Mở trang mục mới.Ngày
11 tháng 8 năm 2020.
Bìa 1.
XUÂN
BẢO
NHỮNG CÂU CHUYỆN LÀNG QUÊ
(Những ghi chép về những năm tuổi
thơ ở quê Mạ Phường Sãi)
NXB HỘI NHÀ
VĂN 2021
Ghi chú: Hôm nay,ngày 4/6/2021,
tôi gom tất cả những bài viết NHŨNG CÂU CHUYÊN LÀNG QUÊ để chuẩn bị in sách.
Bìa 2 . để trắng
Bìa lót như bìa 1.
Lời dẫn: Ngày 9 tháng 3 năm
1945 Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, kết thúc gần 100 năm đô hộ của
Pháp. Nước Việt Nam Độc lập dưới tên gọi là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại vẫn làm
vua. Nội các mới do Lệ Thần Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Nhưng chính phủ Trần
Trong Kim cũng chỉ tồn tại 160 ngày, kể từ ngày 17 tháng 3 đến ngày 23 tháng 8
năm 1945, khi Bảo Đại chuẩn bị thoái vị.
Như
thế, trên thực tế nhân dân Việt Nam đã thôi là đất thuộc địa của thực dân Pháp
từ ngày này. Và lá cờ của đất nước mặt trời mọc cũng chỉ tồn tại ở Việt Nam
đúng 160 ngày.
Sau
khi Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử xuống Hiroshima ngày 6 tháng 8 và Nakasaki ngày
9 tháng 8. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chấm
dứt Đệ nhị Thế chiến.
Dân tộc Việt Nam có một khoảng thời gian rất
ngắn để tuyên bố là nước độc lập và thống nhất. Dù là độc lập giả hiệu dưới sự
bảo trợ của đế quốc Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản tuyên bố trao trả độc lập cho Việt
Nam. Triều đình nhà Nguyễn tuyên bố xóa bỏ Hiệp ước Patenôtre.
Vua
Bảo Đại ra Dụ số 1 ngày 17 tháng 3 giải tán nội các. Các thượng thư lục bộ đồng
loạt từ chức. Thày giáo, nhà sử học Lệ Thần Trần Trọng Kim được giao thành lập
nội các mới. Nội các này có 17 thành viên, gồm những nhân sĩ trí thức nổi tiếng,
trong đó có những người sau này tham gia chính phủ của Cụ Hồ Chí Minh như luật
sư Phan Anh, khâm sai đại thần Phan Kế Toại, bác sĩ Trần Văn Lai, phó bảng Đặng
Văn Hướng, luật sư Vũ Trọng Khánh, kỹ sư Kha Vạn Cân…
Tên
nước được đặt là Đế quốc Việt Nam, là thành viên Khối Thịnh vượng chung Đại
Đông Á. Bảo Đại làm vua. Tổng lý đại thần Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Quốc kỳ
vẫn giữ lá cờ quẻ ly ba sọc đỏ trên nền vàng. Quốc ca là bài Việt Nam minh châu
trời Đông. Thủ đô là Hà Nội và Đế đô là Huế. Đế quốc Việt Nam không có bộ Quốc
phòng. Đế quốc Việt Nam chính thức tồn tại trong lịch sử Việt Nam đúng 5 tháng
6 ngày.
Tuy
nhiên, trong giai đoạn chấp chính ngắn ngủi đó, chính phủ Trần Trọng Kim đã làm
được một số việc mà lịch sử ghi nhận. Đó là, thu hồi xứ Nam Kỳ thuộc địa; thu hồi
3 nhượng địa cũ là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng (vốn bị người Pháp chia cắt và
áp dụng quy chế trực trị); Thả tù chính trị, trong đó có nhiều đảng viên cộng sản;
Sơ thảo Hiến pháp. Hội đồng Sơ thảo Hiến pháp có 14 thành viên gồm các ông: luật
sư Phan Anh, nhà báo Huỳnh Thúc Kháng, nhà văn Đặng Thai Mai…; Tổ chức cứu
đói”. Nạn đói năm Ất Dậu ngày (1945) đã cướp đi hơn 2 triệu đồng bào ta.
Non sông Việt Nam được thu về một
mối!
Năm
1944, đang trong Thế chiến thứ II nên việc đi lại bằng đường bộ hết
sức nguy hiểm do Đồng minh thường xuyên ném bom hủy hoại đường giao
thông. Ba Mạ tôi rời khỏi Huế từ đầu
năm 1944 vì Ba tôi mãn hạn lính. Tôi ở lại,
ở nhờ nhà bà sếp Thông chờ thi Yếu lược nên về sau.Thi xong, tôi được
lên lớp Nhì nhất niên (cours Moyen
un), học ở trường Queignec.
Vài
tháng sau, Mạ tôi vào Huế đón tôi về. Đây là lần đầu tiên tôi được đi đò
dọc từ Huế ra Quảng Trị. Khi chờ xuống đò ở Bao Vinh. Bao Vinh là Phủ lỵ của
phủ Hương Trà, có một bến thuyền sầm uất. Tôi đứng nhìn các chiếc ghe bầu
từ xứ Quảng ra buôn bán các loại hàng hóa, trong đó đường Quảng
Nghĩa nổi tiếng. Họ có lối đếm rất độc đáo. “Một đôi, hai đắng, ba
thìn, chín chăn, chẵn chục”. Thế là đủ một chục cái bánh đường.
Gia
đình Ba
Mạ
tôi gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống khi rời Huế về Quảng Trị.
Lương hưu của Ba tôi bị cắt từ hôm Nhật đảo chính Pháp, mùng 9
tháng 3 năm 1945. Mạ tôi đã xa rời cuộc sống nông thôn trên 10 năm, một nách
bốn đứa con dại.
Đồng
bằng Triệu Phong là một vùng thuần nông. Làng Đại Hào quê nội cũng
đói nghèo như nhiều nơi khác trong tỉnh. Ba Mạ tôi xin
ông mệ nội được đem đàn con về quê ngoại Phường Sãi. Dù sao ở đây
vẫn có nhiều đất đai chưa khai thác hết. Rừng rú, khe suối thì sẵn
sản vật có thể nuôi sống con người.
Tôi
về ở quê Mạ Phường Sãi từ sau tháng 3 năm 1945 và ở quê ngoại đúng 10 năm (1945-1954),
khi Hiệp định Genève được ký kết. Đêm 19 tháng 8 năm 1954, đơn vị tôi hành quân cấp
tốc ra khỏi vĩ tuyến 17 vì ngày 20 là thời điểm khóa tuyến.
Phường Sãi là nơi ghi đậm dấu ấn thời thơ ấu của tôi.
Tôi đã viết về nơi này như sau:…….
Những
gì tôi ghi lại trong chuyên mục Những
câu chuyện làng quê là có thật. Đành rằng có những chuyện hơi hướng liêu
trai.
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 23/5/2021 nhằm ngày 12 tháng
Tư Tân Sửu
Nhà
thơ Xuân Bảo.
NHỮNG CÂU CHUYỆN LÀNG QUÊ.
Thứ tự các
câu chuyện.
Câu chuyện thứ 1 - Ông Đấu bó lúa.
Câu chuyện thứ 2 - Học sinh cấp 2 tham gia chỉnh huấn
Câu chuyện thứ 3 - Nhất điểu nhì ngư tam xà tứ tượng
Câu
chuyện thứ 4 - Liêu trai ở làng Thượng Phước
Câu chuyện thứ 5 - Ông Hoàn họan heo (lợn)
Câu chuyện
thứ 6 - Tôi kéo
bè đưa bộ đội sang song
Câu chuyện
thứ 7 - Thuốc
cá bằng rễ cây mát
Câu chuyện thứ 8 - Bẫy cọp
Câu chuyện thứ 9 - Kiếm sống bằng nghề đánh bắt thủy sản trên
sông
Câu chuyện thứ 10 - Công múa ngày xuân.
Câu chuyện thứ 11 - Làng Mạ tôi có nhiều loại chim.
Câu chuyện thứ 12 - Cậu Nghẹc bắn voi rừng
Câu chuyện thứ 13 - Nhớ giọng hò O Quý
Câu chuyện thứ 14 - Làng Mạ tôi còn có cả beo.
Câu chuyện thứ 15 –Nguồn gốc cái tên Phường Sãi và o bán bánh
Câu chuyện thứ 16. -Thanh niên hy vọng tương lai đạo
Câu chuyện thứ 17.- Hai người đàn bà kỳ lạ làng Thượng Phước
Câu chuyện
thứ 18.- Chúng
tôi làm báo
Câu chuyện
thứ 19. - Đấu tố giảm tức, giảm tức ở Thượng Phước
Câu chuyện
thứ 20. - Về bài thơ Em nữ cứu thương người Pháp
Câu chuyện
thứ 21. – Ôn dịch năm Ất Dậu – 1945
Câu chuyện
thứ 22. – Chú mõ Hồ Văn
Ốm
Câu chuyện thứ
23.- Ông Thợ Trì, người làm vè và kể vè nổi tiếng
Câu chuyện thứ
24 Quan làng
Câu chuyện thứ
25.- Ngoại ngữ Quảng Trị.
Còn tiếp
Và Gác Tây lên và chuyện 2 người lang Thượng Phước bị
bắn
Câu chuyện
thứ 2.... - Rắn trả thù
NHỮNG CÂU CHUYỆN LÀNG QUÊ
Câu
chuyện thứ nhất: Chuyện ông Đấu bó
lúa
Ở quê tôi, người làm thuê trong ngày mùa
được chủ điền trả công một ngày gặt thuê là một bó lúa. Đồng xa như Phúc Trèn,
La Nghìn cách làng gần chục cây số còn đồng gần thì như Bàu Lác, bàu Ông Phe
thì chỉ cách làng chừng nửa cây số. Cuối ngày, người gặt thuê được cõng một bó
lúa trên lưng về nhà. vì vậy đám thợ gặt phải nhờ đến ông Đấu – một tay thợ bó
lúa cừ khôi – cả làng ai cũng biết tiếng. Bó lúa là một nghệ thuật. Sợi lạt
dùng chỉ dài đúng 2 thước 2 ta không hơn, không kém. Hai đầu sợi lạt chỉ có khoảng
một phân tây ngoắc vào nhau.
Mặt trời lên chừng hai con sào thì người
thợ gặt mới chọn những bông lúa mẩy hạt rải phơi lên giường ruộng (bờ thửa) để
chiều về cuống rơm héo đi, khi bó sẽ được nhiều lúa. Mạ tôi cũng đi gặt thuê,
có hôm gặt xa tận đồng La Nghìn. Bó lúa nhờ ông Đấu bó quá nặng so với sức vóc
của một thiếu phụ nên đi được một đoạn, tới dưới dốc Cơn Thang thì Mạ tôi bỏ bó
lúa xuống chia ra làm hai rồi dùng đòn xóc quảy về nhà.
Có một chuyện vừa buồn lại vừa vui về bó
lúa gặt thuê của ông Đấu. Bó lúa gặt thuê của ông Đấu đem về nhà, ông không để
ngoài sân mà mang vào nhà, gian cạnh ban thờ, (quê tôi gọi là giường thờ). Đêm
đến, không khí mát lạnh làm cho các cuống rơm nở ra, sợi lạt không chịu nổi nữa
nên lạt bị tung ra và bó lúa nổ như một quả bom, lúa bay làm đổ ban thờ???
Trong Hồi ký của Trần Đức Long cũng có đề cập đến câu chuyện này.
Ông Đấu có người anh tên là Ông
Ca, cùng ở bên Xóm Mộ, sau lưng nhà Mụ Mới. Hai anh em đều có vóc dáng người to
cao, chắc nịch và được bà con trong làng thương mến.
Câu
chuyện thứ hai. Học sinh cấp II tham
gia chỉnh huấn.
Đó là vào thời gian cuối năm 1953, khi đất
nước bước vào thời kỳ giảm tô, giảm tức,
chưa phải là thời kỳ cải cách ruộng đất.
Đó là thời kỳ mà trong quân đội có “Rèn
cán chỉnh quân”, trong dân sự thì có
“Rèn cán chỉnh cơ”. Còn học sinh thì có đợt “Học tập để phục vụ nhân dân”, cũng là một loại hình chỉnh huấn.
Tôi còn nhớ rõ địa điểm lên lớp cho học
sinh cấp II chúng tôi là ngoài sân nhà Mụ Mới bên Xóm Mộ. Hội trường là cái
chái nhà Mụ, trên tường treo một tấm vải màu xanh da trời, có câu khẩu hiệu chữ
trắng cắt từ giấy ra, “ Học tập để phục
vụ nhân dân”. Chung quanh cũng thưng bằng vải, có những câu như sau: “Đào sâu suy nghĩ, bộc lộ hết những sai lầm
là trung thành với Tổ quốc”.Người truyền đạt nội dung là một ông cán bộ Ban
Tuyên Văn cấp tỉnh. Tài liệu là những bài giảng trên lớp, học sinh chúng tôi phải
tập trung nghe, ghi chép và lĩnh hội cho thấu triệt một cách nghiêm túc.
Đến gần cuối khóa là phần viết thu hoạch.
Thu hoạch kết quả của đợt học tập. Học viên chúng tôi được cho ở riêng trong một
cái chòi tạm, lợp bằng lá sim, cả trên mái lẫn bao quanh, chỉ có một lối vào
duy nhất, không có cửa, có một cái bàn ghép tạm bằng những thanh tre và cái ghế
cũng ghép bằng tre. Ngồi trong chòi đó mà phản tỉnh, kiểm lại xem mình thời gian
qua đã có những việc làm hoặc trong tư tưởng có gì sai lầm. Có ước mơ viễn vông
sau này có vợ đẹp, con khôn, ôtô, nhà lầu hay không? Thậm chí, từ trong ý nghĩ
có khi nào thấy kháng chiến gian khổ mà có ý định “dinh tê” không?
Trong bản thu hoạch tôi đã thành khẩn bộc
lộ sai lầm là đôi khi cũng muốn về thành cho đỡ khổ. Tôi lại thành khẩn đến mức
khi viết lý lịch tôi đã khai: Ông nội có thời gian trước Cách mạng Tháng Tám đã
làm lý trưởng (xã trưởng), còn ba tôi là lính khố đỏ. Ông nội và ba tôi theo
vào lý lịch của tôi suốt cả chặng đường tôi tham gia cách mạng và tôi cũng đã
chịu bao thiệt thòi trong qúa trình công tác!
Tôi còn nhớ một kỷ niệm. Không hiểu có trò
nào đó nghịch ngợm khi ngồi trong chòi quá khuya nên đã giả làm tiếng gà gáy
làm cho những chú gà trống xung quanh xóm ồn ả gáy theo. Sáng hôm sau, Ban lãnh
đạo học tập và thầy hiệu trưởng Đặng Bá Đệ đã nghiêm khắc cảnh cáo dưới cờ cả tổ
học sinh Thượng Phước.
Sau đợt học tập này, học sinh chúng tôi được
bố trí làm công tác thuế nông nghiệp và tham gia “đấu” mấy “vị nhà giàu” trong
xã.
.
Câu chuyện thứ ba. “Nhất điểu,
nhì ngư, tam xà, tứ tượng”.
Ông ngoại tôi là một nhà nho uyên thâm.
Có lần chúng tôi được nghe Ông ngoại nói câu: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng. Trong bốn con vật
khổng lồ đó thì nhất điểu (chim) là loài động vật lớn nhất.
Nhất điểu (chim). Ông kể: có một lần, trời đang yên hàn, nắng soi rực rỡ, bỗng nghe tiếng
gió rít và trời thì tối sầm lại, cây cối trong nương nghiêng ngả. Vài phút trôi
qua, nhìn lên trời thì thấy một con chim bay từ núi rừng bay ra biển. Ông nói rằng
trong dân gian có câu hát ru em: Con
chim đại bàng bay qua hòn Núi Bạc/Con cá ngư ông nó móng nước ngoài
khơi…
Có thể đây là con chim mà Tiểu đoàn 3 ( 3è bataillon ) Lê dương của Pháp,đi đánh phát xít Đức trở về qua
Madagascar (cũng là thuộc địa của Pháp) thì có một con chim rất to cứ bay
theo đoàn tàu. Người chỉ huy cho lính lấy một cái mỏ neo nhỏ làm
lưỡi câu, mắc vào đó một tảng thịt ngựa to, thả xuống biển. Vừa
mới thả xuống thì con chim đó sà xuống đớp ngay cục thịt và nuốt
vào họng, mang theo cả cái dây cáp bằng thép. Tàu tăng tốc độ, kéo
theo con chim là là trên mặt biển. Đi khoảng hơn ba hải lý thì chim
đuối. Tàu chạy chậm lại và đề phòng chim có thể còn sống nên chỉ
huy đã cho xả súng bắn chết. Thịt con chim này cung cấp thực phẩm cho
cả tiểu đoàn. Về tới Đông Dương mà vẫn còn một ít đem biếu cấp
trên. Điểu đây còn có thể là con chim mà tiểu đoàn Lê dương của Pháp đi đánh hụt
phát xít Hitler trở về qua Madagascar đã câu được chăng?
Nhì ngư (cá). Trong câu hát ru trên: Con cá ngư ông nó móng nước ngoài khơi, gồm cả điểu và ngư. Con cá
ngư ông chính là con cá voi mà năm nào, cứ tới mùa rét thì có vài con cá này chết
trôi vào bờ biển nước ta. Dân vùng ven biển thường tổ chức mai táng cá voi rất
trọng thể. Có nhiều làng lập hẳn nhà thờ để thờ Ông Nam Hải, tức Cá voi.Vừa
qua, tại bờ biển Nghệ An, làng Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu có con cá voi dài 13
mét, nặng 15 tấn vào bờ, mắc cạn. Dân làng phải huy động 3 xe xúc, đào rãnh lấy
nước và hàng trăm người tham gia xô đẩy cá voi trở về biển. Ở Canada lại có nghề
săn bắt cá voi để lấy thịt, có con nặng trên 20 tấn.Cá voi thuộc giới Động vật,
ngành Chordata, lớp Mammalia, phân lớp Eutheria, Bộ Cá voi, chúng thuộc về phân
bộ Odontoceti (cá voi có răng). Phân bộ này cũng bao gồm siêu họ cá nhà táng,
cá hổ kình, cá voi hoa tiêu, và cá voi trắng. Phân bộ cá voi khác bao gồm
Mysticeti. Phân bộ này cũng bao gồm cá voi xanh, cá voi lưng gù, the bowhead
whale và minke whale. Cá voi xanh, cá voi vây, cá voi xám, cá voi trắng, cá hổ
kình.
Năm 1954, tôi tập kết ra Bắc. Lính bộ đội
địa phương Quảng Trị và Thừa Thiên hành quân bộ. Đến làng Cảnh Dương, thì nghỉ
đêm. Ban chỉ huy cho chiến sĩ vào thăm lăng Ông Cá voi. Làng Cảnh Dương vẫn còn
lưu giữ gần như nguyên vẹn hai bộ xương cá voi tại đình làng. Bộ xương chứa chật
một gian nhà. Mảnh xương sườn dài đến 2m, còn đốt xương sống to bằng cái mâm
nhôm.
Bài hát chèo cạn hát trong lễ tế đức
Ông của làng biển Cảnh Dương (Quảng Trạch - Quảng Bình) có câu:
Nay mừng mở hội Cầu Xuân.
Trời sinh Thánh thượng Duy Tân trị vì.
Trời yên, biển lặng bốn bề,
Đức Ông thượng thọ nước về
cõi tiên.
Lênh đênh mặt nước bao miền.
Tìm nơi
đất tốt, dân hiền ghé vô.
Xuân sang lai láng biển hồ
Ngư dân trông thấy rước vô lạch
nhà.
Tưng bừng nổi trống, kết
hoa.
Nghe tin làng nước gần xa
đón mừng.
