cổng vào. Cụ quản Vương
Đình Khoan (adjudant chef) ở cả gia đình từ Nghệ An vào. Thỉnh thoảng
thấy cụ xuất hiện, đi xuống các dãy nhà, trong tay cụ lúc nào cũng
có cây roi cặc bò. Lính tráng gặp cụ thì phải giơ tay chào kiểu nhà
binh. Còn lũ trẻ chúng tôi gặp cụ thì phải đứng lại, vòng tay ra
trước ngực “bẩm cụ”. Năm 1944, Cụ quản Khoan mãn hạn lính. Người thay
thế là cụ quản Trang vào ở ngôi biệt thự đó.
Cách cổng Trại Con gái chưa đầy ba trăm
mét, phía tay phải là cổng đồn Mang Cá. Ngoài cổng có một dãy nhà
của ông cai Thuyết cho thuê, kiểu như nhà trọ bây giờ. Nghe nói ông cai
Thuyết khởi nghiệp chỉ có trong tay 5 xu tiền Đông Dương lúc bấy giờ.
Thế mà 10 năm sau ông đã trở nên giàu sụ, có của ăn của để. Vào
khỏi cổng phía tay phải có cái bót gác, vào bên trong chừng mươi mét
có một tiệm cắt tóc. Tiệm cắt tóc có ba chiếc ghế cho khách ngồi.
Trên trần nhà có ba cái quạt kéo bằng vải, giống như cái quạt giê
lúa của nông dân. Khi có khách cắt tóc thì có một chú nhỏ khoảng
trên 10 tuổi kéo dây cho quạt đung đưa qua lại trên chỗ khách ngồi cho
mát.
Vào một đoạn nữa là kho gạo. Cứ đến
đầu tháng Mạ tôi đem “bông”- một loại tem phiếu phát cho vợ lính - để
lĩnh gạo mang về. Tiền mua gạo này được Trésorier (kho bạc) chiết
trừ vào tiền lương hàng tháng của Ba tôi. Đối diện với kho gạo là một
cái nhà bàn rất to, (tức là nhà ăn tập thể), đủ chỗ ngồi cho cả
một tiểu đoàn lúc tới giờ ăn.
Muốn đi vào trong thành phải đi qua
một cái cầu xi-măng hình bán nguyệt, bắc qua hào rồi đi qua cái cổng
thành có cánh cửa gỗ to đùng ngày mở đêm đóng, có lính canh thường
trực. Đây là cổng thành được gọi là Cửa Đông Bắc Kẻ Trài. Phía trong thành
là nơi đóng quân của binh lính và sĩ quan. Có phòng làm việc, nơi ở,
có câu lạc bộ, sân vận động bóng đá, sân bóng chuyền, bãi tập quân
sự (thao trường). Đặc biệt có kermesse (theo nghĩa là chợ phiên), nhưng
thực tế chỉ là cái cantine bán tạp hóa và thực phẩm cho binh lính.
Mạ tôi thường hay được các chú lính mua giúp bia, nước ngọt và các
thứ thực phẩm về dùng.
Những ngày lễ lớn như Quốc khánh Pháp
(14 tháng 7), Noel, Tết Tây (nouvel an), Tết Nguyên đán, Bộ Chỉ huy
thường tổ chức ngày hội gồm nhiều trò chơi như leo cột mỡ, thi nhảy
bao bố, bịt mắt bắt vịt, bịt mắt đập om (một loại nồi đất) và
nhiều trò chơi khác. Có lần tôi đập trúng cái om đựng đầy nước.
nước bắn tung tóe, ướt hết mặt mũi quần áo. Vợ con binh lính được
vào vui chơi trong thời gian mở hội.
Kết thúc niên khóa 1943-1944, trường
chúng tôi tổ chức cho học trò lớp sơ đẳng đi thi Sơ học yếu lược.