Tam xà (rắn). Tôi còn nhớ trận lụt năm Thìn 1952. Núi rừng Trường
Sơn sạt lở rất nhiều. Có nhiều bản sụt hẳn xuống sông, mang theo cây cối, nhà cửa,
trâu bò và các loài động vật khác…Trôi trên sông Hương có một con rắn to. To
như thế nào thì bây giờ khó cân đong đo đếm được. Chỉ biết rằng khi trôi về đến
cầu Bạch Hổ thì đám cây rừng bị mắc kẹt, không trôi qua được mấy trụ cầu. Người
dân phát hiện trong đám lá rừng đó có một con rắn khổng lồ. Được tin, tên quan
hai chỉ huy đồn Kim Long cho bố trí mấy khẩu đại liên cả hai bờ bắc và bờ nam,
rồi cho xả súng vào chỗ có con rắn. Chuyện có thật hay không thì tôi không được
biết tường tận mà chỉ nghe thiên hạ đồn thổi mà thôi.Nhưng chuyện rắn to (mãng
xà vương) thì miệt rừng U Minh có rất nhiều. Trừ những chuyện vui Bác Ba Phi kể,
không mấy đáng tin thì vẫn có những con rắn thật mà người dân đã từng chứng kiến.
Bác Ba Phi - một kỳ lão xứ U Minh vốn nổi tiếng về tài nói khoác, có đoạn viết:
“Hồi xưa trong rừng U Minh Hạ có những
con rắn hổ mây khổng lồ không biết sống từ thời nào, chỉ biết khi nó say mồi nằm
ngủ trong rừng, mấy ông thợ săn len lén tới ôm thử thì chu vi vòng bụng hết ba
vòng tay người lớn. Con rắn giật mình thức dậy, đầu cất cao khỏi ngọn cây rừng,
há miệng toang hoác khiến chim chóc tưởng thân cây nên đậu trên đầu và làm tổ
trong miệng, bị nuốt chửng”.Những bậc cao niên ở U Minh Hạ cam đoan rằng
nơi đây chính là vương quốc bất khả xâm phạm của loài rắn hổ mây khổng lồ, loài
vật được tôn là "mãng xà vương" của rừng U Minh đã truyền tụng qua
hàng trăm năm. Những người từng gắn bó lâu năm dưới tán rừng tràm U Minh Hạ
cũng quả quyết rằng nếu trừ đi những phần thêm mắm dặm muối của bác Ba Phi thì
câu chuyện về những con rắn hổ mây khổng lồ của rừng U Minh là hoàn toàn có thật.
Tứ tượng (voi). Từ trước tới nay dân ta vốn coi voi là con vật to nhất. Đồng bào thượng
du, phần lớn ở mạn rừng Trường Sơn, đã biết săn bắt, dụ dỗ, thuần dưỡng voi rừng.
Voi được coi là người bạn thân thiết của con người, giúp con người kéo gỗ từ rừng
sâu ra bãi trống. Ở Trung Hoa lại có chuyện vua Thuấn cày bằng voi (theo câu
Phá đề “Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi”, bài Từ Thứ quy Tào của Tôn Thọ Tường).
Truyền thuyết đầu tiên của người Việt có
nhắc đến voi chín ngà, là sính lễ mà Vua Hùng bắt buộc khi Sơn Tinh và Thủy
Tinh cầu hôn Mị Nương. Từ thời Hai Bà Trưng chống quân Hán, hai bà đã ngồi trên
bành voi xung trận. Bà Triệu, đã dùng con voi trắng một ngà xông pha trận mạc,
đánh tan bè lũ quân Ngô. Đến thời Quang Trung, Tượng binh là một trong những
binh chủng cừ khôi nhất, giúp nhà vua đánh ngoại bang quân Thanh, quân Xiêm.
Vào cuối thời nhà Nguyễn, triều Bảo Đại là
ông vua thích đi săn nhất. Bảo Đại cho làm những con đường riêng để đi săn. Ở
Quảng Trị có con đường mang tên Vĩnh Thụy chạy song song với Quốc lộ 9, từ ngả
ba Lai Phước, Quốc lộ 1A lên Cùa – nơi có căn cứ Tân Sở - của vua Hàm Nghi phát
Chiếu Cần vương. Ở Đà Lạt có con đường vành đai vòng quanh xứ sở sương mù chỉ để
giành riêng cho Bảo Đại đi săn.
Trong kháng chiến 9 năm, tôi có ông cậu
tên là Nguyễn Nghẹc – một tay thiện xạ
- nên Trung đoàn phân công cậu đi kiếm
thịt rừng về cho bộ đội. Có lần cậu tôi bắn được một con voi. Tin cậu bắn được
voi truyền vế làng. Dân làng mang theo triêng gióng (quang gánh), dao rựa vào rừng
xẻ thịt voi. Mạ tôi bảo tôi cố gắng lấy cho được cái đợợng (cái gan bàn chân
voi) để làm món canh bóng ngày Tết, nói theo kiểu miền bắc. Bóng đoợng voi là
món ăn thuộc loại cao lương mỹ vị, chỉ có nhà giàu và những gia đình quyền quý
mới dám dùng.
Voi Việt Nam cũng giống như voi châu Á, cặp
ngà voi dài. Thân cũng không lớn bằng các loài voi châu Phi, ăn các loài thực vật
chủ yếu trái cây, thân các cây mềm như cây chuối, mía v v…
Voi đồng cỏ châu Phi hoặc còn gọi là Voi bụi
rậm châu Phi, Voi xavan (Loxodonta africana) là một trong hai loài trong Chi
Voi châu Phi (Loxodonta) cùng với Voi rừng châu Phi (Loxodonta cyclotis). Đây
là loài lớn nhất còn sống của Bộ Có vòi (Probosidea) và là loài động vật lớn nhất
trên mặt đất ngày nay. Một dạng đặc thù của loài này là những con voi sa mạc sống
trong các vùng sa mạc khô cằn. Những con voi đực to lớn có thể có khối lượng cơ
thể lên tới 7,5 tấn và cao trên 4 m. Những con voi cái nhỏ nhất thì chỉ cao 2,7
m và nặng 3 tấn. Nhìn chung với tầm vóc khổng lồ của mình, trên thảo nguyên
châu Phi hầu như voi rừng không bị động vật nào gây hấn, kể cả những mãnh thú
săn mồi, tuy nhiên voi rừng cũng dễ bị đàn sư tử giết chết nếu đi lạc vào lãnh
địa của sư tử.
Voi đồng cỏ châu Phi có tai to nhất trong
các loài voi. Vòi của chúng có 2 ngón tay chứ không phải 1 như ở Voi châu Á
(Elephas maximus). Ngà voi đồng cỏ châu Phi dài tới 3 m và nặng khoảng 15–20
kg. Cả voi đực và voi cái đều có ngà. Chúng có bốn cái răng hàm lớn, mỗi hàm có
hai cái, mỗi cái có đường kính 10 cm và dài 30 cm.
Người dân Tây Nguyên khi vào mùa đều tổ chức
các lễ hội đua voi, để vào mùa mới. Các dân tộc M'Nông, Êđê, Gia Rai. Lễ hội
đua voi ngày nay cũng còn lại tổ chức khá ít, vì nhiều nguyên nhân như: Không
gian vui chơi, lượng voi ít, quản tượng chạy theo thị trường. Thợ săn voi không
có nghề, các chàng trai săn voi Buôn Đôn giờ ngồi trên lưng voi bị xích, chỉ
huy nó đi một trăm mét tới, quay lại, đi một trăm mét về chỗ cũ.
Vua voi Ama Kông chuyển sang bán thuốc
"hạnh phúc gia đình" và thu tiền người chụp ảnh mình và chụp ảnh với
mình. Bản Đôn được xem là nơi vương quốc loài voi ở tỉnh Đắk Lắk là nơi có đàn
voi rừng và voi nhà nhiều nhất Việt Nam với số lượng khoảng 80 - 110 con voi rừng
và 61 con voi nhà. Đàn voi rừng và voi nhà đang ngày càng giảm sút số lượng và
đứng trước nguy cơ chỉ còn trong huyền thoại.
Tỉnh Đắk Lắk có đề án thành lập một trung
tâm bảo tồn voi với quy mô 200 ha tại Vườn quốc gia Yok Đôn.
Câu chuyện thứ tư: Chuyện Liêu
Trai ở làng Thượng Phước.
Làng Thượng Phước có địa thế rất rạch ròi.
Phía trước giáp bờ nam sông Thạch Hãn, băng qua bãi cát rồi tới biền. Biền là một
dải đất sát bờ sông rất màu mỡ bởi hàng năm phù sa đắp lên dày có tới mười, mười
hai phân tây, thường canh tác cây dâu tằm hoặc các loại đậu… tới thốốc, tới kiệt
giành riêng cho trâu bò đi.
Nhà cửa vườn tược của dân làng tập trung
vào dải đất giữa làng, có kiệt ngang chia cắt từng xóm riêng lẻ. Ngoài lũy tre
là những đám ruộng nhỏ, thường dùng để bắc mạ. Rồi đến con đường làng, gọi là
đường cái quan, chạy từ chạy từ chân cầu Thạch Hãn, (cầu gồm đường sắt và Quốc
lộ 1A), qua làng An Đôn, nay là phường lên tới Phường Sãi thì bắt gặp những đôộng,
những hác, tức là đã bước vào miền duyên sơn. Cặp với con đường cái quan là hai
cánh đồng lúa có tên là Baù Lác và Bàu Ông Phe. Đồng Bàu Lác chạy quanh Cồn Cự
đến khỏi hác Cồn Lê thì gặp Cánh đồng Hoang. Bàu Ông Phe chỉ ngắn một khúc từ đầu
làng. Lại có thêm cái Xóm Mộ. Chữ Mộ này
khộng có nghĩa là mồ mả mà là chiêu mộ.
Dân quê tôi không có thói quen an táng người
thân trong nương nhà mà tất cả những người quá cố đều được chôn cất trên những
quả đồi. Hồi trước, đất rộng người thưa cho nên muốn chôn cất ở đâu cũng được.
Do đó mới có tên Cồn Mồ.
Ông giáo Trợ, người họ Trần Đức, có ngôi
nhà ngói ở kiệt giữa làng, thuộc loại nhà giàu có nên được ăn học tử tế và sau
khi ra trường ông được bổ về dạy ở thị xã Quảng Trị. Đoạn đường từ làng về thị
xã dài khoảng non 5 cây số. Sau khi tan lớp chiều ông đi bộ về nhà, thường là
lúc trời đã về đêm. Đường vào nhà ông giáo có một
cây phượng vĩ, mùa hè hoa nở đỏ rực.
Có dạo, bọn trẻ chúng tôi được nghe các cụ
già trong làng kể chuyện thầy giáo Trợ được hai cô gái xinh đẹp mời về nhà
chơi. Hai cô đều mặc quần áo trắng, dáng người thanh mảnh, dịu dàng, khuôn mặt
rất đẹp, mái tóc dài buông xuống gần chấm gót, đôi mắt sáng long lanh và có nụ
cười rất tươi. Hai cô này tự nhiên xuất hiện trước kiệt vào nhà thầy, dưới gốc
cây phượng vĩ, đón đường thầy và đon đả mời thầy về nhà. Dù không hề biết mặt
và chưa hề quen biết, nhưng trước vẻ đẹp kiều diễm và những lời mời nhiệt tình,
thầy giáo Trợ đành đi theo hai cô gái. Thầy được đưa về một ngôi nhà rất lộng lẫy.
Trong nhà đèn đuốc sang choang. Người đi lại tấp nập. Tiệc được bày biện ngay tại
sảnh lớn, trên một chiếc sập khảm trai rất đẹp, đủ các món cao lương mỹ vị. Duy
có một điều lạ là trong ngôi nhà này không có mặt một người đàn ông nào mà chỉ
thấy vài mụ già thôi. Rượu ngon lại được mỹ nhân ân cần tiếp đãi nên thầy giáo
Trợ say lúc nào không biết.
Sáng ra, mặt trời lên chứng một con sào,
thầy tỉnh rượu. Đầu óc mường tượng tối hôm qua thầy được mời dự tiệc trong một
dinh thự lớn, lại được hai người đẹp ân cần khoản đãi, sao bây giờ lại nằm trên
đám đất mà chung quanh có 3 cây duối cao to vây kín. Thầy nghe tiếng lao xao của
bà con làm đồng nói chuyện phía ngoài. Thầy gọi lớn: Cứu tôi với! Tôi là giáo
Trợ đây! Người ta lấy làm lạ, sao thầy lại chui vào được trong lùm cây duối
này?
Một người hỏi: - Sao thầy lại vô được
trong đó?
Thầy trả lời: Cũng chẳng biết nữa. Thôi,
hãy đưa ra ngoài rồi tôi sẽ thuật lại cho cả làng biết.
Thế là mấy người trai làng chạy về lấy hai
cái thang tre. Một cái để phía ngoài, tựa vào lùm duối, mang theo cái thang thứ
hai, trèo lên ngọn duối, thả xuống để thày Trợ trèo lên, thoát ra theo cái
thang thứ nhất. Câu chuyện chỉ có thế. Nhưng sau này dân làng thêu dệt thành ra
chuyện hai cô gái thành tinh, chuyên dụ dỗ những chàng thanh niên làng cường
tráng, đẹp trai. Bởi vậy, trong một thời gian dài người ta không dám đi ra khỏi
nhà vào ban đêm.
Chuyện sau đây là có thật. Chuyện “ma
trơi” bay theo người đi đường. Có một buổi xẩm tối, sấm chớp ì ầm, báo hiệu sẽ
có cơn mưa giông lớn. Anh Tự, con ông cậu tôi, trên đường đi học về. Anh phải chạy cho thật nhanh để
khỏi mắc mưa. Đến gần Cồn Mồ thì anh thấy sau lưng mình có nhiều “bó đuốc” đuổi
theo. Anh sợ quá, vấp vào một mô đất ngã xuống, nhìn lại sau thì chẳng thấy “bó
đuốc” nào cả. Sau này, khi văn minh được truyền bá, mọi nguời mới biết đó là những
khối lân tinh từ xương người chết trong mả, bốc lên mỗi khi động trời.
Câu chuyện thứ 5. Chuyện ông
Hoàn hoạn heo (lợn).
Để hạn chế nạn nhân mãn, bùng nổ dân số,
con người được nhà nước quan tâm dùng nhiều biện pháp để hạn chế sinh đẻ như
đàn ông thì thắt ống dẫn tinh, đàn bà thì đặt vòng, thắt hoặc cắt bỏ buồng trứng,
uống thuốc ngừa thai…Riêng việc triệt sản cho các loài gia súc, gia cầm như
chó, mèo, heo (lợn), bò, gà đã có cán bộ thú y đảm nhiệm. Người làm nghề thiến
và hoạn còn lại rất ít. Thường thường, những nhà có nuôi gia cầm, gia súc thì tự
làm lấy việc thiến, còn việc hoạn thì hầu như không có.
Ngày trước, quê ngoại của tôi có ông Hoàn ở
xóm dưới làm nghề này. Dân làng thường gọi ông là “quan Hoàn hoạn heo”. Trong làng và những làng lận cận nếu gia đình
nào cần thì gọi ông Hoàn. Bọn trẻ chúng tôi hay theo ông để nhìn tận mắt việc
làm này. Dụng cụ ông Hoàn mang theo gồm một cái thang tre ngắn, chiều cao khoảng
2 mét, hai sợi dây thừng bằng sợi vải, một con dao nhíp, một cái móc, mây cuộn
chỉ, một ít muội bếp, (quê tôi gọi là lọ nghẹ), một cái chai nhỏ đựng dầu hôi,
(dầu hỏa).
Ông Hoàn đến nhà người có con vật cần thiến
là con đực hay hoạn là con con cái. Ông buộc cái thang tre cố định cho chắc vào
gốc cây mít hay bất kỳ cây nào khác. Ông tóm gọn hai chân sau con vật treo ngược
vào thang, mặc cho nó kêu rồi ông lấy dầu hôi bôi vào chỗ cần cắt. Ông lấy dao
nhíp sắc khía vào hòn dái con đực một lát ngắn rồi ông nặn hột dái ra, lấy dao
cắt rời, lấy chỉ vuốt qua lọ nghẹ và khâu lại. Hết hòn dái bên này, ông lai làm
sang hột dái bên kia, bôi dầu hôi lên vết cắt rồi tháo dây thừng thả con vật
vào chuồng. Con đực thì gọi là thiến. Còn nếu là con cái thì gọi là hoạn. Thực
ra hai từ này không khác nhau là mấy. Con đực thì lấy hột dái ra, con cái thì cắt
hết buồng trứng.
Tôi lại nhớ đến mấy vị hoạn quan cuả nước
An Nam ta. Trong đó có quan hoạn thứ nhất nổi danh trong lịch sử Việt Nam là Việt
Quốc công Lý Thường Kiệt, đời nhà Lý với chiến công "phá Tống bình
Chiêm". Người hoạn quan thứ hai cũng rất nổi tiếng là Việp Quận công Hoàng
Ngũ Phúc làm quan dưới đời vua Lê Hiển Tông. Ông đã cùng Phạm Đình Trọng dẹp
yên hai cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Danh Phương, khi về hưu được
phong làm Quốc lão. Về sau ông đem đại quân đánh vào Phú Xuân, bắt được Trương
Phúc Loan rồi trấn thủ Thuận Hóa, chấm dứt một giai đoạn Nam – Bắc phân tranh
kéo dài hơn 200 năm. Người thứ ba là Tả quân Lê Văn Duyệt khai quốc công thần
triều Nguyễn. Lê Văn Duyệt tuy cũng xuất thân hoạn quan nhưng ông bản chất là
người “ái nam, ái nữ” chứ không phải tự thiến để thành quan thị như Việt Quốc
công Lý Thường Kiệt hay Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc.
Ở
Việt Nam, hoạn quan được ghi nhận là có từ thời nhà Lý, đến triều Nguyễn, hoạn
quan được chia làm năm trật:
1. Quản
vụ Thái giám và Điển sự Thái giám.
2. Kiểm sự Thái giám và Phụng nghi Thái giám.
3. Thừa vụ và Điển nô Thái giám.
4. Cung sự và Hộ nô Thái giám.
5. Cung phụng và Thừa biện Thái giám.
Việc kén chọn hoạn quan ưu tiên tuyển những
trẻ em "ái nam con gái" do
lệnh của triều đình. Người dân nào sinh con có khuyết tật đó được quan sở tại tới
khám xét rồi làm sớ tâu lên. Cha mẹ đứa bé sẽ nuôi con đến lúc 13 tuổi, sau đó
Bộ Lễ sẽ đưa vào cung tập sự hoạn quan. Làng nào có hoạn quan tiến cử được miễn
binh lính, phu phen tạp dịch và cả sưu thuế. Nếu không có đủ số trẻ ái nam con gái, thanh niên nào tự nguyện
thiến bộ phận sinh dục sẽ được tuyển chọn. Tuy nhiên, thái giám Việt Nam chỉ là
một số nhỏ không được trọng vọng lại chỉ được làm những việc lặt vặt chưa thành
hẳn một tầng lớp có ảnh hưởng như Trung Hoa. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng,
thái giám không được dự vào phẩm hàm hay quan chức triều đình và chỉ được hầu hạ
trong cung mà thôi, cũng có thể nhà vua không muốn xảy ra việc hoạn quan chuyên
quyền như Trung Hoa hay vì đố kỵ với Tả quân Lê Văn Duyệt trong vụ nổi loạn
thành Phiên An. Tấm bia khắc là toàn văn bản dụ này nay vẫn còn trong Văn Miếu,
Huế. Thái giám cũng có riêng một nghĩa trang trong khuôn viên chùa Từ Hiếu,
cách Huế khoảng 1 km theo hướng tây nam và vì thế chùa này còn được gọi là chùa
Thái Giám.
Trong một số thời kỳ, nước Việt phải đem cống
sang Tàu một số người tài giỏi, sau đó bị trở thành hoạn quan. Theo Hoàng Minh thông ký, một hoạn quan người
Việt là Nguyễn An đã vẽ kiểu tu tạo thành Bắc Kinh bao gồm 9 cửa, 2 cung, 3 điện,
5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường, xưởng, nhà trạm. Ông làm quan trải
năm đời vua triều Minh là: Thành Tổ, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông, và Cảnh
Tông, tính tình liêm khiết rất đáng kính trọng.
Câu chuyện thứ 6. Tôi kéo bè
đưa bộ đội sang sông
Tôi
là người được thôn đội trưởng phân công kéo bè đầu tiên. Tuổi nhỏ làm
việc nhỏ. Đây cũng là công tác kháng chiến, tham gia kháng chiến,
ngoài công việc đi gác khi Tây lên lùng thì đánh mõ báo động để dân
làng chạy vào độộng. Vì nhà ở gần bến bè nên lãnh đạo thôn giao cho
tôi kéo bè. Có ít tiền phụ giúp Mạ tôi nuôi các em trong lúc Ba tôi
đi bộ đội vắng nhà.
Đoạn
sông này không có đò ngang nên thôn đội trưởng Lê Duy Ngữ cho phép đóng bè để chở bà con, bộ đội,
cán bộ đi lại từ Thượng Phước sang Như Lệ và ngược lại.
Có câu chuyện được các chú Vệ Quốc đoàn kể lại:
Trong lúc chờ bè, cả tiểu đội ngồi nghỉ trên một “khúc gỗ”. Được một
lúc chiến sĩ này nói chiến sĩ kia “Sao cậu cứ lấn mình thế?”. Cho
tới lúc mọi người thấy nhột nhột dưới đít và tuột cả xuống đất.
Tiểu đội trưởng bấm đèn pin soi vào “khúc gỗ”. Chao ôi! Đây chính là
thân con trăn núi, bị sức nặng cả một tiểu đội ngồi lên, chịu không
thấu nên đã trườn vào rừng. Có phải chính con trăn này đã từng nuốt
một con bê của nhà ông Đóm? May mà nó không quay đầu lại. Thật hú
vía!
Cũng cần nói qua để bạn đọc đời sau có thể hình dung ra thời
kỳ cha ông mình tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc (cả thời chống
Pháp và chống Mỹ) đã sáng tạo muôn vàn cách đánh để thắng được hai
đế quốc to như thế này? Bè làm bằng thân cây chuối lá (miền nam gọi
là chuối hột), nặng phải hai người lớn mới vác nổi. Chuối chặt bỏ
gốc và ngọn. Thân được xếp trở đầu đuôi, khoảng mười cây. Dùng 4 cây
hóp, một loại tre không gai, vót nhọn đóng xuyên qua thân chuối, lấy
dây chạc chìu, loại dây rừng rất dai và bền nuộc chặt lại, cưa bỏ
phần nhọn cây hóp. Dây kéo bè thì dùng loại tre hèo non bánh tẻ,
chẻ làm hai vót thật trơn. Hai đầu tre được hơ lửa cho thêm dẻo rồi
buộc lại theo lối chữ nhân đoạn này nối đoạn kia, chừng nào đủ
chiều dài ngang sông thì thôi. Một đầu dây kéo buộc vào một thân cây
lớn phía bắc, gần Lùm Miệu trên, (Lùm Miệu trên là của làng Thượng
Phước thờ một vị phúc thần, cách Lùm Miệu dưới của Phường Sãi
chừng 400 mét). Đầu phía nam buộc vào một thân cây tre to đóng xuống
bãi cát, thật sâu và chắc, gọi là Bãi Soi. Đất Bãi Soi này trước là
của làng Thượng Phước, do sông đổi dòng nên xô sang làng Như Lệ. Bãi
Soi phía làng Như Lệ, bờ nam sông Thạch Hãn là một bãi bồi rộng hơn
10 mẫu.
Theo ông ngoại tôi kể lại lúc bọn tôi
còn nhỏ thì cách đây mấy trăm năm, cũng có thể là hàng ngàn năm?
rào Thạch Hãn đổi dòng, do địa chấn hoặc núi lửa phun trào. Quảng
Trị có cả một vùng đất bazan từ Cùa lên Hướng Hóa ra tận Thủy Ba
(Vĩnh Linh).
Trước đó dòng chảy thẳng từ phường
Đá Đứng. Dòng chảy đang chảy như một cái dấu \ (huyền) xuống tận
vực Như Lệ, đối diện với bến Phường Sãi sau này.
Đã có những cuộc tranh chấp mẻ đầu sứt trán giữa hai làng Thượng Phước
và Như Lệ. Cuối cùng thì Thượng Phước thắng.
Thế
là có một sợi dây chăng qua sông Thạch Hãn. Người đưa bè, sau khi ổn
định chỗ ngồi cho khách, từ từ lần theo sợi dây, từng bước tay một,
bè được trôi đi theo hướng người kéo bè về phía trước. Mỗi lần chỉ
chở được khoảng năm, sáu người, nếu có hàng như chuối, mít, sắn
khoai hay ba lô, súng đạn thì chỉ chở được tối đa là năm người. Có
thể nói đây là chiếc bè tự giác. Người sang sông không phải trả tiền
đi bè mà tùy vào lòng hảo tâm, có thể cho người kéo bè 5 xu, 1 hào
(tiền Tài chính lúc bấy giờ) hoặc củ sắn, trái bắp cũng xong. Còn
bộ đội qua sông thì tuyệt nhiên không được lấy tiền kéo bè, phục vụ
là chính.
Tôi
có một kỷ niệm buồn về việc kéo bè này. Hôm đó nước sông Thạch
Hãn lên to. Một tiểu đội hành quân gấp sang sông. Tôi nói rằng bè chỉ
chở được 5 người và 1 người kéo bè mà thôi. Các chú bộ đội nói:
Để các chú tự kéo bè sang, rồi chốc nữa có ai về thì họ kéo trả
bè lại. Tôi đã ngăn đến lần thứ ba nhưng các chú không nghe, tự ý
xuống bè tất cả. Lúc đầu bè cũng theo dây kéo ra được hơn chục mét.
Đến chỗ nước xiết mũi bè chúi xuống càng ngày càng sâu. Mọi người
nhốn nháo vì bè đã chìm và người kéo bè thả cho trôi tự do. Nhiều
chú bộ đội không biết bơi và lúc này trên lưng đeo nặng ba lô, súng
đạn, ruột tượng gạo cho nên chới với một lúc rồi chìm, người bị
nước cuốn đi và chết đuối.
Mấy ngày sau ở bến Cồn Kết, xóm
dưới, chiếc bè mắc lại, còn xác người thì nổi ở cầu Thạch Hãn,
còn gọi là cầu Ga. Bọn Pháp huênh hoang rằng bọn chúng đã bắt được
một tiểu đội Vệ Quốc đoàn và bắn chết cho trôi sông?!
Trần Quốc Tiến, phóng viên báo Vệ Quốc quân - Phân khu (thuộc
Liên khu 4 cũ), một chi nhánh của báo Quân đội Nhân dân sau này, quê
làng An Lưu, gần Chợ Cạn, nơi có bài thơ Tiếng cây dương Mỹ Thủy nổi tiếng của nhà thơ Dương Tường,
Trưởng nhóm Văn nghệ Nguồn Hàn. NHóm sau này là tổ chức Văn nghệ Quảng Trị.
Ông Tiến còn có bút danh Tấn Hoài khi ông làm thơ, nay sống ở Biên
Hòa, nhớ lại đã có lần đi trên chiếc bè này do Xuân Bảo kéo.
Phường Đá Đứng, cách Phường Sãi
khoảng non ba cây số, do một vài dòng họ làng Thượng Phước đến đây
khai hoang vỡ đất, trong đó phái Trần Đức là lớn nhất. Cụ Trần Đức
Hạp có những người con làm rạng danh tổ tiên. Đó là ông Trần Đức
Lương, nhà báo, phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam, ông Trần Đức
Duệ, đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông Trần Đức Khâm, Viện phó
Viện qui hoạch Quản lý nước – một nhà khoa học tầm cỡ về công tác
thủy lợi - và những người họ Lê, họ Bùi khác cũng nổi danh một
thời.
Chữ Phường này khác nghĩa
với chữ Phường, một đơn vị hành chính cơ sở hiện nay, mà là một
danh xưng bởi những người cùng làng ở miệt đồng bằng hoặc duyên sơn
thiếu đất canh tác nên đến một nơi khác, thường là ở miền sơn cước,
để khai hoang như Phường Sãi của làng Xuân An, phường Nại Cửu của
làng Nại Cửu. Chữ Phường này là chỉ địa danh, nhưng cũng có chữ
Phường để chỉ nghề như phường hát, phường chèo, phường cấy, phường
săn…
Câu chuyện thứ bảy. Thuốc
cá bằng rễ cây mát.
Phường Sãi quê Mạ tôi thuộc vùng duyên
sơn, cách chân núi dãy Trường Sơn không đầy 10 km. Nơi có Bến Trấm đã đi vào
thơ ca với bài Cô lái đò của Lương An. Có con sông Thạch Hãn chảy qua lắm cá,
nhiều tôm. Các khe suối chảy len lỏi trong những quả đồi, phần lớn là đồi sim
cũng có rất nhiều cá như Khe Quao, Khe Bội, Khe Su… Người dân nơi đây đã dùng
nhiều cách để bắt cá. Dùng nơm, vó, đó, đăng, sáo hay tát đìa vào những tháng
khô, trong đó phải kể đến thuốc cá bằng hột và rễ cây mát, một loại cây rừng mọc
theo các bờ khe. Không rõ ai là người đầu tiên tìm ra chất độc của loại cây
này?
Thường thường, người đi đào rễ mát phải
mang theo rựa, chòòng. Khi tìm thấy những hột mát rơi vãi trên một vùng đất thì
đích thị nơi đây có cây mát. Sau khi nhặt hết hột mát cho vào bị thì bắt tay
vào đào rễ. Rễ mát có màu ngà và dài khoảng trên 2 mét. Nó giống từa tựa như rễ
cây hoài sơn và cũng giống như củ sắn dây của miền bắc.
Rễ cây mang về nhà chặt khúc ra, bỏ vào cối
đá giã nhuyễn, gói vào lá chuối rồi cho vào mo cau. Bắt đầu một cuộc đi tìm cá.
Thường thì đoạn khe phải chỗ nước hơi sâu. Lấy bột rễ mát thả xuống nước. Đợi một
lúc, các chú cá trồi lên. Người ta chỉ cần một cái vợt bằng vải mùng vớt cá lên
mang về. Hôm được mùa cũng có vài dăm ký. Bọn trẻ chúng tôi chờ cho người thuốc
cá đi khỏi rồi mới bắt đầu công việc mót cá. Những con cá to như cá tràu, (miền
bắc gọi là cá quả), cá hẽn (miền bắc gọi là cá trê) hoặc là mắc kẹt ở các bụi
rong, hoặc là chưa có thời gian đủ ngấm thuốc lúc này mới trồi lên. Và chúng
tôi nhảy ùm xuống khe bắt chúng lên.
Người làm nghề thuốc cá này không nhiều.
Vì đi vào thung sâu nơi thường có cọp bắt người nên người ta cũng ngại! Có một
điều lạ là rễ và hột mát chỉ làm say các loài cá. Khi đem về nấu nướng thì cũng
ăn uống bình thường như những con cá khác. Chưa thấy ai ngộ độc với cá thuốc bằng
rễ mát.
Xin nói thêm vài điều. Dân quê ngoại tôi không ăn trứng con hôn
(từ thường dùng là con ba ba). Lũ trẻ chúng tôi thường bắt gặp những ổ trứng
hôn có khi tới vài chục quả, dưới các ụ cát cạnh bờ sông. Khi phát hiện ra ổ trứng
hôn thì chúng tôi lại vùi lấp lại để chúng sinh sôi. Một điều lạ nữa là người
ta không ăn cá tràu (cá quả) bông. Thời 9 năm, bộ đội hành quân trong rừng rậm
Trường Sơn có rất nhiều khe suối mà ở đó có nhiều loài muông thú, thủy sản, có
thể giúp anh nuôi cải thiện bếp ăn. Riêng con cá tràu bông thì tuyệt nhiên
không được đụng đến. Loài cá này dạn người đến nỗi khi có anh bộ đội xuống rửa
ráy thì chúng xúm lại rỉa vào chân?
. Câu chuyện thứ 8. Bẫy cọp
Cầm thú cũng đủ loại: Cọp thỉnh thoảng ghé
về, tiếng kêu bép bép. Dân làng không dám gọi là con cọp mà
gọi là “ông” cọp. Người ta đồn rằng “ông” rất thính, nghe được tiếng
người nhắc đến mình, nhưng có tật mau quên, nhất là động vào bất kỳ
cành cây chiếc lá nào là quên ngay việc đi bắt người. Chuyện về cọp
ở đây - nói chung là cái vùng duyên sơn Quảng Trị của dãy Trường Sơn
- rất nhiều chuyện ly kỳ, rùng rợn,
đã có câu “cọp Thủy Ba, ma Bình Thuận”. Thủy Ba là một làng của Vĩnh Linh. Năm 1950, năm ta là năm Canh Dần. Dần
là ứng với cọp trong 12 con giáp. Đúng là một năm rừng động. Thảm
kịch xảy ra giữa cọp và người rất khủng khiếp. Chúa sơn lâm đã làm
mưa làm gió một vùng. Những tay thợ bắn cọp cũng một thời nổi
tiếng. Ông Bát Bé, ông Đen đã bắn được nhiều cọp ở đoạn này từ Bến
Than tới Trái, Trấm và Tràu, Phong An, Dốc Dài, Dốc Son…Chuyện ông Đen
bắn cọp được dân trong vùng ca ngợi hết lời. Có một buổi chiều, cọp
bắt một bé gái chăn trâu gần Động Ôi. Được tin báo, ông Đen xách khẩu
súng trường mút-cơ-tông (mousqueton) chạy vào độộng. Từ xa đã nhìn
thấy con cọp đang vờn mồi. Ông lựa phía cuối chiều gió để cọp không
ngửi thấy mùi hơi người. Mặt trời thì sắp lặn, để đến tối thì nguy
hiểm. Con cọp để em bé nằm đầu xuôi phía đông. Không thể chờ, ông Đen
đã giặng hắng một tiếng, cọp liền quay phắt về phía ông, phía mặt
trời hai mét và nằm chết tươi trước chỗ ông Đen nấp bắn khoảng năm
mét. Dân làng khiêng xác em bé về chôn cất, con cọp cũng được đưa về
làng. đang lặn. Do chói nắng nên cọp hơi lúng túng, trong khi đó một
phát súng nổ đoàng, đúng vào giữa trán con cọp. Nó chỉ nhảy đựng
lên khoảng
Chẳng hiểu vì sao hồi đó người dân
không ăn thịt và cũng chẳng nấu cao hổ cốt? Mệ ngoại của tác giá
bút ký này cũng bị cọp bắt khi chạy giặc Tây lên lùng. Sau này khi
tìm được nơi Mệ bị cọp ăn tại Phúc Trèn thì chỉ còn lại bộ xương
khô và cái khăn quàng cổ bằng đũi, một loại vải dệt từ tơ tằm, rất
bền, khó mục. Đây là bằng chứng, chứng tỏ Mệ tôi đã bị cọp bắt.
Dân làng Thượng Phước cũng đã làm
bẫy bắt cọp. Bẫy là những cây tre đực dài trên ba mét, ngọn được
vót nhọn, gốc chôn xuống đất ở độ sâu nửa mét, kết lại với nhau
bằng những cây tre nằm ngang, hai lớp trên và dưới cách nhau một mét,
buộc vào hàng tre đứng bằng những sợi dây chìu, dây mây thật chặt.
Cái hàng rào kiên cố này được dựng ba phía. Phía còn lại thì để
chừa lối vào cho cọp. Những thanh tre cật được đan thành một cái
liếp (phên). Hai bên cửa có hai cây tre đực được vót nhọn một đầu,
một đầu để bằng, có dây kết nối với tấm liếp cửa bằng một sợi dây
dừa to bằng ngón chân cái. Sau này khi Pháp nhảy dù xuống Hòn Linh,
Bậc Lở, quân ta thu được chiến lợi phẩm nhiều thứ trong đó có những
chiếc dù mà sợi dây dù rất dai và chắc. Bộ đội cho dân làng để làm
bẫy cọp. Sợi dây dừa hay dây dù được kéo căng ra và móc vào hai cái
chốt. Cọp bước vào thì chốt bật ra, kéo tấm liếp đứng lên. Trong
lúc đó hai cây tre hai bên tự động đóng cửa lại. Cọp vào bên trong
chuồng bẫy rồi nhưng không thể nào ăn thịt được con mồi. Vì rằng con
mồi, thường là con bê con được nhốt trong một cái cũi rất chắc. Sáng
ra, dân làng và dân quân du kích vác súng và những cây giáo dài ra để
bắt cọp mắc bẫy, thường thì phải bắn hạ, ít khi bắt sống cọp.
Lại có chuyện con cọp ba chân bên xã Hải Đạo thường hay bắt
người và bắt bọn lính, làm chúng không giám đi lùng, đi phục kích.
Tên quan hai Pháp, đồn trưởng đồn Phước Môn đã phải huy động một tiểu
đoàn lê dương bố trí hai mũi, nã liên thanh vào cụm đồi có con cọp
đang nấp.Cọp ba chân bị bắn chết, trừ đi mối họa cho con người.
***
Phước Môn là một trong Ngũ
Phước, gồm Phước Môn (Hải Lăng), Phước Sơn, Phước Sa (Vĩnh Linh) Phước
Tín, Phước Xuyên (Truồi) do Phước Môn Quận công - Cố vấn nguyên lão
Nguyễn Hữu Bài (1863-1935)- xin triều đình Huế trưng đất hoang, khai
khẩn, chiêu mộ dân nghèo, giúp họ cơ hội làm ăn. Ông còn là một nhà
thơ của Quảng Trị, để lại cho đời một gia sản thơ Nôm và thơ chữ Hán
đồ sộ mà tiêu biểu là tập Thơ Nôm Nguyễn Hữu Bài do Viện Đại học
Huế xuất bản.
Tôi còn nhớ đầu năm 1951, sau mấy
vòng lượn từ sân bay Đông Hà lên Xóm Mộ, Đá Đứng, Chàng Quan và bắn
mấy quả pháo hỏa mù chỉ điểm. Chiếc tàu bay “Bà già” Moral cút thì
ca-nông bắn tới tấp lên làng. Và sau đó là bọn Tây lên lùng. Mấy mạ
con chạy ra sau Hoang, gồm có Mạ, tôi, em Lộc, em Bổng, em Mai và em
Cúc (Cúc lúc này mới 3 tuổi đã biết sợ) chun vô lùm sim để nấp.
Phía động Cồn Lê có bầy bò đang nháo nhác chạy tán loạn, do có
tiếng nổ của đại bác. Từ trong lùm cây một con cọp to gấp hai con
bò, thân vằn vện vàng, đen lừ đừ đi ra và tóm ngay vào chiếc ướm con
bò lôi đi. Con bò phần bị đau và phần sợ chết ngất lững thững theo
con cọp một đoạn. Bất chừng, con cọp quay lại tát vào mắt con bò
làm bò ngã lăn quay ra đất. Và con cọp cũng như mèo để con mồi nằm
đó, vờn đi, vờn lại có tới hàng chục lần, lúc sau mới cắn xé ra
ăn. Mấy mạ con nằm im thin thít, phần sợ Tây và phần sợ cọp. Cho tới
lúc mõ dân quân báo yên, tức là Tây đã rút về bót, mấy mạ con mới
lục tục về nhà.
Lại vẫn chuyện con cọp, tôi và ông ngoại dậy từ sớm khi gà
gáy canh ba, đánh đàn trâu vào Khe Bội - cánh đồng ông mua lại của ông
huyện Kiệt.Và cũng có những tranh chấp đất đai, nhưng cuối cùng tòa
án thực dân xử cho ông tôi thắng kiện. Tôi còn nhỏ nên ông thương cho
cưỡi trên lưng trâu, ông đi bộ, đến gần nương mít Mụ Hểu - nơi dân làng
đặt bẫy cọp - thì trâu đánh hơi có mùi cọp. Mấy con trâu lớn xoay
đít lại thành một vòng tròn, bao bọc mấy con nghé nấp bên trong.
Những con trâu lớn đầu sừng giơ ra phía ngoài. Ông bảo tôi cứ ngồi yên
trên lưng trâu và la lên “Huơ là huơ là huơ”. Ông đứng dưới đánh mõ
cùng la lên “huơ là huơ”. Trâu thì cứ khịt khịt. Cọp thấy khó lòng
xơi món lót dạ sáng ngon lành nên đành bỏ đi. Khi biết cọp đã đi xa.
Ông cháu tôi lại lững thững tiếp tục đi vào
cánh đồng Khe Bội. Bội là tên một loài cây mà đồng bào miền Bắc
thường gọi là cây vối. Nhà nào cũng có trồng cạnh bờ ao, dùng lá
và nụ để nấu nước uống hàng ngày. Khe Bội có tên chữ là Phúc Khê.