Học trò phải có cái certifica d’identité (thẻ căn cước). Mạ tôi dẫn
tôi lên hiệu ảnh gần chợ Đông Ba. Tôi được mặc áo lương đen và đội khăn
đóng (khăn xếp) chụp hình để dán vào hồ sơ và sau này tôi thấy trong
tấm bằng Yếu lược của tôi cũng dán bức hình này. Địa điểm thi là
tại trường huyện, thị trấn Bao Vinh, huyện lỵ huyện Hương Trà. Từ sáng
sớm, một chiếc xe nhà binh của đồn Mang Cá tới rước học trò đi thi.
Cha mẹ học trò thì hoặc là đi bộ (từ Mang Cá xuống Bao Vinh cũng
không xa lắm) hoặc là đi xe tay xuống nơi thi để động viên con em mình.
Lớp chúng tôi được phân ra thi ở nhiều phòng thi khác nhau. Tôi để ý
thấy trong phòng thi của tôi có cả những ông có râu và tuổi cũng cao
như Ba tôi. Sau này tôi mới được biết các ông này đi thi để lấy cái
bằng Sơ học Yếu lược thì sẽ có nhiều quyền lợi như được triều đình
ban phẩm trật, thường là cửu phẩm văn giai. Khi ra việc làng được
ngồi chiếu trên, khi chia ruộng công thì được chia loại nhất hoặc nhị
đẳng điền, khỏi đi phu phen phục dịch, không phải làm thằng mõ.
Phía ngoài phòng thi có mấy ông cảnh
sát (police) mặc quần áo màu vàng, cầm roi cặc bò đi lui đi tới. Sau
phần thi buổi sáng gồm 2 môn ám tả và toán. Buổi chiều thi phần
tiếng Pháp, có thi viết một đoạn văn ngắn (dictée francaise) và thi
oral (vấn đáp). Tôi làm bài thi khá nhanh. Khi đang học ở trường, tôi
thường được xếp hạng nhất nhì của lớp. Hàng tháng trên bảng Danh dự
(tableau d’honneur) của lớp tên tôi luôn được xếp đầu tiên. Nộp bài thi
xong thì được phép ra khỏi phòng thi để gặp thầy giáo và cha mẹ,
nhưng không được làm ồn và đi lại lộn xộn.
Cuộc thi kết thúc chúng tôi lại lên
xe nhà binh trở lại Mang Cá. Khoảng hai tháng sau thì có kết quả. Tôi
được xếp thứ 11 trong tổng số thí sinh dự thí. Bằng được gửi theo
đường dây thép (bưu điện) về quê nội làng Đại Hào, phủ Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trị. Ông nội tôi cho mổ bò khao làng. Thế mới biết việc
khuyến học thời đó mới quý làm sao.
Tôi còn nhớ những kỷ niệm thân thương
về người cha của mình. Ông có dáng người cao lớn, khuôn mặt thông minh
và nụ cười rạng rỡ. Hồi ở Huế, trong trang phục nhà binh trông ông
oai vệ không kém những tên quan Pháp. Những ngày nghỉ, Ba tôi thường
cho Mạ, tôi và các em đi thăm thú các danh lam thắng cảnh của cố đô.
Gia đình tôi đi xem cinéma, xem hát ở rạp Tân Tân. Có những đêm trăng
đẹp, Ba Mạ và tôi được lên đò nghe ca Huế. Tôi còn nhớ cho tới bây giờ
các điệu Nam ai, Nam bằng. Có những câu nghe ai oán: “Nước non ngàn dặm ra đi, mối tình chi?”
Và những câu hò mái nhì nghe thống thiết làm sao! “Chiều chiều ra trước Phu Văn Lâu. Ai ngồi ai câu, ai sầu, ai
thảm, ai cảm, ai nhớ, ai thương. Thuyền ai thấp thoáng bên sông. Giọng
hò mái đẩy chạnh lòng nước non.”
Trên sông Hương có rất nhiều đò cho
khách thuê để dạo chơi và nghe ca Huế. Có những chiếc đò nhỏ bán
chè đậu xanh, đậu ván, bán trứng vịt lộn và nhiều món ăn đêm khác.