Nhân nói chuyện bẫy cọp xin nói thêm về chuyện
bẫy heo rừng. Muốn bẫy heo rừng thì phải đào hầm. Hầm có kích
thước: sâu 1 mét rưỡi, chiều ngang và chiều dọc thì tùy, nhưng phải
từ 1 mét rưỡi. Miệng hầm được lót phên đan bằng tre chẻ ra từng
mảnh. Tấm phên được gác lên những thanh tre nhỏ cỡ ba phân và rắc một
lớp đất lên trên tấm phên để ngụy trang. Nương sắn phải rào thật kín,
heo không chui vô được. Chỉ để một khoảng trống chừng bốn năm mươi phân
nơi bên trong có hầm bẫy. Vào mùa thu hoạch sắn. Lũ heo rừng thường
về ủi tìm thức ăn. Có khi đi từng đàn năm bảy con. Chúng rảo quanh
nương sắn tìm đường vào. Thấy chỗ trống, chúng tranh nhau, chen lấn
chui vào dẫm lên thì tấm phên sụp xuống, có khi hai ba con heo tụt
xuống hầm. Hầm sâu, heo không thể nào nhảy lên được. Chủ nương sắn vác
giáo ra đâm hoặc thả dây tróng vào cổ, vào chân heo để bắt sống đem
về làm thịt.
Nhà ông Sáng bên Xóm Mộ, đối diện với dinh cơ ông huyện Hoàng Hữu Kiệt, thường
bẫy heo kiểu này. Ông huyện Kiệt, người làng Bích Khê, là chú của nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường và ông nội của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ – người mối tình nghiệt
ngã với ca sĩ Tân Nhân, đến nỗi 35 năm sau, Hoàng Thi Thơ từ nước ngoài về mới
nhận được con mình và xin đổi lại đúng tên của họ Hoàng, Hoàng Hữu Hoài. Đó là
nhà báo Trương Nguyên Việt, bút danh Châu La Việt khi anh làm thơ.
Cả vùng rừng núi, độộng, trảng, hác xã Phong
Sơn có rất nhiều loại thú rừng nhưng người dân ở đây không lập phường
săn. Mặc dù đã từ lâu Lễ hội săn bắt thú rừng của làng Thượng Phước được đưa
vào danh mục Lễ hội quốc gia. Lễ hội khai mạc ngày rằm tháng Ba âm lịch, có bà
con của hai làng anh em Thượng Nghĩa và Thượng Trạch tham dự. Đây là Lễ hội
truyền thống để nhớ về Ngài Tiền khai Võ nguyên Hùng dõng Hùng Quốc công – người
đã có công truyền nghề săn bắt thú rừng để bảo vệ mùa màng, thể hiện sức mạnh
đoàn kết của dân làng.
Câu chuyện thứ 9. Kiếm sống
bằng đánh bắt thủy sản trên sông.
Sông Thạch Hãn còn có một tên khác là Nguồn
Hàn với câu ca dao:
“Không thơm, cũng thể hương đàn
Không trong cũng nước Nguồn Hàn
chảy ra…
Ở Quảng Trị, tên Thạch Hãn còn đặt
cho một làng quê và gọi theo dân dã là làng Đá Hàn, làng Thạch Hãn
nằm trên đoạn đường sắt chạy qua thị xã Quảng Trị. Chữ Hàn cũng có
nghĩa là cản lại. Sông Thạch Hãn là dòng sông dài nhất của tỉnh,
nước trong vắt bốn mùa. Vì chảy qua rất nhiều lèn đá, núi đá. Chả
thế mà cụ Tam Nguyên Yên Đỗ khi đi qua sông đã để lại:
“Tây Phong hà xứ xuy trần khởi
Bất trợ niên tiền
triệt để thanh
Dịch thơ:
“Gió Tây đâu cuốn bụi dồn
Nước trong thấu
đáy nay còn nữa đâu”
Thi sĩ xứ Huế Khiêm Trai, tức Tương An Công Miên Bửu, trong bài
thơ “Dạ túc Quảng Trị tân thứ” (Đêm nghỉ tại bến sông Quảng Trị) thì
xúc cảm:
“Danh cao lan xạ Kim
Lung tửu
Sắc tự thanh trừng Thạch Hãn than…
Dịch
thơ:
Chén
rượu Kim Long hương ngát đậm
Bãi sông Thạch Hãn nước trong veo…”
Ngoài
rào, vùng quê tôi không gọi sông Thạch Hãn mà nói là rào Thạch Hãn.
Rào có nghĩa như con sông (tiếng Pháp phân biệt danh từ chỉ sông lớn
như sông Hồng Hà là fleuve, còn sông nhỏ như sông Thạch Hãn là
rivière, nếu là sông con, ngòi, lạch thì là rivièrète). Nơi bến
Phường Sãi có một cái hà (giống như một cái lạch nước lấn vào
bờ), chỗ nước sâu nhất chừng quá ngực một chút.
Bọn
trẻ thường xuống tắm ở đó. Hà có rất nhiều cá mương. Chúng không
sợ người mà còn xông vào rỉa ráy. Dọc theo cái hà này, dài chừng
ba bốn trăm mét, cậu Diêu Xoan thường hay đổ bổi khi mùa lũ về. Cậu
đặt khoảng 20 bó bổi. Bổi được làm bằng những cành lá duối, nếu
thiếu thì có thể bó thêm ít cành sim, cành nè hóp không gai và
nhiều loại cây có cành khác, có chiều dài khoảng trên một mét, được
bó thành từng bó, có dây buộc vào cái cọc trên bờ để nước không
cuốn trôi. Tôm cá chui vào nấp hoặc tìm mồi trong đó. Người đổ bổi
dùng một cái rổ sảo, đường kính to bằng cái nống phơi lúa. Cứ mỗi
buổi sáng cậu Diêu và anh Vọng nhẹ nhàng lội xuống nước, nhẹ nhàng
chúi cái rổ sảo ấy xuống bụng bó bổi rồi từ từ nâng lên. Cá rô,
cá giếc, tôm và nhiều loài thủy sản khác, có khi được cả chạch
lấu, cá hanh hoặc con hôn (một loại ba ba). Đổ hết những bó bổi thu
hoạch cũng được vài ba ký lô, đủ cải thiện bữa ăn gia đình và người
làm trong ngày.
Đoạn sông này có lợi thế là có bậc
lên xuống, không như những đoạn bãi bồi toàn cát. Con sông nào cũng
có một bên lở thì bên kia là bồi. Vậy nên cứ đến mùa lụt Mạ tôi
thường ngồi gần như sáng đêm để vợt tép. Để chuẩn bị cho việc vợt
tép, trước đó những ngày hè Mạ đã vào rú chặt những cây sặt, một
loại họ sậy, đem về phơi khô, bó thành từng bó nhỏ có đường kính
khoảng một tấc tây để dùng làm đuốc đốt vợt tép. Đuốc được để lên
hai cái giá đỡ bằng tre y như cái càng
giá súng trung hay đại liên, cắm vào lòng đất. Khi nước lũ tràn về thì đêm
đến Mạ mang một cái thúng, một cái vợt tự chế bằng vải mùng và
thanh tre vót nhẵn bẻ cong lại, giống y như cái vợt cầu lông hiện nay,
mấy bó đuốc. Hồi đó chưa có đập thủy lợi, thủy điện nên nước lụt
dù có lên nhanh nhưng rút cũng nhanh, mà nó còn không hung hãn như bây
giớ cho nên bọn trẻ rất thích có lụt để được đi vớt củi rều và đi
bắt cá rô đẻ. Trời tối, đuốc đốt
lên không cháy thành lửa ngọn mà chỉ đỏ lửa than. Những bầy tép đi
thành đàn cặp mép sông, bơi ngược dòng. Nước chảy xuôi nhưng tôm tép
thì bơi ngược. Ngồi sáng đêm Mạ tôi xúc được bộn tép, có khi được
cả thúng. Ngoài số tép dùng cho các bữa ăn, số còn lại Mạ tôi muối
làm mắm để ăn dần. Dì Mão đã bắc sẵn lên bếp một nồi cháo gạo ít
khoai nhiều. Dì xuống bến đến chỗ Mạ đang xúc tép và lấy một mớ
tép. Dì vợt những con tép đang nhảy tưng tưng trên mặt thúng cho vào
thúng nhỏ đem lên, chỉ dội lại một lần nước và cho vào nồi cháo,
chỉ cần nêm thêm vài muỗng muối là có món cháo rất ngọt ngon. Tôi
múc một đọi to mang xuống bến cho Mạ. Nhìn Mạ sùm sụp trong chiếc
áo tơi rách với cái nón mê trên đầu mải mê vợt tép để nuôi đàn con
đang tuổi ăn, tuổi lớn, trong khi Ba tôi còn đi chiến đấu bảo vệ quê
hương. Tôi thấy thương Mạ vô ngần!
Trừ những khi có lụt, còn lại là
những đêm trời trong, Mạ thường đi soi cá. Soi cá cũng dùng đuốc bằng
cây sậy hoặc cây hóp chẻ nhỏ, phơi khô bó thành từng bó bằng cái
cột nhà tre, dài chừng 2 mét. Tối đến đuốc được đốt ở bến nước,
rồi lội xuống mép sông, một tay giữ cây đuốc trên vai, một tay cầm
cái nơm, khi thấy cá đóng đèn, tức là đóng ánh sáng đuốc. Chúng
đứng im một chỗ thì dùng nơm úp lên con cá, bó đuốc tạm thời bỏ lên
bờ, thò tay vào nơm bắt cá, thường là loại cá chép, cá trôi, cá
mè…có con nặng cả ký lô. Khi không dùng nơm thì dùng dao thái chuối,
thấy cá đóng đèn thì lấy dao chém. Có con bị chém dứt làm đôi. Đi
soi cá thường đi vào đầu hôm, cháy hết hai cây đuốc thì về nhà. Số
cá thu được cũng kha khá, chừng vài ba ký, đủ dùng cho vài
ngày.
Trong thời 9 năm, Dì Mão sang ở với
Mạ tôi. Dì là con gái cả của ông Thợ Trì, người làm vè nổi tiếng
cả tổng An Đôn. Vì nhà quá nghèo nên ông thợ phải cho người con trai
tên là Nguyễn Văn Loan, em Dì đi ở chăn trâu cho cậu Diêu Xoan của tôi.
Còn Dì thì được Mạ tôi cưu mang trong những năm đầu chống Pháp cực
kỳ khó khăn.
Cá bống cát là loại cá sông, thân hình nhỏ
bằng đầu đũa ăn cơm. Cá bố, cá mẹ, thường gọi là cá bống đao. Chúng thì to bằng
cườm tay trẻ con một hai tuổi, màu trắng đục. Ta hãy nghe cụ Trần Đức Long, bạn
học của tôi thời “để chỏm” tả về tìm bắt con cá bống đao này.
Trong hồi ký, Cụ Trần Đức Long viết: “Những năm đó, trên đoạn sông chảy qua làng
Thượng Phước không có ai đánh bắt cá (vì phía bờ nam là vùng địch), nên cá ở
phía trên dồn về sống ở đoạn sông này rất nhiều. Tôi còn nhớ, hồi đó có ngừơi
phát hiện ra loại cá bống cát to bằng đầu đũa, có con to bằng ngón tay út, sống
dày đặc ở các bãi cát ngập nước, gần mép sông. Nhiều nhất là vùng nước ngập nửa
ống chân…
Người ta dùng
một cái rổ, đặt xuống mặt cát, lấy cái bẹ chuối bẻ cong lại và đưa hai tay cầm
hai đầu bẹ chuối, lùa cá vào rổ. Mỗi lần như vậy được một bát ăn cơm, Có người
xúc một đêm, khoảng 3 giờ đồng hồ được một rổ đầy cá bống. Chị Mão, con ông Thợ
Trì, vì quá ham cá nên đi xúc cá vào ban ngày, bị bọn Pháp lên phía làng Như Lệ
bắn trúng chân, may mà không chết…Tôi còn nhớ, hồi đó chị Thảnh của tôi cũng đi
xúc cá bống cát vào ban đêm mấy lần. Cá này chỉ rửa sạch, ướp muối, mắm ớt rồi
kho khô, ăn rất ngon.
Tôi còn nhớ,
tôi và Xuân Bảo, bạn học cùng lớp hay đi với nhau, bắt cá trên đoạn sông này.
Chúng tôi cưa các đoạn cây tre, ruột rỗng, một đầu kín, một đầu hở, thả xuống
nước, chổ nước cạn chừng ngập mắt cá chân một it. Một thời gian từ 7 đến 10
ngày, thì chúng tôi lội xuống nước, lấy tay bịt đầu hở. Nếu có tiếng động bên
trong ống tre thì đích thị là có chú cá bống đao to nằm trong đó.” Tôi thêm vào
đoạn này mấy câu: “Rồi thì reo lên “mằm”, “mằm”!...
Có lần Dì Mão đang lúi húi xúc cá
bống thì bọn giặc Pháp lên lùng bên làng Như Lệ. Chúng trông thấy Dì
và xả súng bắn. Dì bị chúng bắn bị thương ở bắp vế. Hồi đó không
có thuốc kháng sinh nên chỉ rửa vết thương bằng lá cây rừng. Nhưng
rồi cũng qua khỏi. Một thời gian sau, Dì Mão được Dượng Lê Trường Tôn
cưới làm vợ. Và họ sinh được sáu người con ba trai và ba gái. Người
con trai thứ hai Lê Trường Quyền đi bộ đội và hy sinh tại chiến trường
Bình Trị Thiên, được truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Hai người con trai
của Dì là Lê Trường Cận và Lê Trường Kỳ cùng người con gái thứ ba Lê
Thị Hoàng hiện sinh sống tại quê nhà. Sau giải phóng miền Nam, hai
người con của Dì (Hoàng và Cận), được chính quyền cấp đất làm nhà
ngay trên bức nương của Mạ tôi.
Dọc theo bờ sông, thỉnh thoảng bọn
trẻ chúng tôi đào thấy những ổ trứng hôn (con ba ba), có ổ có đến
hơn hai chục trứng, nhưng không hiểu vì sao hồi đó, người dân không ăn
trứng hôn và trứng rùa?
Muốn qua rào chính thì phải qua một
cồn cát. Cồn cát này, trong những năm đánh Pháp, theo lời kêu gọi
“Tăng gia sản xuất” đã tận dụng để trồng khoai lang. Sau ba tháng thì
nhổ lên, củ chỉ to bằng ngón chân cái người lớn, nhưng rất nhiều củ
và ăn rất ngon, thơm và bùi. Tắm ở ngoài dòng chính rất nguy hiểm
vì nước chảy xiết. Đã có lần tôi suýt bị chết đuối do nước cuốn,
may mà tôi kịp thời bơi ngửa, chân đạp mấy cái mới vào được chỗ nông.
Giữa rào, trên cao thường có mấy chú
diều hâu. Chúng bay lượn rất mềm
mại, sà đôi cánh như múa trong không trung. Nhưng đôi mắt thì rất tinh.
Từ trên cao, chim diều hâu nhìn thấu đáy sông. Và khi đã phát hiện
được cá thì chúng lao mình xuống nước như một mũi tên và hai chân
của chúng quắp một con cá to. Diều đáp xuống giữa cồn cát ăn con cá
ngon lành.
Câu chuyện thứ 10. Công
múa ngày xuân
Cứ mỗi độ xuân tới, có một đôi chim
công, một trống và một mái bay về sà xuống trước vạt đất, nơi ông
tôi thường trồng lúa ngự. Riêng chữ “ngự” đã biểu hiện một cách cung
kính, một loại gạo rất thơm, dẻo để thổi cơm cúng trong những dịp
lễ tiết, giỗ, chạp. Tôi thường theo ông đi làm cỏ để nhổ những tép
lúa màu tím lẫn trong khóm lúa. Ông bảo rằng: cây lúa màu tím đó
sau này sẽ lổ ra hạt lúa mà lòng nó đỏ, các cụ xưa rất kiêng câu
thành ngữ: Xanh vỏ đỏ lòng, cho nên không thể dùng để cúng bái được.
Mặt trời lên chừng một con sào thì
con công đực bắt đầu múa, lông đuôi xòe ra như cánh quạt lớn, sải đuôi
có tới hơn một thước tây, màu sắc rất đẹp, nhất là màu lục diệp
viền quanh lông đuôi những hoa văn mặt nguyệt. Chúng múa rất say sưa
mãn nguyện. Thiên nhiên đã ban tặng cho muôn loài những màu sắc kỳ
vĩ. Chủ yếu vẫn là màu xanh lục diệp của cây cối: cu kỳ màu xanh, két
(vẹt) màu xanh, đến cả công lông cũng màu xanh ấy. Trời đất sẽ đơn
điệu biết mấy nếu như tất cả các loài chim đều chỉ có một màu
xanh! Vì thế con chim sáo phải là màu nâu như chim cu gáy…cà cưỡng
thì vừa có bộ lông đen và trắng. Chèo bẻo và quạ thì đen tuyền.
Chèo bẻo thân nhỏ, đuôi dài, rất hung dữ, có thể đánh bại mọi loài
chim khác kể cả quạ. Quạ khoang để bắc cầu Ô thước trên sông Ngân cho
Ngưu Lang – Chức Nữ gặp nhau thì điểm xuyết màu trắng ở cổ. Cò thì
trắng, thật là vạn vật muôn loài muôn màu sắc. Đó là bức tranh
tuyệt đẹp mà tạo hóa đã ban cho con người!
Đôi công múa rất đẹp, rất uyển
chuyển trông thật vui mắt. Ông thường dạy bảo chúng tôi, những đứa
trẻ tinh nghịch thích dùng ná để bắn chim, không được bắn chim công. Ná
là một chạc cây như chữ Y in hoa, hai sợi dây cao su được buộc vào một
miếng da dùng để bỏ viên bi hoặc đá sỏi có độ tròn trơn vào làm đạn
bắn, hai đầu kia buộc vào hai bên càng ná. Viên bi được kẹp căng ra và
thả cho trúng mục tiêu. Lũ chúng tôi thường dùng ná để bắn chim hoặc
gà rừng.
Có một điều gì đó rất chi là bí
ẩn, thiêng liêng ăn sâu vào tâm khảm mọi người nên hai con công rất dạn
dĩ với người. Người xem công múa cũng thành kính như khi cúng bái,
cầu nguyện. Sau tết Nguyên tiêu thì chúng bay đi đâu không rõ, đợi mùa
xuân năm sau lại về múa cho dân làng xem.
Sau này khi sống ở Hà Nội, tôi có
dịp được xem những tiết mục “múa công” của các nghệ sĩ Đoàn Ca múa
Trung ương. Những dịp ra nước ngoài tôi cũng đã từng được xem “múa
công” ở Trung Quốc, ở Thái Lan, ở Indonésia, Campuchia. Nhìn lên sân khấu
thấy nghệ sĩ đeo lông công thật múa lượn, tôi bất giác nhớ đến ông
ngoại, một thầy thuốc bắc giỏi nhất vùng và là một chủ điền trang
giàu có nhưng không xa rời cái cuốc cái cày. Ông lao động như một lão
nông dân tri điền. Nhưng sao tôi vẫn thấy nhớ đôi công thật ngày xưa múa
đẹp hơn, thật hơn, dù không có nhạc nền
Giờ đây đi đường bộ qua đoạn Tĩnh Gia
– quê hương của Đào Duy Từ – thấy cả một dãy dài hàng cây số bày
bán các loại chim rừng mà lòng thấy xót xa. Con người sao nỡ đối xử
với cầm thú tàn nhẫn đến vậy. Chúng ta thường nói đến quyền sống
cho dù là của bất cứ một động vật nào, cao cấp cũng như cấp thấp.
Đã biết rằng “chim trời, cá nước, ai bắt được nấy ăn” nhưng mà đem
chúng về để thỏa mãn một thú vui, một kiểu trang trí cho ngôi nhà,
cho vườn nhà để làm đẹp và khoe mẽ với thiên hạ rằng: Ta là người
biết chơi, chịu chơi đây thì khác nào những tên trọc phú mà Molière
đã viết trong vở kịch nổi tiếng Trưởng giả học làm sang (Le bourgeois
gentilhome) mà thôi. Cái kiếp “cá chậu, chim lồng” là không thể chấp
nhận. Hãy trả chúng về với thiên nhiên, cho chúng cái quyền được tự
do, được sống.
Câu chuyện thứ 11. Làng Mạ tôi
có rất nhiều loài chim
Sau ngày Cách mạng Tháng 8, ông
Nghẹc, người làng Đại Hào, tôi gọi bằng cậu – một chiến sĩ Vệ quốc
đoàn – được đơn vị phân công đi săn bắn để kiếm thức ăn cho công binh
xưởng của Chi đội Nguyễn Thiện Thuật, tiền thân của Trung đoàn 95 sau
này, đóng ở làng Như Lệ. Công binh xưởng đặt dưới quyền chỉ huy của Phòng
Quân giới, do ông Đội sếp khố đỏ Lê Văn
Liêu – người làng Trà Lộc, huyện Hải Lăng làm Trưởng phòng. Lần theo tiếng
gù, cậu bắn một phát đạn ria của khẩu súng hai nòng calipse douze
(cỡ đạn 12 mm), vài ba con cu kỳ trúng đạn rơi xuống đất. Những đứa
trẻ chúng tôi tranh nhau nhặt về làm bữa ngon lành.
Phường
Sãi vốn thuộc làng Xuân An, tổng An Đôn, phủ Đăng Xương, Quảng Trị, được chúa
Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho theo vào Đàng Trong. Hồi năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đem theo hàng
ngàn binh mã bản bộ từ Gia Miêu ngoại trang vào trấn thủ Thuận Hóa.
Đây
là vùng duyên sơn, chỉ có đồi sim mua, trảng tranh, không có núi. Trước kháng
chiến chống Pháp, vùng này có rất nhiều loại cầm thú, có rất nhiều loài
chim: bìm bịp, nghịch, cuốc, chàng làng, sáo, cà cưỡng, tu hú, gà
rừng, các loại cu gáy, cu ngói, cu kỳ…Từ điển bách khoa ghi rõ: cu
kỳ là cu xanh.
Sáng sớm mai cả khi rừng Lùm
Miệu rộn rã tiếng hót của các loài chim như một bản hợp xuớng của
núi rừng. Chim cu kỳ thiên di theo mùa, bộ lông của nó màu xanh lục
rất đẹp, thân to như con bồ câu tây. Tiếng gù của cu kỳ nghe rất êm tai
và thịt rất ngon. Chúng thường đậu
trên cành cao, lẫn vào đám lá nên rất khó phát hiện, nhưng chính
tiếng gù của nó đã làm hại nó.
Khu rừng Lùm Miệu côi và đưới (trên và dưới) và trong độộng, trong hác còn có nhiều loài
chim khác. Con chim rôồng rôộc, thân nhỏ như chim sẻ đồng, lông màu
vàng nhạt có cách làm tổ rất khéo. Có thể nói tổ chim rôồng rộôc
là một tòa lâu đài thu nhỏ và những chú chim xinh xinh đó là những
kiến trúc sư tài ba. Chúng bay đến những trảng tranh, con cái giữ đầu
lá tranh lại, con đực dùng mỏ tước lá tranh nhỏ ra chừng vài milimet,
cắn đứt thành sợi theo chiều dài của lá tranh, tha về nơi chúng dự
định xây tổ. Và có một loài cỏ nữa tên là lá đẹc, giống là mía nhưng bề ngang
hẹp, chúng tước lá đẹc ra từng sợi nhỏ, chiều ngang chỉ 1-2mm rồi quấn và đan
vào nhau thành cái tổ. Tổ được néo vào một cái chạc ba hoặc những
cành cây có nhánh. Chúng dùng mỏ đan những sợi tranh vào nhau, kết
lại như kiểu con người dệt vải, rất chắc. Và ngày này qua tháng
khác, những con chim nhỏ cần cù lao động để xây lâu đài hạnh phúc
lứa đôi. Cửa ra vào làm phía dưới tổ nên mưa nắng không lọt vào đây
được. Phía bên trong nội thất là khu vực cho chim chồng chim vợ nghỉ
ngơi và cũng là nơi để những quả trứng bé xíu ra đời thành nhưng con
chim con. Tổ rồồng rộộc chúng thường treo tòn ten men bờ khe suối. Loài chim này có làm hại mùa màng
nhưng không đáng kể, vì chúng còn tìm ăn sâu bọ.
Có
một loài chim cứ đầu mùa hè tới là kêu suốt ngày suốt đêm với điệp
khúc “Cha kèo, con cột” nghe như
âm hưởng của những người thợ mộc đục đẽo. Sau này khi hành quân trong
rừng rậm Trường Sơn, chúng tôi, những chiến sĩ trẻ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” nghe
tiếng kêu đó thì nghĩ thành câu “Khó
khăn khắc phục” để cùng nhau vượt bao gian lao, vui bước quân hành.
Tiếng
kêu, chứ không phải là hót của loài chim bồ chao, cũng có nơi gọi là
bao chao là rộn ràng nhất. Chúng sống bầy đàn, chẳng hề sợ người,
cứ bay từ lũy tre này sang lũy tre khác. Thịt chúng tanh nên không ai
săn bắn. Từ trên cây chúng phát hiện ra những mầm ngô hoặc hạt thóc
mới nhú là sà xuống bới tung lên nhặt kỳ sạch mới thôi. Cái tiếng
rộn rã, ríu rít có khi làm cho ta đinh tai nhức óc. Nhà thơ Thu Bồn
lại cảm thấy tiếng chim ấy như một khúc bi tráng của núi rừng Tây
Nguyên nên đã sáng tác bản trường ca “Bài
ca con chim Chơ-rao” nổi tiếng thời đánh Mỹ.
Trong những năm chạy giặc cũng gọi
là đi tản cư, ông tôi sắp xếp cho mỗi gia đình các cậu mợ, các dì
và mạ con tôi một ngôi nhà nhỏ ở Khe Bội. Nhà ở Phường Sãi thì bị Tây
đốt hết, chỉ còn mấy cái nền cháy xém, trơ những hàng cột chưa
cháy hết. Tuy là cháu ngoại, nhưng tôi được ông thương nhiều. Ông cho
tôi theo vào rú để hái lá thuốc nam. Do đó, dù ít tuổi (năm đó tôi
mới 12 tuổi) nhưng tôi đã biết đến những cây thuốc: hà thủ ô, kim
ngân, hoài sơn, đậu khấu, thiên niên kiện…và nhiều loài cây làm thuốc
có sẵn trong nương như hạt của trái bồ quân gọi là thanh tra, vỏ quýt
gọi là trần bì, ngải cứu, tần ô, kinh giới, tía tô…
Tôi và bọn trẻ được xuống ruộng,
chạy theo sau những cái bừa bộng hoặc bừa răng (hai con bò hoặc một
con trâu kéo) để bắt những con cua, con cá và cả những con niềng
niễng, con cà cuống. Có lần tôi bị cà cuống đốt như ong châm, nhưng
không sao cả. Cà cuống hiện nay còn rất ít vì ruộng đồng sử dụng
quá nhiều các loại thuốc diệt cỏ, trừ sâu. Tinh dầu cà cuống được
coi là một gia vị xa xỉ dùng trong các món đặc sản như chả cá Lã
Vọng, bánh cuốn Thanh Hương, bún thang Hà Nội…
Cả Phường Sãi và làng Thượng Phước
người ta nuôi tới hàng ngàn con bò và trâu, cho nên phải dành ra một
con đường cho chúng đi. Chúng được đi riêng, thường gọi là kiệt trâu
bò đi. Cái kiệt dành cho trâu bò đi bắt đầu từ đầu đường xe, (đường
kéo xe gỗ từ rừng ra) phía biền Đù Đù đền bến Mè Xèng thì ra bãi
cát.
Cái kiệt này cũng đã đi vào lịch
sử. Đó là việc dân hai làng Thượng Phước và Như Lệ chặn bắt tên tri
phủ Triệu Phong Trần Mậu Trinh trong những ngày đầu khởi nghĩa Tháng
Tám. Và cũng tại cái kiệt này, khi Nhật làm đảo chính Pháp (ngày 9
tháng 3 năm 1945), bọn Phú - lang - sa chuồn khỏi thị xã Quảng Trị
chạy lên núi thoát thân. Chúng đã chui qua cái kiệt này. Dân làng
biết nhưng mặc kệ vì lúc đó phương tiện truyền thông chưa như bây giờ,
dân vẫn tưởng còn bọn Pháp cai trị!
Trâu bò suốt ngày gặm cỏ trong các
trảng, hác, độộng được lùa về khi chiều tối. Có cái hay là đến
khúc nhà người nào thì đàn bò rẽ xuống sông đoạn đó uống nước,
trâu thì đằm tắm thoải mái rồi theo con đường quen thuộc về ràn
(chuồng) của mình, không bao giờ lộn đường, nhầm chuồng. Bãi cát sông
Thạch Hãn chạy dài từ Mè Xèng đến Cồn Kết, chiều về trâu bò đỏ
bãi. Con đường kiệt không có bước chân người nên có rất nhiều chim
nghịch, chim cuốc sinh sống. Nghe tiếng “quốc quốc òa…quốc quốc òa”
như một lời than. Hồn Thục Đế kêu than hay lời thơ ai oán của Bà
Huyện Thanh Quan, ở bài thơ Qua Đèo Ngang.
“…Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc
Thương nhà
mỏi miệng cái gia gia…”
Theo truyền thuyết, Thục Đế là vua nước Thục
tên Đỗ Vũ thông dâm với vợ của bầy tôi là Biết Linh. Tức giận, Biết Linh dấy loạn,
đem quân đánh phá kinh thành. Thục Đế thất bại, mất ngôi chạy trốn vào rừng. Nhục
nhã, buồn tủi, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Đế chết hóa thành con chim Đỗ
Quyên, ngày đêm kêu “quốc, quốc!”. Đỗ Quyên còn được gọi là Từ Quy. Dân ta thường
gọi là con chim cuốc. Chim cuốc có đầu mỏ hơi cong, miệng to, đuôi dài, lông
lưng màu tro, lông bụng trắng có một đường đen thẳng ngang, thường lủi trong bụi
rậm. Cuối xuân sang hè thì bắt đầu kêu vào ban đêm. Giọng kêu buồn thảm, gợi
khách lữ thứ nhớ nhà, nhớ quê hương!
Còn
“cái gia gia” chính là con gà đa. Nam Bộ gọi là con chim đa đa, đã có
bài hát về con chim này. Chúng sống trong các bụi sim, bụi muồng
trong các độông. Tiếng chim đa đa có cái gì đó vui vui như được mùa
“túc, đa đa…đa”, vì thế người ta không tìm săn bắn nó nhiều như nhiều
loài chim khác.
Cũng theo truyền thuyết cổ xưa của Trung
Hoa thì: Vào đời nhà Thương (Ân) vua Trụ tàn bạo, Vũ Vương đem chư hầu điếu phạt.
Bá Di và Thúc Tề, con vua Cô Trúc đến trước đầu ngựa vua Vũ can ngăn cho rằng bất
trung, bất nghĩa. Sau Vũ Vương thắng lợi thành lập nhà Chu thì Bá Di và Thúc Tề
vào núi ở ẩn, thề không ăn gạo nhà Chu, chỉ hái rau vi mà ăn. Có người bảo rau
vi cũng của nhà Chu. Uất ức hai ông nhịn đói mà chết hóa thành con chim đa đa
và luôn miệng kêu: “bất thực túc Chu gia”!
Hai âm “quốc quốc” và “gia gia” trong thơ
Bà Huyện Thanh Quan mượn âm theo lối tá âm mà thành. Trong kho tàng thi ca cổ
điển nước ta đã có những nhà thơ dùng đến điển tích này như Trần Danh Án, di thần
nhà Hậu Lê có bài:
Giá Cô tại Giang Nam
Đỗ Quyên tại Giang Bắc
Giá Cô minh gia gia
Đỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực
Dịch:
Chim Giá Cô ở bờ sông Nam
Chim Đỗ Quyên ở bờ sông Bắc
Giá Cô kêu gia gia
Đỗ Quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác.
Chu Mạnh Trinh có hai câu khi nhìn cung miếu
An Dương Vương ngày xưa huy hoàng tráng lệ bao nhiêu thì ngày nay lại điêu tàn
hoang phế bấy nhiêu! Dưới ánh trăng mờ nhạt tiếng cuốc kêu mới khắc khoải, mới
buồn bả làm sao:
Tịch mịch tiền
triều cung ngoại miếu
Đỗ Quyên đề đoạn, nguyệt âm âm
Dịch:
Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt
Trăng mờ khắc khoải cuốc kêu thâu
Cụ Yên Đổ có bài thơ Nôm khi nhìn đất nước
bị thực dân Pháp xâm chiếm, nhấn chìm trong tăm tối. Tiếng cuốc kêu như thúc giục:
Khắc khoải sầu đưa giọng lững lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn ta bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó
Gịuc khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
Có một loài chim chỉ bằng nắm tay
nhưng chúng lủi rất nhanh, khó lòng tóm được. Đó là con chim cút mà ngày nay
dân ta đã nuôi thành trang trại. Tuy vậy thịt chim cút nuôi không ngon bằng cút
rừng.
Trước cổng nhà ông mệ có trồng một
cây bứa, cành đâm ngang cho nên bọn trẻ và cả các chú thanh niên
thường hay dùng làm xà ngang để tập thể thao. Hai cây dâu gia trái sây, từ
dưới gốc lên ngang đầu người. Mùa dâu chín như hai cái cột trang trí
cổng chào đỏ rực một màu đỏ tươi, nhìn mà chảy nước miếng. Có một
cây sầu đâu rất to và rất cao, miền bắc gọi là cây xoan. Còn miền
trung gọi là cây sầu đông. Mùa đông rụng hết lá, trơ cành khẳng khiu.
Những cây sầu đâu, bứa, dâu gia là nơi
để đôi chim khách, tên chữ là chim thước, năm thì mười họa về đậu.
Chúng bay đến, thường là hai con, nhưng chỉ có con trống kêu đúng sáu
tiếng: khéc, khéc, khéc…khéc, khéc, khéc, rồi bay đi. Người ta nghiệm
ra rằng ngày hôm đó hoặc ngày hôm sau nhà sẽ có khách đường xa tới
thăm.
Ban đêm nơi rừng rú là nơi đáng sợ.
Bọn con nít chúng tôi ít khi ra khỏi nhà. Song sợ nhất là tiếng các
con chim kêu đêm. Cú rúc từng hồi theo nhịp lóng một: cú, cú, cu…Dân
gian có câu “cú kêu ma ăn” là khi cú đã đậu lên nóc nhà ai kêu lên ba
tiếng rùng rợn đó thì sẽ có người chết? Sau này lớn lên chúng tôi
mới hiểu ra đó chỉ là mê tín mà thôi! Còn cái con chim heo (lợn)
không biết hình thù nó ra sao, nhưng ai cũng sợ. Chúng bay trên cao,
giữa trời đêm và thả vào không trung những tiếng éc, éc, éc nghe rợn
người. Cú và chim heo kêu đều là những điềm xấu.
Lại có một loài chim kêu đêm đã in
đậm vào kí ức mọi người. Dân làng gọi loài chim này là chim rủ rỉ
rù rì. Có một điều rất lạ là chúng chẳng bao giờ bay có đôi, có
cặp cả. Đêm nay có thể là con đực ở cây ươi Phường Sãi thì con kia có thể
là con cái từ trong lùm cây cổ thụ ở miếu Ngài Khai khẩn đầu làng
Thượng Phước, mạn giáp làng An Đôn cùng bay ngược chiều nhau, khi trời
chạng vạng tối. Nửa đêm chúng gặp nhau ở kiệt ông Phó Tiệm đúng
giữa làng. Chúng mừng rỡ nhảy múa, kiểu gà trống gù gà mái trong
mùa giao phối. Có người đã trông thấy chúng, to gần bằng con gà mái
đẻ, lông màu nâu xám. Tiếng kêu thật là thê lương, như tiếng than vãn
của người dân mất nước: “cùng cực chi tui cùng cực”, con kia đáp lại:
“rủ rỉ…rù rì”. Cứ thế cả đêm kêu từ đầu làng đến cuối xóm, nghe
rất buồn. Gần sáng, khoảng gà gáy canh tư thì chúng về đậu lên cây
cao, đổi chỗ. Con đực sẽ ở đầu làng, con cái về cây ươi. Không ai săn
bắn chúng cả. Sau Cách mạng Tháng Tám, chúng vẫn còn kêu nhưng đến ngày
12/2/1947 bọn Pháp trở lại xâm chiếm Quảng Trị, phần do bom đạn nổ
rền, phần vì ban đêm quân du kích và bộ đội, cán bộ đi lại nhiều nên
chúng bay đi đâu không rõ. Cũng có thể là nước đã độc lập nên chúng
không còn kêu than nữa!
Trong các nương của ông mệ, cậu Diêu
Xoan, cậu Diêu Khuê và nương của mạ tôi cây cối lưu niên rất nhiều:
Mít, bồ quân, bưởi thanh trà, dâu gia, dầu lai, cau, chè, vả…và xung
quanh là lũy tre. Cả ngày chỉ có ánh nắng ban trưa ở giữa sân mà
thôi, còn toàn là bóng râm che mát cả một vùng. Đây chính là nơi mà
con chim cắt rình rập đàn gà con. Từ trên cành cao, chim cắt lao như
một mũi tên xuống đàn gà con và quắp một chú bay vút lên, lẫn vào đám
lá. Có câu “nhanh như cắt” là để chỉ loài chim này.
Lại nói về các thứ bẫy chim và gà rừng. Bẫy
có các loại chim bầy, chim ăn lẻ. Các loại
bẫy như: bẫy lồng, bẫy lỗ, bẫy cần, bẫy goọng, bẫy chim cu vào vụ mùa gieo hạt
bắp, mè. Thường là tháng Giêng, tháng Hai âm lịch rất vui và cho tôi nhiều kỷ
niệm. Những loài chim hay mắc bẫy
nhất là chim chàng làng, chim nghịch, chim cuốc, bìm bịp, gà rừng. Tôi
đã có lần theo cha con ông Bộ Hinh đi đánh bẫy gà rừng. Ông Bộ Hinh là thân phụ
của Trần Đức Long, bạn học thời phổ thông của tôi. Người đi đánh bẫy mang theo
con gà trống mồi. Gà trống rừng này bắt về nuôi thuần hóa. Đặc biệt hai cái mào
dưới tai gà rừng bao giờ cũng là màu trắng. Vào khoảng tháng 3 âm lịch là mùa
đánh bẫy gà rừng. Hễ nghe thấy tiếng gà rừng gáy ở đâu là lập tức đến đó để
đánh bẫy. Đặt con gà mồi vào một đám đất gần chỗ có tiếng gà rừng gáy. Buộc một
sợi dây mềm, nhỏ vào chân con gà mồi, đầu kia buộc một cái cọc, cắm cái cọc đó
xuống đất để hạn chế bán kính hoạt động của con gà mồi. Vì xung quanh con gà mồi
được cắm một vòng tròn các cây gio để bẫy gà rừng. Làm xong các công việc đó
thì người đi đánh bẫy vào một chỗ khuất, gần chỗ con gà mồi để quan sát, con gà
mồi đã được huấn luyện tốt. Hễ thấy chủ nó đi vào bụi cây là nó cất tiếng gáy
liên tục. Tiếng gáy đó khiêu khích con gà rừng. Con gà rừng lập tức từ trên cây
vỗ cánh đáp xuống chỗ con gà mồi để nghênh chiến. Nó lập tức dùng chân có cựa
dài và sắc và hai cánh nâng mình lên để đá vào con gà mồi. Nó không ngờ là nó
đã mắc vào các cây gio cắm xung quanh. Có nhiều con gà mồi rất khôn. Khi con gà
rừng áp sát vòng gio, nó giả vờ sợ sệt để con gà rừng xông vào đánh nó và mắc
gio. Nếu con gà rừng thấy vòng gio mà sợ sệt rồi bỏ đi, thì nó cất tiếng gáy
khiêu khích, còn gà rừng lập tức quay lại đánh nó và mắc gio. Có khi còn bắt được
cá gà mái rừng ngoài vòng gio cắm xung quanh còn gà mồi. Thường thì các con mái
đi theo con trống và quanh quẩn gần chổ đánh bẫy. Khi con trống mắc bẫy, các
con mái chạy tán loạn và mắc gio. Khi bị đuổi, gà rừng chạy một đoạn rồi mới cất
cánh bay, nên bị mắc vào gio. Cũng có những người nơi khác đến bẫy chim
bằng lưới, thường là chim cu đất, cu ngói sống theo bầy đàn.