Họ chèo quẩn quanh các đò hát và cất tiếng rao lanh lảnh ngập tràn
cả khúc sông. Trên bờ, đoạn trước cửa Ngọ Môn có một vườn hoa mang
tên nhà vua Bảo Đại. Đêm đêm nơi đây có tổ chức nhảy đầm, có quán
xá. Khách đến đây thường là các quan chức người Pháp và công chức,
tư chức người Việt. Tuyệt nhiên không có khách là người nghèo hoặc
thậm chí các ông xã xệ lý toét cũng không hề bén mảng.
Tôi còn nhớ ngày đó ở chân cầu Thanh
Long có một người ăn mày tên là Cụ Trâu. Mùa hè cũng như mùa đông,
Cụ Trâu chỉ mặc độc chiếc quần đùi. Người cụ láng mượt một màu da
nâu, đặc biệt tấm lưng trần như được bôi mỡ. Cụ nói lời ăn xin mà
nghe như hát: “Lạy ông đi qua lạy bà đi lại…” Và cũng trên đoạn đường
này có một tiệm hút thuốc phiện, ngoài cửa có treo tấm biển đề chữ
OPIUM. Tôi nghe Mạ tôi nói Ba tôi thỉnh thoảng cùng những người bạn
trong đồn đến nơi đây để hút thuốc phiện. Thuốc phiện được mở tiệm
công khai. Các nhà cách mạng thì coi đây là một trong nhiều chính
sách ngu dân của thực dân Pháp! Trên con đường này còn có rạp hát Tân Tân, có
imprimerie (nhà in) Ngô Tử Hạ.
Cũng
gần cầu Thanh Long, ở cận chân thành có một cái abattage (lò mổ súc vật). Mỗi lần tôi đi học trường
Queignec qua đây thường nghe thấy tiếng heo kêu eng éc.
***
Năm 1944, đang trong Thế chiến thứ II
nên việc đi lại bằng đường bộ hết sức nguy hiểm do Đồng minh thường
xuyên ném bom hủy hoại đường giao thông. Ba Mạ tôi rời khỏi Huế từ
đầu năm 1944 vì Ba tôi mãn hạn lính.
Tôi ở lại, ở nhờ nhà bà sếp Thông
chờ thi Yếu lược nên về sau. Và sau khi thi đậu, tôi được lên lớp nhì nhất
niên (cours moyen un) học ở trường Queignec cho đến ngày Nhật đảo chính thì
thôi học về quê. Mạ tôi vô Huế đón tôi. Đây là lần đầu tiên tôi được đi đò
dọc từ Huế ra Quảng Trị. Bao Vinh là một bến thuyền sầm uất. Tôi
đứng nhìn các chiếc ghe bầu từ xứ Quảng ra buôn bán các loại hàng
hóa, trong đó đường Quảng Nghĩa nổi tiếng. Họ có lối đếm rất độc
đáo. “Một đôi, he đéng, boa thình, chính cheng, chẻng chục”. Diễn dịch ra là “Một
đôi, hai đắng, ba thìn, chín chăn, chẵn chục”. Thế là đủ một chục
cái bánh đường.
***
Song Cầm cho xe chạy thẳng xuống Bao Vinh.
Hai bên đường nhà cửa mọc lên san sát. Nhà dân còn lấn chiếm ra cả mép sông,
thành ra con đường bị nhỏ hẹp lại. Qua khỏi huyện lỵ, Song Cầm cho xe quay trở
lại và chúng tôi chụp ảnh trước chùa Thiên Giang cùng với một bến thuyền Bao
Vinh bây giờ không còn sầm uất như trước nữa!
Đến Mang Cá, tôi nói: Chúng ta đi vào cửa
Chính Bắc luôn. Xe dừng lại đầu cầu. Tôi chỉ vào móng cầu và hỏi Song Cầm có biết
con cá bống thệ hay không? Cầm bảo biết. Nơi móng cầu này ngày xưa, cách đây 75
năm (năm 1944) tôi đã ngồi câu cá bóng thệ. Nhìn xuống hào chỉ thấy bèo, cơ man
nào là bèo, lấp kín không còn thấy mặt nước. Tôi chỉ cho Triệu Quang biết là
trước đây, nơi mặt thành đối diện với cái trường nhà binh đồn Mang Cá là nhà của
me xừ quan hai Le Bourg, trưởng phòng tham mưu 5è Brigate. Chiều xuống, khi hết
giờ làm việc, quan hai xuống thành đem theo chiếc périsoire (thuyền thể thao một
người) thả xuống hào và bơi dọc đến lối ra sông Hương, tối mới về.