Khi mùa xuân tới, chúng tôi cũng
thường đi kiếm cá ở những đoạn khe suối cạn nước. Dụng cụ là những
nhánh sim bó nhỏ rồi dùng hai tay đẩy đi từ bên này sang bên kia vũng
nước cạn. Những con cá mắc vào cành sim được đẩy lên trên đất khô và
cho vào oi (giỏ). Có khi bắt được cá tràu (miền bắc gọi là cá quả,
miền nam gọi là cá lóc), cá hẽn (cá trê). Chúng tôi nhào bùn cho
dẻo rồi trét dày lên mình cá đem nướng lên trên những cành củi khô cho
đến khi cả cục đất bị nung cháy thì bên trong cá chín. Những đứa
trẻ chăn trâu chúng tôi cùng ăn với nhau rất vui vẻ, rất ngon, đỡ đói.
Chúng tôi cũng đào những cái hố bẫy rùa. Hố vuông mỗi bề khoảng
bốn gang tay, sâu hơn nửa mét, dưới đó đặt một cái cọc tre chính
giữa, trên cọc tre ghim một miếng xơ mít chín. Những con rùa núi ngửi
thấy mùi mít chín thì vươn cái đầu ra để đớp và bị mất thăng bằng
nên rơi xuống hố. Thit rùa ăn ngon, nhưng trứng rùa thì không ai dùng.
Câu chuyện thứ 12.Cậu Nghẹc bắn voi rừng
Voi tuy là động vật hoang dã nhưng đã được
con người thuần dưỡng. Trong lịch sử giữ nước tượng binh là một binh chủng khá
lợi hại, đã giúp quân ta dẫm nát quân thù. Voi nhà còn được dùng để vận chuyển
gỗ từ rừng ra. Quê tôi, trước Cách mạng Tháng 8, người dân chưa biết đến các
dân tộc ít người như Pa-cô, Vân Kiều…mà thường gọi chung là cà
lơ. Trước mặt nhà ông ngoại tôi có con đường dẫn xuống sông Thạch Hãn.
Chỗ bến lội qua sông, tôi thường thấy từng đoàn người cà lơ di dân bằng voi. Và
nghe ông ngoại kể, họ có tài đem voi nhà dụ voi rừng về nuôi.
Thời kháng chiến chống Pháp, quân đội ta
thiếu thốn mọi bề nên việc cậu Nghẹc tôi được phân công đi kiếm thực phẩm bằng
cách săn bắn thú rừng là chuyện thường. Cậu thường đi vào vùng trảng tranh
thật xa để tìm bắn thú rừng. Có lần cậu bắn được một con voi to
tướng. Cậu thông báo cho các làng gần đó mang theo dao, rựa, triêng
gióng (quang gánh) để vận chuyển thịt voi về làng. Tất nhiên là dân
làng cũng phải làm nghĩa vụ đem thịt voi về cho Công binh xưởng của
cậu. Tôi cũng mang theo dao rựa và triêng gióng theo đoàn người đi xẻo
thịt voi. Lúc đi mạ tôi dặn cố gắng lấy cho được cái đợng voi. Đợng
tức là cái gan bàn chân của voi. Đợng rất dày, có thể dày tới mười
phân, đem về cạo sạch phần da ngoài, luộc chín mềm, cắt thành từng
miếng nhỏ khoảng 3 phân vuông, phơi khô, gác lên giàn bếp. Khi có giỗ
chạp hoặc ngày Tết thì đem xuống, lấy cát cho vào chảo rang lên cho
tới khi nở bung đều, dùng vào việc nấu đọi canh cúng (giống bát canh
bóng của người dân miền bắc nấu bằng da lợn rang bỏng). Chỉ có những
nhà quyền quý thời thực dân, phong kiến mới có món canh đợng voi,
còn đa phần thì dùng da heo.
Hồi trước Cách mạng, dân Quảng Trị
thường khi nghe vua Bảo Đại đi săn voi thì hay kéo nhau đi coi. Và người
dân phải è cổ ra đóng thuế để xây dựng một con đường giành riêng cho
vua đi săn. Con đường đó mang tên là đường Vĩnh Thụy, điểm đầu nối
với Quốc lộ 1 tại làng Lai Phước, song song với Đường 9 lên Cùa. Địa
danh này cũng nổi tiếng vì vua Hàm Nghi đã chọn Tân Sở làm căn cứ
địa chống Pháp và hạ chiếu Cần vương.
.
. Câu
chuyện thứ 13.Nhớ giọng hò O QUÝ.
Một ngày cuối năm. Trong cuộc họp mặt bàn
thành lập Ban Liên lạc đồng hương Quảng Trị ở Đồng Nai, O Tư người
Vĩnh Linh, tuổi đã trên năm mươi, góp vui bằng một điệu hò mái nhì. Tiếng hò của
O Tư làm
tôi nhớ tới người con gái làng Thượng Phước – quê ngoại tôi – cách đây hơn nửa
thế kỷ.
Làng Thượng Phước nằm ven con sông Thạch
Hãn, quanh năm nước chảy hiền hòa. Chỉ có những ngày tiểu mãn, những ngày
“tháng bảy nước nhảy lên bờ,” dòng sông mới đục ngầu phù sa, mang theo bao thứ
từ tận tít nguồn Hàn, trên dãy Trường Sơn trôi về. Bọn trẻ chúng tôi thường đi
cặp mé sông vớt củi rều, có khi vớ được cả những con heo rừng nhỏ, những con
mang (mển) còn sống, đem về thui thui, đun đun, nấu nấu,
cả xóm cùng vui.
Trước ngày vỡ mặt trận Trị Thiên - Huế,
dòng Thạch Hãn man mác, dìu dặt bao nhiêu điệu hò thân thương trên những chiếc
đò ngược xuôi bến Trấm và xa hơn nữa là Bơng, là Chả Cá, Đá Nổi, Đà Nầm, Thác
Lo và chiến khu Ba Lòng.
Ngày đó và cho đến cả những năm đánh Tây,
đường lên nguồn chủ yếu là đường sông. Cứ sau mỗi mùa thu hoạch, những chiếc nốốc
to được chất đầy bắp, sắn chở về xuôi. Những tay thạo nghề sông nước và cũng rất
giỏi giang trong các làn điệu hò mái đẩy, mái nhì. Cho đến khi xuất hiện bài
thơ Cô lái đò của Lương An:
…Đò em lên xuống
Ba Lòng
Chở người cán bộ qua vùng chiến khu…
Dòng Thạch Hãn như được thổi thêm luồng
sinh khí mới. Đêm đêm, khi vừa lặn mặt trời, bến Trấm rộn rịp bước chân người
cán bộ, anh bộ đội và cả người đi buôn, xuống đò lên chiến khu. Đò đi trong
đêm, đi trong ánh trăng rừng bàng bạc. Hai bên bờ là những trái núi sừng sững.
Và tiếng hò lại được cất lên, hòa vào sương, vào núi, vào trăng làm chộn rộn
lòng người.
Thượng Phước trước sông, sau độộng. Ở giữa
có cánh đồng Bàu Lác, Bàu Ông Phe, hai mùa lúa trĩu hạt sây bông. Trước đây, cứ tới mùa cày, mùa cấy, mùa gặt, thợ bạn từ Lâm Thủy, Câu Nhi, Trà Lộc…kéo
nhau lên để mùa nào việc nấy. Cánh đồng làng tấp nập từng tốp, từng tốp áo dài
vá vai khom lưng dưới nắng dãi, mưa dầu làm lụng. Và để quên đi cái mệt nhọc của
công việc đồng áng, tiếng hò được cất lên giữa đất trời bao la, lan tỏa khắp
thôn làng, thấm sâu vào lòng người.
Mạ tôi cũng là một người hò rất
hay. Ngày còn bé, tôi đã được nghe Mạ hò với rất nhiều làn điệu. Hò mái nhì,
hay còn gọi là điệu hò sông nước. Đây là điệu hò khoan thai, theo nhịp mái
chèo. Tôi thường nghe Mạ hò câu hò in đậm vào lòng người dân mất nước:
“Chiều chiều trước bến Văn Lâu *
ai ngồi
ai câu
ai sầu
ai thảm
ai thương ai cảm
ai nhớ ai đợi ai trông.
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước
non”
Nhưng tôi nhớ nhất là điệu hò Ru em:
Ru
em, em théc cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu…
Và những năm ở Hà Nội, tôi đã làm
bài thơ Gửi cánh chim xa để nhớ về mẹ,
trong đó có những câu:
…Về bên nôi cũ, đến con tìm
Lời mẹ ngày xưa ru con ngủ
Ầu ơi! Giấc ngủ nhẹ êm êm…
***
Tháng 2 năm 1947, giặc Pháp đổ bộ lên cửa
biển Tư Hiền, rồi nống chiếm Quảng Trị. Thượng Phước cách thị xã Quảng Trị
không đầy năm cây số. Nhưng đây là vùng tự do. Bọn trẻ chúng tôi, đứa thì vào
du kích, đứa đi bộ đội, đứa lên Ba Lòng, đứa ra Hà Tĩnh để học, tùy theo sức
mình mà tham gia kháng chiến. Trong chi đoàn Thanh niên Cứu quốc thôn, có O Quý được
trời phú cho một chất giọng tuyệt vời, hát đã hay mà hò lại càng hay hơn.
Nhưng đêm trăng sáng, chi đoàn tổ chức
sinh hoạt giữa cánh đồng Bàu Lác, cố nhiên là phải vào mùa khô, mùa giáp Tết.
Phần thứ hai, bao giờ cũng có tiết mục liên hoan văn nghệ. Tiếng hát, tiếng hò
lại được cất lên một cách tự nhiên như con người cần hít thở khí trời vậy. Và
không thể thiếu được giọng hò O Quý. O Quý hò, tập thể chúng tôi xô (xô
là tiếng hò đệm xen vào để người hò hò tiếp câu sau).
Có một tối, chi đoàn đang vui văn nghệ thì
có mấy anh bộ đội đến chung vui. Quý biết đây là lính của Tỉnh đội bộ, có bí số
là C.210, thường về đóng quân ở xóm Mộ,
làng Thượng Phước. Quý liền cất ngay tiếng hò:
Ai về nhắn với Hai trăm mười (210)
Mau lên Thượng Phước kẻo có người đợi trông.
Trong
nhóm bộ đội đó có anh Hà, người có dáng thư sinh, hò đáp:
Nghe tên o Quý đã lâu
Nay eng mới
chộ muốn trao câu ân tình.
Quý đỏ mặt xấu hổ. Không ngờ cái buổi giao duyên ban đầu ấy đã trở thành
duyên nợ giữa hai người. Sau cái lụt năm Thìn (1952) họ làm lễ cưới.
Trời chạng vạng tối. Càng gần Tết, trời Quảng Trị dường như lạnh hơn. Tổ
hò địch vận có ba người. Hai tay súng và O Quý được lệnh chuẩn bị lên đường. Bốt
Cầu Bàu Vịt nằm trên đoạn đường sắt và quốc lộ 1 chạy qua làng Nhan Biều, được
chọn cho buổi hò hôm nay.
Không biết từ ngàn xưa đến nay có cuộc chiến tranh nào trên trái đất này
đã có chuyện đem điệu hò quê hương rót vào tai kẻ địch để khuyên chúng tỉnh ngộ,
trở lại với cội nguồn dân tộc? Thế mà ở ta lại có chuyện đó. Đây có lẽ là một
“binh chủng” hết sức độc đáo, hết sức đặc biệt. Nên chăng giành cho loại hình
này một chỗ đứng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Vũ khí chính ra trận đêm nay của tổ hò là một cái loa tay. Loa làm bằng sắt
tây, đầu nhỏ có gắn miếng tôn loe ra, vừa đủ cho người sử dụng ghé miệng vào
nói hoặc hò, ở giữa có tay cầm và phần cuối loa rộng ra, đường kính vừa bằng
cái đọi canh to. Viết đến đây, tôi lại nghĩ và lấy làm tiếc, giá như hồi đó có
cái máy cát-xét, thi ta cứ hò vào đó, thu băng xong, đêm về đem đặt ở một chỗ
xuôi gió, bấm máy, hò vào tai kẻ địch thì đỡ hy sinh biết mấy! Tổ hò địch vận
chúng tôi có hai khẩu súng mà một khẩu là loại mút-cờ-tông từ thời đệ nhất thế
chiến, mỗi lần bắn súng giật ê cả và một khẩu súng trường Nga dài lêu nghêu, bắn
từng phát một, bốn trái lựu đạn, hai dao găm, hai cái cuốc nhỏ (thực ra đây là
cái chét chuyên dùng làm cỏ lúa vãi), hai cái xẻng quân dụng của Pháp (chiến lợi
phẩm của du kích Triệu Sơn giật bom giết bọn giặc đi càn ở đầu làng Thượng Phước).
Những dụng cụ này dùng để đào hố vừa đủ cho mấy người ngồi để tránh đạn trong bốt
bắn ra. Ngoài những thứ vũ khí ấy, họ còn thêm một thứ nữa mà kẻ thù không sao
có được. Đó là ngọn lửa cách mạng hừng hực cháy trong những trái tim thanh xuân
của họ. Kể cũng lạ, hồi đó chúng tôi đi vào cuộc thử lửa để giành lại độc lập
cho Tổ quốc sao mà thanh thản, vô tư và nhiệt thành đến thế!
Để bảo đảm cho tổ hò địch vận, ngay từ chiều lúc vừa chạng vạng, tổ cảnh
giới, gồm có Dượng Phụ, tôi và Bùi Hữu Tưởng, đã đến trước vị trí để nắm tình
hình, theo dõi xem bọn địch có rải quân phục kích xung quanh bốt hay không. Nhớ
lại hôm đi hò đầu tiên, chính bọn địch cũng ngỡ ngàng phút chốc khi nghe tiếng
hò cất lên. Nhưng đến lúc chúng nhận ra, trong những câu hò đó là lời kêu gọi của
Việt Minh thì chúng bắn xối xả như vãi đạn. Cũng may là bên ta có sự chuẩn bị hầm
hố chu đáo nên không hề hấn gì. Lúc đầu Quý cũng thấy sợ và giọng hò lạc đi
trong tiếng vèo vèo đạn xé về phía mình. Mãi những lần hò sau rồi quen dần. Giặc
bắn cứ bắn, ta hò cứ hò. O Quý buộc chặt
lại chiếc khăn len quàng cổ. Giọng O lại cất lên:
- Ơ hờ!
Anh ơi, mau mau quay súng trở về
Đồng bào đang đợi, vợ ở quê đang chờ
- Súng
trong tay, anh bắn giặc Tây
Về đây cứu nước đêm ngày em mong.
Một loạt đạn bay ra. Đèn pha quét loang loáng. Chờ im tiếng súng O Quý lại
hò:
-
Ơ hờ! Mau về với chính nghĩa anh ơi!
Khỏi làm bia miệng cho đời cười chê.
Lần này thì bọn giặc trong bốt không bắn ra nữa. Chúng còn gọi vọng ra:
Hò nữa đi!
Khi tiếng súng lặng im là lúc tiếng hò chiếm ngự trời đêm. Tiếng hò cao
vút lên tận không trung. Các vì sao xao xuyến lung linh. Tiếng hò như những lời
nhắn gửi của quê hương, làng mạc đối với những đứa con lầm đường lạc lối. Tiếng
hò có sức bay xa, lan tỏa trong đêm đối với bà con trong vùng địch tạm chiếm,
đem đến cho họ niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến trường kỳ.
Tiếng hò như đọng lại trên từng nhánh lá, cành cây, ngọn cỏ và đi vào lòng người.
Đã có nhiều anh lính ngụy vác súng quay về với kháng chiến, với quê hương.
Đêm nay, không biết là đêm thứ bao nhiêu Quý cùng đồng đội đi hò địch vận.
Lính trong những đồn bốt giặc đóng từ cầu ga Quảng Trị ra đến Đông Hà đều được
nghe giọng hò da diết của Quý.
Năm Con Rắn (Quý Tỵ) sắp đi qua và năm Con
Ngựa (Giáp Ngọ - 1954) sắp về. Càng gần thắng lợi càng dày gian nan! Chiến trường
Đông Dương như một lò lửa đã đến hồi sắp tàn. Bọn Pháp dồn quân tướng ra lòng
chảo Điện Biên Phủ. Ở Quảng Trị, những cuộc càn quét, bắn phá của chúng thưa thớt
hơn. Chúng đang co cụm và bên ta thì tăng cường những trận tập kích vào hệ thống
phòng thủ của chúng, tích cực quấy rối địch, trong đó có một mũi: hò địch vận.
Hò địch vận đã phát triển thành một phong trào rộng lớn, có bài bản. Bất kỳ nơi
nào trên đất Quảng Trị có đồn bốt giặc là nơi đó có giọng hò địch vận được cất
lên. Những bài (hay câu) hò được sáng tác và in thành những cuốn sách nhỏ do Ty
Thông tin – Tuyên truyền tỉnh ấn hành. Tổ hò địch vận còn sử dụng cả những câu
hò được đăng trên tờ báo Dân (cơ quan của Tỉnh Đảng bộ Quảng Trị), những bài hò
đăng trên báo Cứu Quốc Liên khu 4. Cũng có khi sử dụng những bài hò của anh chị
em trong chi đoàn sáng tác, mà phần lớn là của tôi.
Bốt Ái Tử đêm nay tăng cường thêm nhiều đèn pha. Ánh sáng ma quái của
chúng liên tục quét đi quét lại, tưởng chừng một con chuột cũng không thoát được
sự kiểm soát của chúng. Giặc đang lồng lộn điên cuồng của thời kỳ dãy chết. Tổ
của O Quý được ém sau một động cát. Cái thứ cát mịn như nhung và trắng tựa bông
đang ấp ủ những đứa con vì độc lập của Tổ quốc mà không quản ngại gian khổ, hy
sinh. Gió lạnh nhè nhẹ thổi. Sắp Tết rồi, đất trời như có sự chuyển mình, giao
thoa. Một cây mai vàng đơn độc bên hàng rào nhà ai đã ra hoa và tỏa ngát hương
thơm man mác đến tận chỗ anh chị em đang nằm đợi đêm xuống để bắt đầu vào cuộc.
-
Ơ hờ! Mau về chính nghĩa anh ơi
Khỏi làm bia miệng cho đời cười chê
Mới chỉ có một câu hò vừa dứt
thì từng loạt đạn liên thanh nhằm vào nơi có giọng hò bắn xối xả như mưa. Chúng
còn dùng cả súng phóng lựu, cả đại liên bắn tới tấp. Chiếc loa tay thủng lỗ chỗ.
Các tay súng bên ta nổ súng đáp lại và yêu cầu Tổ O Quý rút lui. Pháo sáng sáng
rực một góc trời. O Quý bò ra được một đoạn, vào cái nơi trống trải mà một bên
là đường sắt, một bên là đường số 1 thì một quả đạn pháo của địch nổ. Mảnh đạn
quái ác của giặc đã cướp đi sinh mạng người con gái quê tôi đang độ tuổi thanh
xuân, cướp đi của Quảng Trị một giọng hò mà nếu Quý còn sống thì có thể sánh
cùng các nghệ sĩ Châu Loan, Hồng Lê sau này.
O Quý hy sinh để lại biết bao
thương tiếc cho chi đoàn Thanh niên Cứu quốc, cho gia đình, họ mạc, xóm làng
quê hương. Anh Hà chồng o Quý mải cho tới Hiệp định Genève được ký kết 3 tháng,
mới được tin vợ hy sinh. Những năm tháng ác liệt đó anh theo Trung đoàn 95 đi
khắp chiến trường Bình Trị Thiên, Hạ Lào. Và đầu năm 1954, anh có mặt ở chiến
trường Điện Biên Phủ.
Đứng bờ bắc sông Hiền Lương, anh gửi theo gió lời cầu nguyện về linh hồn
một người con gái Thượng Phước chưa từng được làm mẹ một ngày:
Sống anh hùng, chết vẻ vang.