Chúng tôi chụp ảnh ngay đầu cầu bên này.
Nhìn vào cái cổng thành ngày trước, tôi lại nhớ đến những buổi nghỉ học được Ba
tôi dắt vào chơi nơi cơ quan tham mưu đóng. Và nhớ tới ngày Ba tôi mãn hạn
lính, Le Bourg đã tặng Ba tôi cái sừng tê ngu (tê giác) để làm kỷ niệm.
Bây giờ cổng thành không còn cánh cửa bằng
những tấm gỗ lim nặng chình chịch nữa. Mỗi
lần mở đóng phải 2 người lính đẩy cật lực. Toàn bộ dãy nhà Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 5
thời Pháp gồm cơ quan tham mưu (État Major), Sở Mộ lính, Câu lạc bộ Lính,
Trésorier… được thay thế làm nơi làm việc của các cơ quan thuộc Bộ Chỉ huy Quân
sự tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đến Cửa Tây, tôi muốn thăm nghĩa địa Tây Lộc – nơi có
mộ em trai tôi Nguyễn Xuân Thưởng chết lúc được một tháng tuổi. Song Cầm nói rằng
bây giờ nơi đó đã thành phố xá hết rồi!
Thành nội giờ đây cũng lộn xộn, ngổn ngang
nhà cửa. Vỉa hè bị chiếm làm nơi bán hàng và chứa chất vật liệu. Xe ra cửa Thượng
Tứ rồi qua cầu Phú Xuân để về thăm Huyền Trân công chúa.
(Còn tiếp)
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 25/4/2019.
Nhà thơ Xuân Bảo
VIẾT TIẾP KÝ SỰ VỀ THĂM QUÊ.
Thăm nàng công chúa có công mở cõi.
Song Cầm cho xe chạy thẳng lên núi Ngũ
Phong, cách trung tâm Huế 7 cây số. Đền thờ Huyền Trân bây giờ có tên gọi là Trung
tâm văn hóa Huyền Trân tọa lạc tại đường Thiên Thai, phường An Tây, thành phố
Huế. Toàn bộ khuôn viên đền thờ nằm dưới chân núi Ngũ Phong, rộng 28 ha, trước đây thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thủy An. Khu
vực này có đồi núi thoai thoải, rừng thông xung quanh. Không gian thâm nghiêm,
kỳ vĩ. Từ ngoài dẫn vào là bốn trụ biểu lớn, dưới chân có nghê đá phục chầu, tiếp
đến là ba bậc sân rất rộng lát gạch Bát Tràng, có hồ nước và cầu bắc qua; tiếp
nữa là tam quan, trong cùng là đền thờ Huyền Trân Công chúa.
Tượng Công
chúa Huyền Trân ngồi trên ngai được đúc bằng đồng, cao 2,37m, do các nghệ nhân
đúc đồng nổi tiếng của phường Đúc, Huế cẩn tác. Hậu điện thiết án thờ Đoàn Nhữ
Hài, người tương truyền đã soạn biểu giúp gỡ tội cho vua Trần Anh Tông thoát khỏi
cơn thịnh nộ của Thượng hoàng Nhân Tông; ông còn là vị quan người Việt đầu tiên
theo lệnh vua vào trấn giữ và yên dân 2 châu Ô, Lý khi 2 châu này về với Đại Việt…Tháp
chuông Hòa bình cao 7m được dựng trên đỉnh Ngũ Phong với chuông đồng nặng 1,6 tấn
cũng do các nghệ nhân phường Đúc thực hiện. Trên đường dẫn lên Tháp chuông Hòa
Bình, có bức tượng Phật Di Lặc khổng lồ với nụ cười viên mãn thường trực trên
môi.