Câu chuyện thứ 14. Quê Mạ
tôi còn có cả beo.
Vùng
duyên sơn đây không chỉ có cọp mà còn có beo, dân gian thường gắn hai
chữ cọp beo đi với nhau như trong một bài hát thời chống Mỹ sau này
đã có câu hát: “Bọn giặc Mỹ cọp beo”. Beo chính là loại báo
(Panthera Pardus, họ Mèo Felidea). Loài này biết trèo cây và không bắt
người.
Tôi còn nhớ cả nhà cậu
Diêu Khuê đang trải nống ăn cơm tối giữa sân. Con chó mực nằm chực
phía sau. Bỗng nghe một tiếng “ắng”, thế là con chó đã bị beo ngoạm
chạy vô Lùm Miệu. Beo rất thích ăn thịt heo. Nhà ông Thanh bên Xóm Mộ
có nuôi bốn con heo, loại heo nhỏ mà người Bắc gọi là lợn ỷ. Hồi
đó ít có heo ngoại lai. Mỗi con nặng khoảng hơn chục ký. Hôm thứ
nhất, beo vào tận chuồng quắp đi một con. Hôm thứ hai, “quen mui bén
mùi ăn mãi”, beo lại vào quắp con thứ hai. Ông Thanh tức quá, bèn đêm
thứ ba, ông cầm cái baionnette (lưỡi lê cắm lên súng trường mousqueton)
ra sau nương, ngồi rình ở lối đi vào chuồng heo. Khoảng trăng lên độ
hai con sào thì một chú beo nhẹ nhàng những bước chân nhung vào
chuồng heo, quắp con heo ngậm ở mồm đi ra. Từ trong bụi rậm, ông Thanh
lấy hết sức bình sinh thọc lưỡi lê vào cổ con beo. Con beo nhả con heo
ra và mang luôn cái lưỡi lê còn dính ở cổ chạy vào đôộng. Ngày hôm
sau, ông Thanh lần theo vết máu, tìm hướng con beo đi và thấy nó nằm
chết cách nhà khoảng một cây số.
Beo rất khôn. Đến tối mọi nhà
đều nhốt chó vào trong, không cho chạy nhảy ra ngoài. Nhà ông Thới sau
Lùm Miệu, (sau này ông Thới lên chiến khu Ba Lòng và tham gia cách
mạng bị giặc bắt đày ra Côn Đảo và ông được trao trả tù binh năm
1973). Vách nhà ông Thới thưng bằng lá tranh, cũng kín, có một chú
beo tối đến thò đuôi vào nhà ngoáy ngoáy làm con chó tức máu ngoặm
vào đuôi beo và beo nhanh chóng rút đuôi ra, đang còn dính mồm chó, vì
tranh mềm nên beo lôi tuột chó ra ngoài. Thế là chỉ một cái ngoạm,
con chó đã bị beo tha đi mất.
Nói thêm vài loài thú quê Mạ Phường
Sãi.
Vùng này thỉnh thoảng có
đàn sói con do một con thầy làng (sài lang) chỉ huy. Sài Lang là danh
từ mà dân ta thường dùng để chỉ bọn Tây Dương Phú-Lang-Sa (France) sau
khi Pháp chiếm Việt Nam. Bọn sói lang này rất khôn, chuyên lùng bắt
heo rừng. Khi chúng phát hiện nơi ẩn nấp của heo rừng thì con thầy
làng ngồi rình một chỗ - nơi heo có thể chạy ra - nó đái cho ướt
cành lá để khi heo chui ra thì vấp phải bị cay mắt. Có người nói
nước đái thầy làng làm mù mắt (?). Còn đàn sói thì bủa quanh lùm
cây sủa ầm ĩ, khép chặt vòng vây theo hướng đuổi con heo đi lối thầy
làng ngồi chờ. Heo bị mất phương hướng đang ngơ ngác thì thầy làng
nhảy phóc lên lưng, hai chân trước bấu vào hai mắt con heo. Và dù có
vũng vẫy cỡ nào thì trước sau heo cũng bị quỵ. Cả bầy được một
bữa no nê, thường thì chúng thích ăn bộ đồ lòng. Sau khi ăn uống xong,
con thầy làng hú lên một tiếng rất dài. Rồi cả đàn bỏ đi khu rừng
khác. Người dân ở đây rất kiêng gặp bọn sói lang này. Không may cho ai đó
nhìn thấy chúng đang ăn mồi mà đuổi chúng đi thì ngay tối hôm đó
chúng về tận nơi ở của người đó, lùng bắt heo nhà (?). Người ta cho
rằng tiếng hú của thầy làng là tiếng gọi cho người đến lấy phần
thịt của con mồi mà chúng bỏ lại.
Hồi khởi nghĩa Tháng Tám mới thành
công, bọn thiếu nhi chúng tôi được các nhà cách mạng đàn anh giải
thích hai chữ “Hy sinh” xuất phát từ chữ “Muông hi” là con sói, và
“Muông sinh” là con thầy làng. Không biết có chính xác hay không, nhưng
đúng là khi chúng đã thấy con mồi, thường là heo rừng và mang, nai to
gấp chục lần, chúng cũng lăn xả vào, quyết hạ cho được đối thủ, có
thể là phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng. “Mãnh hổ nan quần hồ”
là thế. Trong thực tế, chúng tôi chưa hề được nhìn thấy lũ sói lang
này mà chỉ nghe các cụ già trong làng kể lại mà thôi, nhưng tuổi
ngây thơ thì rất tin. Sói con cũng được mệnh danh cho các đội viên Đội
Hướng đạo sinh. Còn con thầy làng thì có phải là con chó sói to gần
bằng chó bẹc-giê hay không. Hai giống này đến nay gần như tuyệt chủng
ở Việt Nam.
Thú rừng còn có một loại nữa mà dân làng thường rất kiêng (do
trình độ dân trí còn thấp), rất sợ chúng lạc về làng dù nó rất
hiền lành, chỉ ăn cỏ và lá cây. Đó là con mang (còn gọi là hoẵng,
mễn), một loài móng guốc, họ hươu, thân nhỏ con như sơn dương, thịt
rất ngon. Dân làng sợ vì câu nói lái này: “Mang lạc thì mạt làng”,
tức là làng sẽ bị mất đi một phần dân làng, hoặc chết hoặc phải đi
nơi khác tha phương cầu thực! Nơi cư trú của chúng là ở trong độông,
trong hác sâu, nếu lạc về làng thì để nó tự động trở vào núi,
tuyệt đối không ai được xua đuổi hoặc săn bắn. Đây là lệ làng nhưng
rất khắt khe.
Núi, độộng, trảng, hác ở vùng này có rất nhiều loại thú
rừng: chồn các loại từ cầy hương, còn gọi là chồn xạ hương, mùi
bìu nó rất thơm; chồn đèn, chồn bạc má, nhím, cu lúi (một loại họ
chuột có tên chuột nhũi), rái cá, trút (tê tê), kỳ đà, mèo rừng,
thỏ rừng, khỉ đười ươi… Ở Lùm Miệu trên còn có cả trăn núi, thân to
như cột nhà rường, có con dài hơn chục mét.
Câu chuyện thứ 15. Gốc tích cái tên Phường Sãi và o bán bánh
Chữ “phường” này khác với chữ “phường” là
một đơn vị hành chính hiện nay. , mà là một danh xưng bởi những người
cùng làng ở miệt đồng bằng hoặc duyên sơn thiếu đất canh tác nên đến
một nơi khác, thường là ở miền sơn cước, để khai hoang như phường Sãi
của làng Xuân An, phường Nại Cửu của làng Nại Cửu. Chữ phường này
là chỉ địa danh, nhưng cũng có chữ phường để chỉ nghề như phường
hát, phường chèo, phường cấy, phường săn
Ở Quảng Trị có 3 địa danh mang chữ Sãi. Đó
là Chợ Sãi, đối diện làng Xuân Yên phía bờ bắc sông Thạch Hãn. Đó là chiếc cầu
bắc qua sông đào Vĩnh Định, trên tỉnh lộ 64 từ thị xã Quảng Trị ra biển Cửa Việt.
Ngày nay, người ta đã đổi tên cầu Sãi thành cầu An Tiêm. Và một nữa là Phường
Sãi thuộc làng Xuân Yên (An), cò tên chữ là Xuân Sơn.Chữ Xuân lấy từ gốc
làng Xuân An, chữ Sơn nghĩa là núi. Xuân Sơn chỉ dùng trên giấy tờ,
văn bản, đơn từ ít người biết tới. Còn chữ Phường Sãi là để tưởng
nhớ đến Chúa Sãi, người đã có công lớn mở rộng xã tắc Đàng
Trong.Và là người đã đưa Cụ Hiền Tổ Khảo Nguyễn Văn Cơ từ Nghệ An
vào Quảng Trị. Phường Sãi chỉ có mấy hộ gia đình, kể từ đời Cụ
Cố Nghi Nguyễn Văn Cơ định cư (đời thứ 9), đến đời hậu duệ thứ 17,
tổng cộng được 9 đời.
O bán bánh và cục đá.
Giữa làng Thượng Phước - một cái làng sầm uất, có đến hàng
chục nhà ngói gỗ mít có chiều dài hàng chục cây số từ cuối làng
An Đôn lên đến Trấm lại mọc lên cái ấp Xuân Sơn gồm mấy gia đình họ
Nguyễn Văn từ Đông Bích vào. Mọi sinh hoạt đều phụ thuộc vào bộ máy
hành chính của làng Xuân An.
Tương truyền rằng “Có một o bán bánh xinh đẹp vốn người làng
Xuân An mở ngôi quán gần Lùm Miệu *, bán bánh bột lọc bọc tôm thịt,
bánh quai vạc làm bằng bột củ sắn. Sáng sáng có ông thổ hào, người
làng Thượng Phước (làng Thượng Phước có cùng một ông tổ là người ở
Bắc vào Quảng Trị và chia thành 3 làng mang chữ Thượng gồm có làng
Thượng Phước, làng Thượng Nghĩa và làng Thượng Trạch, (Thượng Trạch
là quê của nhà văn quân đội Trần Công Tấn) đến ăn quà sáng và say sưa
ngắm nhìn o hàng bánh, mơ được làm chồng. Ông ta quên cả ghi sổ nợ.
Đến khi không sao tìm ra số nợ o bán bánh thì ông thương thảo với o
rằng: “Chừ o ôm cục đá (có người kể là cối đá nhỏ) đi từ đây, nơi
có quán bánh và sau này là địa giới giữa làng Thượng Phước với ấp
Xuân Sơn, khi mô mỏi không ôm được đá nữa, bỏ xuống nơi mô thì là đất
của ta trả nợ o đó! O thuận ý, xóc lại quần lưng vận, hồi đó chưa
có quần giải rút hay dây thun như bây giờ. O ôm đá bước đi trước, ông
thổ hào bước theo sau. Oái ăm là ông này có tính hài hước, luôn mồm
kể chuyện vui, hoặc là cố ý chọc cười để cục đá mau rớt xuống.
Đến đoạn chuyện vui quá, o bán bánh cười ngặt nghẽo, thót cả bụng,
quần lưng vận tuột ra. O vội vứt đá xuống để giữ quần. Ông thổ hào
la lên: “Đó. Đó, đó đất của o đến đó thôi nghe…”
Từ cây mương cổ thụ, thân cây có nhiều hốc - chim gõ kiến, chim cà cưỡng,
tu hú…, thường chui vào làm tổ, là địa đầu của Phường Sãi - đến cây ươi
Cồn Quả, nơi cục đá O bán bánh buông rơi là đất của ấp Xuân Sơn,
Phường Sãi. Giờ nơi đây là dàn cột điện đường dây 500 kv chạy qua.
_________________
(*) Lùm
Miệu: một khu rừng nguyên sinh nhỏ, trong đó có xây
miếu thờ thần? Thờ thần nào, đến bây giờ khi các cụ đã mất, con
cháu đời sau không rõ. Và hiện nay đã xây lên ở đó một ngôi nhà thờ
tộc Nguyễn. Có lẽ sau này O bán bánh được tôn là Thành Hoàng và
thờ ở Lùm Miệu chăng?
Dị bản. Theo Hồi ký của Trần Đức Long thì Phường Sãi cũng có
nguồn gốc từ o bán bánh làng Xuân An. Chỉ khác câu chuyện của tôi là ông quan
chứ không phải là ông thổ hào.
Câu chuyện thứ 16. Thanh niên hy vọng tương lai đạo
Đến khi chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời thì Phường Sãi được sát nhập với thôn Thượng Phước. Mọi sinh
hoạt của người dân và các đoàn thế đều được tham gia một cách bình
đẳng. Đã hết rồi cái “thời phân biệt ngụ cư”. Người Thượng Phước coi
người Phường Sãi bằng nửa con mắt? Cách mạng về xóa đi cái ranh
giới giàu nghèo và người ngụ cư.
Trong ba chiến sĩ cộng sản Tiền khởi nghĩa ở đây gồm các ông
Lê Luyện, Bùi Hồng Sa, Nguyễn Minh Tự thì ông Tự là người Phường
Sãi, làng Xuân An. Ông Nguyễn Minh Tự là con trai trưởng của Cụ Nguyễn
Văn Xuân, cháu đích tôn của Cụ Nguyễn Văn Cảm. Ông tham gia Việt Minh,
cướp chính quyền tại phủ Triệu Phong và đi suốt cuộc kháng chiến
trường kỳ chống Pháp. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, ông được bố trí ở
lại miền Nam để tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ ở quê
nhà. Khi mất, ông đang giữ chức vụ Chánh văn phòng Khu ủy Miền Tây
Trị Thiên.
Vợ ông Tự, người làng Nhan Biều, nhưng gốc lại là làng Tân
Phổ, sinh sống tại phường Tân Phổ, tên là Hồ Thị Thí cũng là một
chiến sĩ cách mạng, tham gia khởi nghĩa và xây dựng chính quyền từ
những ngày đầu. Họ Hồ có nhiều chiến sĩ cộng sản hoạt động thời
kỳ bí mật. Bà Hồ Thị Thí sau này sống với con gái Nguyễn Thị Minh
Hiền tại Huế (đã mất).
Người con thứ hai của Cụ
Nguyễn Văn Xuân tên là Nguyễn Tính, sau đổi thành Nguyễn Chẩm được ông
Bùi Hồng Sa, dìu dắt vào nhóm Thiếu niên Cách mạng.
Ông Bùi Hồng Sa muốn lấy ý
tưởng của tổ chức Hướng Đạo Sinh –một tổ chức do Huân tước R.B.
Powell sáng lập năm 1907 ở Anh. Ngày 7 tháng 2 năm 1946, Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa cho phép Hội này hoạt động theo quy định mới.
Ngày 31-5-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận làm Hội trưởng danh dự Hội
Hướng Đạo Việt Nam.
Nhóm Tương lai đạo này tuổi
từ 15 -16 và được huấn luyện làm các việc nhỏ như tuyên truyền phổ
biến chủ trương của Việt Minh, canh gác cho các cuộc họp, học hát, học
ngâm thơ, độc tấu, học võ, biểu diễn văn nghệ, trang trí địa điểm bầu
cử và cổ động cho cuộc bầu cử Quốc hội khóa I (tháng 1 năm 1946).
Nhóm này có các ông Lê Hoa,
Lê Ngọc Quỳnh, Trần Văn Hối, Nguyễn Chẩm, Trần Trọng Tư, Lê Ngọc Bích
và Trần Đức Đệ và được ông Bùi Hồng Sa đặt tên theo lời một bài
diễn ca yêu nước thời bấy giờ. Câu ca đó như sau: “Thanh niên hy vọng
tương lai/ Đạo làm trai gánh nặng hai vai…”
Nhóm Tương lai đạo này có
bảy người được đặt tên theo 7 chữ: Thanh niên hy vọng tương lai đạo.
Thanh là mật danh của Lê Hoa, sau này là đại tá, bí thư riêng của Đại
tướng Văn Tiến Dũng.Niên là mật danh của Lê Ngọc Quỳnh, sau này là
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (đã hy sinh trong kháng chiến chống
Pháp). Hy là mật danh của Trần Văn Hối, sau này là nhà giáo, giáo sư
Chủ nhiệm Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Vinh trong những năm chống
Mỹ và khi nước nhà thống nhất ông được điều về giảng dạy ở Đại
học Sư phạm Huế, hiện còn sống ở cùng vợ con tại thành phố Huế.
Vọng là mật danh của Nguyễn Chẩm, ( vừa mất năm 2018) sau này là kỹ sư lâm nghiệp. Ông đã
từng là giảng viên Trường Trung cấp Lâm nghiệp Nghệ An và sau này về
công tác ở Sở Lâm nghiệp Lâm Đồng, hiện sống cùng vợ con tại thành
phố Biên Hòa. Tương là mật danh của Trần Trọng Tư, ( đã mất) sau này là cán bộ Cục Điện ảnh, sống
cùng vợ con tại thành phố Hải Dương. Lai là mật danh của Lê Ngọc
Bích, sau này là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện sinh sống
tại Hà Nội. Đạo là mật danh của Trần Đức Đệ, đã nghỉ hưu và mới
mất tại Hà Nội.
Những thiếu niên đó, sau này đều trưởng thành và có nhiều đóng góp cho
cách mạng.
Câu chuyện thứ 17. Hai
người đàn bà kỳ lạ của làng Thượng Phước
Chuyến đi lần này, lúc đầu tôi chỉ
định viết về Lễ hội làng Thượng Phước – Lễ hội săn bắt thú rừng truyền thống để
nhớ về Ngài Tiền khai Võ Nguyên Hùng Dõng tặng Hùng Quốc Công – người đã có
công truyền nghề săn bắt thú rừng để bảo vệ mùa màng, thể hiện sức mạnh đoàn kết
của cộng đồng. Tương truyền Ngài là vị tướng võ nghệ cao cường, một người thân
tín của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Khi Nguyễn Hoàng vào Nam, Ngài đã cầm quân dẹp
giặc và lập được nhiều công lớn. Do có nhiều chiến tích trong trận mạc nên Ngài
đã được Chúa ban tặng cho khai khẩn vùng đất bên sông Thạch Hãn, tạo ra làng
Thượng Phước quanh năm phù sa màu mỡ bãi bồi.
Nhưng khi bắt tay vào viết thì ký
ức tràn về như một dòng thác.Vì nơi đây đã để lại trong tâm khảm tôi một thời
thơ ấu mà mãi mãi không bao giờ mờ phai. Do vậy, KÝ ỨC VỀ MỘT LÀNG QUÊ YÊN Ả ra
đời đề nhớ về quê Mẹ.
1. Mụ
Thơ tiên đao.
Làng Thượng Phước có Lễ hội săn bắt thú rừng, Lễ hội kết hợp với ngày kỵ
của Ngài khai khẩn vào ngày rằm tháng ba âm lịch hàng năm (còn gọi là ngày Việc
làng). Trước đây, ông tổ làng là người miền ngoài được chúa Nguyễn cho theo vào
để khai khẩn vùng Thuận Quảng. Ông chia 3 anh em về ba nơi và đặt các nơi ấy
mang tên làng là Thượng Phứớc, Thượng Nghĩa và Thượng Trạch. Đã có hương ước định
lệ: Các làng thay nhau làm Lễ Giỗ Ngài Khai khẩn.
Trước kia thì tôi không biết. Sau
1945, Thượng Phước không có Phường Săn thú rừng. Chỉ có vài người làm bẫy bắt
chim cu đất, cu gáy, bìm bịp, cuốc nghịch, gà rừng… Mà người say mê nhất là Cụ
Bộ Hinh, cha của Trần Đức Long – bạn học của tôi, từ khi cỏn học ở bậc tiểu học.
Một hôm có chú heo độc về thôốc,
trước nhà Trần Đức Long ở Cồn Tàu. Dân
làng báo cho Phường săn Như Lệ.
Thôn Như Lệ bên kia sông Thạch
Hãn có một phường săn của ông Đoàn Nồng. Thỉnh thoảng phường săn này
lội sông đem theo lưới, chó săn, giáo mác và người sang săn thú bên này.