Huế cũng đã
khởi công xây dựng đền thờ Trần Nhân Tông nhân kỷ niệm 750 năm ngày sinh của đức
Phật hoàng. Trần Nhân Tông là phụ hoàng của Công chúa Huyền Trân, là vị vua anh
minh, có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, hai lần đánh thắng
Nguyên Mông, là vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Tượng vua Trần Nhân Tông bằng đồng
đỏ nguyên chất, cao 3m, nặng 2 tấn được đúc theo phiên bản lấy từ đền thờ các
vua Trần tại Nam Định.
. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân
Tông nhận lời mờicủa vua Chiêm Thành, được vua Chế Mân tiếp đãi nồng hậu. Trần
Nhân Tông lưu lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân
Tông hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có
chính thất là hoàng hậu Tapasi, người Java. Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ
sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc
Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung tán thành.
Năm 1306, Chế Mân dâng châu Ô, châu Rý làm sính lễ hồi môn, Huyền Trân về
Chiêm Thành, được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Một năm sau đó, khi hoàng hậu vừa sinh xong
hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, Chế Mân băng hà. Theo tục nước Chiêm,
khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết
tin, sai Trần Khắc Chung sang viếng tang và tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc
Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền, về Đại Việt bằng
đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm? Sao đi lâu vậy???
Tháng 8 năm Mậu Thân tức 1308, Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh
của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn - nay
thuộc Bắc Ninh. Vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa
thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.
Cuối năm Tân Hợi tức 1311, Hương
Tràng cùng một thị nữ trước đây, lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am
tranh trở thành điện Phật, tức chùa Nộn Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
Huyền Trân mất ngày mồng 9 tháng
Giêng năm Canh Thìn (1340). Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là
"Thần Mẫu" và lập đền thờ cạnh chùa Nộn Sơn.
Các
triều đại sau đều sắc phong bà Huyền Trân là thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban
chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng",
nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần". Để ghi nhớ công ơn của Huyền
Trân, triều đình nhà Nguyễn đã lập miếu Đại Đế Vương ở làng Lịch Đợi, phường
Đúc, Huế, đồng thờ các vị khai quốc công thần. Tiếc là miếu thờ này ngày nay
không còn.
Đến đầu
năm 2006, Trung tâm Văn hóa Huyền Trân được khởi công xây dựng. Một năm sau đó,
ngày 26 tháng 3 năm 2007, công trình khánh thành nhân kỷ niệm tròn 700 năm Thuận
Hóa - Phú Xuân. Năm này tôi có về Huế dự lễ kỷ niệm và có bài thơ: Giọt lệ Huyền
Trân
Huyền Trân công chúa sinh năm 1287 và mất ngày 9 tháng Giêng âm lịch.
Ngày này nay trở thành ngày lễ hội đền Huyền Trân.
Giọt lệ Huyền Trân
“Nước non ngàn dặm ra đi. Mối tình chi”
Cung vàng Chiêm quốc tím chiều hoang
Vẳng khúc Nam ai quá bẽ bàng
Tình nghĩa trăm năm người cách trở
Nước non ngàn dặm lệ tuôn tràn
Phụ hoàng… còn xót con lưu lạc
Trần Khắc… thấu chăng thiếp lỡ làng?
Chín vạn bông trời sao sáng nở
Thôi đành bội ước với tình lang
Huế, kỷ niệm 700 năm ngày Huyền Trân về
Chiêm quốc 1307-2007.
Nhà thơ Nguyễn Đức Hùng có bài họa
Nỗi lòng Huyền Trân
(họa y đề bài Giọt lệ Huyền Trân của Xuân
Bảo)
Trời Chiêm lồng lộng gió đi hoang
Xót phận Huyền Trân chịu bẽ bàng
Núi thẳm chắn đường mây phủ kín
Sông sâu bít lối nước dâng tràn
Hai Châu sum họp chàng thương nhớ
Vạn lý rời xa thiếp lỡ làng
Vì Nước đành chôn dòng lệ ứa
Thôi đành lỗi nhịp khúc hoài lang
Song Cầm dừng xe trước cổng đền. Hai bố
con tôi vào thăm Huyền Trân công chúa. Có một cái trạm bán vé tham quan. Người
lớn vé 30 ngàn đồng. Tôi hỏi cô nhân viên – Có nhiều khách đến nơi đây không?
Ít, chỉ vào mùa lễ hội thì đông khách. Song Cầm dưa xe tới một chỗ có bóng râm
đỗ lại. Có người ra đòi 10 ngàn đồng tiền
gửi xe. Song Cầm không trả tiền vì xe có gửi đâu mà trả. Lạ thật, cái kiểu làm
du lịch mất khách của Huế?
Tạm biệt người con gái họ Trần đã vì nước
mà hy sinh mối tình đầu đẹp như mộng. Huyền Trân công chúa xứng đáng là thành
hoàng của dải đất Ô châu!
Trên đường trở lại nội ô, tôi nói với nhà
văn ghé thăm nơi ở của Cậu Cẩn, còn có hỗn danh là Út Trầu, con út của gia đình
họ Ngô. Ngô Đình Cẩn, lãnh chúa Cao
nguyên Trung phần thời ông Diệm.
Lối vào “dinh” lá rụng lấp đầy, mấp mô sỏi
đá khó đi. Ngôi nhà 2 tầng, mỗi tầng 5 phòng rêu phong loang lỗ. Trong sân có
cái lều nghinh phong đã không còn hình dáng ngày xưa!
Tôi
lại nhớ đến cậu Ngô Xuân Toàn,(còn được gọi là nhà thơ Ngô Xuân Toàn), con mụ O
ruột Ba tôi – thường gọi là Mụ Cửu – đồng tuế và đồng môn với ông Nguyễn Duy
Gia, người làng Lệ Xuyên, đã từng là Thống đốc Ngân hàng. Thời Ngô Đình Cẩn
đương nhiệm, cậu Toàn đã vào tận nơi làm việc của Lãnh chúa Cao nguyên Trung phần
để xin tha tội cho một ông Việt Cộng đang bị giam giữ tại ngục Chín Hầm. Ông Việt
Cộng này được tha và “lên xanh” tiếp tục tham gia kháng chiến chống Mỹ cho đến
ngày toàn thắng. Gặp lại nhau ở Đà Nẵng, ông Việt Cộng lúc này đã là đại tá
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chứng nhận thành tích của cậu Toàn là người có công với cách mạng. Cậu Toàn được
thưởng huân chương và được hưởng lương hưu.
Xe qua ngục Chín Hầm và nhà lao Thừa Phủ
nhưng chúng tôi không ghé lại mà đi thẳng. Đến một đoạn nhà văn Nguyễn Thanh
Song Cầm dừng xe, chỉ cho bố con tôi xem cái nơi “tưởng niệm những người bị chết
trong tết Mậu Thân 1968”. Dấu vết còn lại chỉ mấy bậc tam cấp và một cái lư
hương nhỏ, trên đó loe ngoe mấy chân nhang.
Chúng tôi dừng xe trước tượng đài Quang
Trung Nguyễn Huệ. Một khuôn viên hoành tráng và tượng đài cao vút giũa trời
xanh, xứng tầm với chiến công của người anh hùng áo vải Tây Sơn.
Hơn 10 giờ, Song Cầm ghé lại nhà giáo sư
Ngữ văn Trần Văn Hối, người làng Thượng Phước, có quan hệ bà con với cậu ruột
tôi, ông Nguyễn Văn Xuân.
Chiều Song Cầm có giờ lên lớp nên chúng
tôi chia tay nhau lúc này. Tôi cảm ơn nhà văn đã nhiệt tình đưa chúng tôi đi
thăm lại nơi tôi cất tiếng khóc chào đời và thăm nhiều nơi ở Cố đô Huế. Đặc biệt
là thăm nàng công chúa họ Trần đã có công mở cõi, nới rộng cương vực Đại Việt tới
Phương trời nam!
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 26/4/2019.
Nhà thơ Xuân Bảo