Bọn trẻ chúng tôi thường chạy theo để coi họ săn. Lưới được kéo căng
ra và cắm xuống khá vững chãi ở đầu truông. Đoàn người bắt đầu xua
đàn chó sục sạo vào các lùm cây. Người thì cầm chiếc gậy dài đập
vào bụi cây và miệng thì hô huơ là huơ là huơ. Con thú bí lối chạy
theo hướng có chiếc lưới săn chờ sẵn. Cùng đường, con thú tuông vào
lưới, lưới sập xuống, thú mắc lưới.
Việc đầu tiên là người được phân công đâm lưỡi giáo nhọn để hạ
sát con thú. Lưỡi giáo chọc thẳng vào phần mềm dưới nách con thú.
Người làm việc này được gọi là “tiên đao” và khi chia thịt thì được
hưởng cái nọng. Con thịt được mổ ngay tại chỗ. Những loài thú
thường bị săn bắt nhiều nhất là heo rừng, mang (còn gọi là mển hay
hoẵng). Cũng có lúc những con chồn đèn, chồn bạc má, chồn hương
dính lưới. Người phường săn được chia phần. Bọn trẻ “a dua” chúng tôi
cũng được ông chủ phường săn cho phần thịt nho nhỏ, gọi là…
Chẳng hiểu vì lý do gì mà mỗi lần các phường săn, săn được thú thì Mụ
Thơ, người làng Thượng Phước được phường săn biếu cho cái đầu (thủ), cho nên mới
có danh xưng tặng cho là Mụ Thơ tiên đao.
Trích Hồi ký Trần Đức Long: “...
Ngôi nhà Ông nội tôi ở hồi đó là Ông nội tôi mua lại của Mụ Thơ. Mụ Thơ là người
giàu có trong làng. Không biết vì lý do gì mà bị sạt nghệp. Mụ phải bán hết nhà
cửa, ruộng đất, trâu bò, …v.v. để trả nợ. Nghe nói là vì thua bạc?
Đây là, ngôi nhà rường 3 gian, 2
chái, cột kèo toàn gỗ gõ (gụ), mái ngói, tường bao bằng ván gỗ, nền bằng vôi vữa
trộn cát và chất kết dính. Mặt nền láng bóng, vững chắc. Các đòn tay và các cửa
phía trước đều được chạm trổ tinh vi. Gian giữa, phía trong là nơi thờ cúng.
Đây cũng là nơi thờ cúng của Dánh* Trần Đức. Phía ngoài là nơi tiếp khách, đặt
2 bộ bàn ghế cũng bằng gỗ gụ, chạm trổ rất đẹp theo lối cổ. Các bộ ấm chén pha
trà bằng sứ của Tàu (sứ Giang Tây). Tôi thấy có cả bộ pha cà phê và bộ ly thủy
tinh để uống rượu. Một vài lần, tôi thấy cha tôi tiếp khách bằng rượu rum và rượu
chát.”
2. Mụ
Tản nói nhịu.
Giờ đây, thì cả Mụ Thơ lẫn Mụ Tản không còn dấu tích nào nữa ở làng Thượng
Phước. Mụ Thơ tiên đao thì biệt vô âm tín cả gia đình và dòng họ. Riêng Mụ Tản
thì sau năm 1945, Mụ còn sống và thường được mấy ông xồn xồn trong làng hay chọc
ghẹo Mụ để mua vui. Mỗi lần, gặp Mụ Tản đi chợ tỉnh về. Ông Pho Tịnh hỏi Mụ mua
được gì, Mụ lôi trong thúng ra nào muối, nào ruốc, nào diêm, nào đá lửa…Đang
nói nửa chừng, Mụ nói luôn câu: Lồ… mụ
đây nì.! Rồi Mụ lại tiếp tục trả lời ông Pho Tịnh, đủ các thứ chuyện linh
tinh khác. Sau khi quảy gánh lên vai và chào ông Pho Tịnh, Mụ Tản lại nói: Lồ…mụ đây nì.!
Ngày 17 tháng 2 năm 1947, giặc Pháp nống ra Quảng Trị. Khi Pháp tái chiếm
Quảng Trị, thôn Thượng Phước là vùng tự do. Mụ Tản được phép của Thôn đội trưởng
Lê Trường Ngư, cho phép Mụ đi chợ Tỉnh (vùng tạm bị địch chiếm) để mua các thứ.
Trong đó, có nhiều nhất là muối, ruốc, đá lửa (Đá lửa dùng cho hộp quẹt bật lửa
mà dân Quảng Trị thường gọi là máy lửa)…Có những thứ hàng Mụ Tản mua để tiếp tế
cho cán bộ ta.
Qua bốt Cầu Ga, mấy chú lính bảo hoàng (ta thường gọi là lính ngụy) chặn
Mụ đi chợ về. Chúng lục soát rất gắt gao. Xong việc, chúng cho Mụ đi. Mụ lịch sự
chào và tiếp câu nói nhịu thường ngày. Mụ bảo: Chào các vị, rồi mụ tiếp luôn: Lồ...mụ đây nì.! Mấy chú lính ngơ ngác hỏi
lại Mụ nói cấy chi? Mụ trả lời: Có chi mô nờ. Rồi Mụ lại nói: Lồ... mụ đây nì!.
Tôi không hiểu đã có vị giáo sư, tiến sĩ
nào nghiên cứu về tật nói nhịu ở Việt Nam hay chưa? Nếu giải trình được thì sẽ
tặng cho vị đó cái thêm cái bằng tiền sĩ nữa! Theo tôi, tật nói nhịu xưa nay
là: câu người đang nói không ăn nhập gì với câu nói nhịu cả. Hai mệnh đề trong
câu người đang nói và câu nói nhịu riêng biệt, chẳng dính dáng gì đến nhau. Như
trường hợp của Mụ Tản làng Thượng Phước?
Vừa rồi đây, trên Đài Truyền hình Việt Nam
có một biện tập viên đang nói về những người bán hàng rong là Ký sinh trùng. Mạng
xã hội dậy song đòi VTV phải xin lỗi. Trong kịch bản, theo như Đài VTV phân trần
là không có từ “trùng”, nhưng MC nói thêm vào, thành ra “những người bán hàng
rong là ký sinh trùng”. Cả MC lẫn cô Thu Hương (người đại diện VTV )thanh minh,
đều nói là vì nói nhịu. Theo thiển nghĩ của cá nhân tôi. Đây không phải là tật
nói nhịu như Mụ Tản làng Thượng Phước, mà nói theo quán tính. Đã nói đến ký
sinh, tất luôn mồm nói thêm chữ trủng thành ký sinh trùng luôn, cùng một mệnh đề?
Nói nhịu khác vời nói ngọng. Có một số tỉnh
ở đồng bằng Bắc Bộ có tật nói ngọng. Mà phổ biến nhất là phát ngôn từ e-lờ (L)
ra en-nờ 👎, hoặc ngược lại. Thí dụ: Tôi đi Hà Lội
mua cái lồi về lấu cơm lếp. Có một vị có hàm bộ trưởng hẳn hoi. Nhiều lúc ông
ta nói ngọng đến nỗi bàn dân thiên hạ vừa nực cười, vừa chua chát cay đắng! Họ
hỏi vì sao ông ta không gắng nói cho đúng tiếng mẹ đẻ?!
Ở Thanh Hóa, ngày trước, vùng nông thôn có
tật phát âm không chính xác. Hồi năm 1954, bộ đội miền Nam chúng tôi tập kết
lên Sầm Sơn. Giờ rảnh chúng tôi vào các làng để làm công tác dân vận. Có lần
chúng tôi đến một gia đình, thấy nhà không có người lớn mà chỉ có mấy em nhỏ.
Tôi hỏi; Nhà đi đâu vắng? Một em chừng chín mười tuổi nhanh nhảu trả lời: Cha tôi đi cần, mẹ tôi đi cấn, anh tôi đi củn, tún mới viền. Lúc này chúng tôi không hiểu các em nói gì. Nhưng
sau một thời gian thì chúng tôi mới hiểu ra. Câu trả lời đó là: Cha tôi đi cày, mẹ tôi đi cấy, anh tôi đi củi,
tối mới về.
Câu chuyện thứ 18. Chúng tôi làm báo
Lúc này xã Triệu Sơn đã có trường cấp
II. Tổ học sinh Thượng Phước gồm có tôi, Trần Đức Long, Trần Đức Dục, Bùi Hữu
Tưởng, Trần Trọng Chấm. Lê Ngọc Châu, Trần Thị Hồng. Lại có thêm trò Phan Hiền
người làng Nhan Biều, ở trong vùng tạm chiếm của Pháp, gia đình tản cư, ở tại
xóm Mộ được ghép vào tổ học sinh Thượng Phước.
Trường
cấp II Triệu Sơn được đặt tại Khe Bội (sau này có tên là Phúc Khê). Đầu niên
khóa 1951-1952, thầy Du, người Hà Tĩnh được Sở Giáo dục Khu Bốn điều vào làm hiệu
trưởng. Tôi còn nhớ, tiếp theo là thầy Triết. Đến năm 1953 thì thầy Đặng Bá Đệ
về làm hiệu trưởng. Thời gian này, ngành giáo dục nước ta đã đi vào thế ổn định.
Hệ phổ thông gồm có 9 lớp. Cấp I có 4 lớp (1, 2, 3 và 4), Cấp II có 3 lớp (5, 6
và 7) và cấp III có 2 lớp (8 và 9). Tiếp theo là 2 năm Dự bị đại học, rồi vào đại
học. Không có thi lấy bằng như thời Pháp thuộc. Nhà trường căn cứ điểm 2 học kỳ
và điểm cuối cấp để xét cho học sinh lên cấp, không như thời Pháp thuộc, hệ thống
giáo dục chia làm 3 cấp học. Học 3 năm đầu từ lớp 1 đến lớp 3, gồm lớp 1 là lớp
Đồng ấu, lớp 2 là lớp Dự bị, lớp 3 là lớp Sơ đẳng, rồi thi Sơ học yếu lược. Tiếp
đến là vào học lớp nhì nhất niên, rồi lên lớp nhì nhị niên. Rồi đến lớp nhất.
Cuối cấp này thì thi Primaire. Như thế trong khoảng 6 năm, học trò thời đó đã
phải học 6 năm mới tốt nghiệp cấp II. Tiếp theo là 4 năm học lên các lớp:
Première année (đệ nhất niên), rồi Deuxième année (đệ nhị niên), Troixième
année (đệ tam niên), Quatrième année (đệ tứ niên) rồi đi thi lấy bằng Thành
chung, tiếng Tây thì gọi là Diplôme de bachelier (bằng tú tài).
Trường có Hiệu đoàn học sinh, sinh hoạt từng
tổ theo địa dư thôn. Hiệu đoàn trường hoạt động theo ngành dọc, có cấp trên là
Hiệu đoàn tỉnh Quảng Trị chỉ đạo và lãnh đạo theo tôn chỉ, mục đích chung. Quy
chế và kỷ luật của Hiệu đoàn học sinh khá nghiêm và chặt chẽ.
Tôi còn nhớ hè 1953, Hiệu đoàn học sinh cấp
II Triệu Sơn chúng tôi ra tờ Đặc san mang tên Ngày Mùa. Khổ tờ đặc san na ná
như những tờ báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên ngày nay (28x41cm). Tôi được phân công
làm chủ bút. Trần Đức Long và Trần Trọng Chấm làm biên tập. Bài vở thì do các
đoàn viên của toàn Hiệu đoàn góp bút. Tôi đã viết một bài xã luận cho Đặc san.
Bài này được ông Lê Đình Hiên, phó Trưởng ty Giáo dục tỉnh khen một câu làm tôi
rất phấn khởi. Ông xem xong bài xã luận rồi nói: Hồ Chí Minh con! Hồ Chí Minh
con!
Khi tập kết ra Hà Nội, ông tham gia vào Hội
Nhà văn Việt Nam với bút danh là nhà thơ Tân Trà. Tờ Đặc san Ngày Mùa, in tại
“nhà in VIETBANGTAY”, tức là Viết bằng tay, chứ không phải là báo in typo hay
offset như sau này. Viết bài thì dùng mực tím hàng ngày, đựng trong cái lọ thường
mang theo đến trường. Tờ báo cũng có tranh vẽ nhiều màu: màu vàng là củ nghệ,
màu tím là hột mùng tơi chín, màu xanh là lá trầu xanh, màu đỏ và màu xanh nước
biển thì dùng cây bút chì xanh đỏ hai đầu (nhờ mua từ trong thị xã). Trần Đức
Long còn nhớ bức tranh của đặc san vẽ một người cầm cái dao phay rượt đuổi một
người với câu chú thích: “Liệu mà cao chạy xa bay/ Thịt xương chỉ có ngần này
mà thôi. Câu lẩy Kiều này vốn dĩ 2 chữ đầu câu 8 là Ái ân. Và Trần Trọng Chấm
có bài thơ chân dung nói về Xuân Bảo. Tôi không nhớ và cả Chấm cũng không nhớ
toàn bài, chỉ nhớ vài câu “Đôi má phinh phính chứa đầy xã giao”.
Tổ học sinh Thượng Phước hoạt động rất xôm
tụ. Mỗi chúng tôi đều được phân công công tác. Nhóm Thông tin - tuyên truyền,
nhóm dạy Binh dân học vụ, nhóm Canh gác báo động khi có Tây lên càn. Tôi được
phân công vào nhóm Thông tin – tuyên truyền và dạy Bình dân học vụ. Ít lâu sau,
dượng Hứa bố trí cho tôi được làm gia sư. Lớp được đặt tại nhà dượng Hứa và học
trò là các con của dượng và con ông Trần Đình Thứ, có Kế và Thế. Kế đã hy sinh
trong chống Mỹ. Thế hiện sống cùng vợ con, con cháu tại quê nhà và vài đứa nữa.
Sau, lớp học này dời vào nhà thôn đội trưởng Lê Văn Ngữ tại xóm Mộ. Ở đây, có
thêm 3 học trò nữa là Lê Duy Tính, thường gọi tục danh là Oạc, con ông Ngữ và 2
người con của xã đội trưởng Lê Trường Lữ là Lê Thị Trương và Lê Trường Cầu. Tôi
được dạy nửa ngày còn nửa ngày đi học. Gia đình có con học đã cùng nhau góp lúa
trả công cho “thầy”. Tôi còn được phân công sáng tác thơ ca, hò vè phục vụ cho
Đội Tuyên truyền Địch vận làm nhiệm vụ vận động binh lính ngụy phản chiến. Có một
lần, tôi được o Trần Thị Quy, tổ trưởng tổ Địch vận cho đi theo xuống bốt Cầu
Bàu Vịt để hò. Du kích đi theo bảo vệ và có nhiệm vụ đào hầm để người hò nấp. O
Quy mang theo chiếc loa tay làm bằng thiếc (chế từ thùng sắt tây đựng dầu hỏa).
Câu đầu tiên, nói: Hỡi anh em binh lính! Trên chòi cao lô-cốt (hồi này bọn Pháp
chưa xây lô-cốt ngầm), chúng bắn một băng tiểu liên vào tổ hò. Chiếc loa bị vài
lỗ thủng, nhưng người thì không sao. Chỉ huy ra lệnh rút. Đêm hò này coi như thất
bại. Khác với những lần hò trước, lính trong bốt yên lặng lắng nghe. Và sau đó,
có một lính mang súng lên chiến khu. Anh ta nói rằng nghe hò thì lòng xốn xang
lắm, gợi nhớ đến mẹ già, vợ dại với con thơ và da diết nhớ quê nhà. Sau này,
tôi có viết một hồi ức có nhan đề là Nhớ giọng hò o Quý đăng trên tạp chí Văn
nghệ Cửa Việt là để nhớ một giọng hò thướt tha, trữ tình của người con gái
làng Thượng Phước. Tên o Quy được thêm dấu sắc thành Quý.
Có thể nói tổ học sinh Thượng Phước có nhiều
hoạt động xã hội được nhà trường nhiều lần biểu dương và dân làng yêu mến. Tổ
phân chia ra nhiều nhóm và hoạt động có hiệu quả, Những học sinh có tuổi đời từ
17, 18 như tôi và Trần Đức Long, Bùi Hữu Tưởng được kết nạp vào Đoàn Thanh niên
cứu quốc, tiền thân của Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, sau đổi là Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Chúng tôi tham gia vào dân quân du kích. Bùi Hữu
Tưởng xung phong đi bộ đội. Chừng 6 tháng sau thì Tưởng hy sinh trong trận đánh
Chợ Cạn. Năm đó, mặc dù Tưởng mới có 17, 18 tuổi nhưng đã biết yêu. Tưởng viết
một cuốn sách nhỏ nói về mối tình đầu với o Vẹ, người con gái họ Trần, có mái
tóc quăn rất đep. Mấy đứa chúng tôi được lên lớp 7. Nhưng phải lên trường Lê Thế
Hiếu ở Cùa để học.
Tổ học sinh Thượng Phước chỉ có mình tôi
được học bổng. Học bổng mỗi suất là 27 ký lúa. Tôi phải lên Trấm (Kho lúa của
huyện Triệu Phong) để lĩnh.
Trấm là nơi có bến đò dọc để chở người lên
Bơng, lên Chả Cá và chiến khu Ba Lòng. Nhà thơ Lương An có bài thơ Chị lái đò,
được đưa vào sách giáo khoa.
“Đò em lên xuống Ba Lòng
Chở người cán bộ qua vùng chiến khu”…
Có một lần, chúng tôi gánh lúa về đến xóm
Chuối thì nghe tiếng máy bay. Chúng tôi nhìn thấy một chiếc B26 đang bay theo dọc
đường số 1 bỗng nhiên quay ngoắt 90 độ lên Trấm, Chiếc máy bay này chỉ thả bom ở
Trấm rồi quay về. Nhưng chẳng có ai thương tích gì.
Câu chuyện thứ 19.. Giảm tô, giảm
tức ở làng Thượng Phước
Nhân anh Xuân Ba có kể tường tận chuyện
bà Cát Hanh Long (tức Nguyễn Thị Năm) bị xử tử hồi năm 1953 thì ở vùng tiền chiến
khu Ba Lòng –Quảng Trị đã có chuyện đấu tố. Theo Cụ Trần Đức Long thì ở làng
Thượng Phước cũng đã có đấu tố.
Dưới đây là bài viết trong Hồi ký
của Cụ Trần Đức Long – người bạn học thời phổ thông và là bạn đồng tuế của tôi.
Theo Hồi ký của Trần Đức Long, có đoạn: … “Vào khoảng cuối năm 1952, đầu 1953 hay cuối
năm 1953, đầu 1954, tôi không nhớ rõ. Làng Thượng Phước có tổ chức mấy buổi đấu
tố các người giàu có trong làng (lúc đó
làng Thượng Phước chưa có cải cách ruộng đất). Tôi được chứng kiến buổi đấu tố
Mụ giáo Trở, (bà là vợ ông giáo Trở, lúc đó ông giáo Trở đã mất). Bà này là mẹ anh Trần Văn Hối. Anh Hối là cán
bộ giảng dạy ở Đại học Sư phạm Vinh, sau về dạy tại Đại học Sư phạm Huế, đã về
hưu ở Huế.
Anh là Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, người ngoài Đảng. Có lần, ông bí thư Đảng ủy trường nói với anh
rằng: Đồng chí làm đơn xin vào Đảng đi! Đồng chí ở ngoài Đảng rất khó cho công
tác Đảng của trường.(?!).
Buổi đấu tố do anh Tôn (họ Lê) làm chủ tọa.Anh Lê Trường
Tôn là cán bộ cốt cán. Anh Tôn từng là
trai cày (thợ cày) của gia đình ông nội tôi.Ai là người chỉ đạo đấu tố thì tôi
không rõ Người ta bắt Mụ giáo Trở quỳ xuống đất để mọi người lên đấu tố, tức kể
tội ác của Mụ và gia đình ông giáo Trở…Tôi chỉ nhớ có thế thôi, không nhớ ai
lên đấu tố và họ đấu tố những gì.
Ngoài Mụ giáo Trở, ông Hương Đồ và ông Hương Y cũng bị
đấu tố như trên. Đặc biệt ông Hương Đồ là người có con đi tham gia quân đội từ
từ đầu cuộc kháng chiến 9 năm. Trong một buổi nói chuyện với anh Lê Ngọc Châu,
con trai ông Hương Đồ - anh kể lại cho tôi nghe chuyện đấu tố đó. Ông Hương Đồ
có mấy người con trai đi bộ đội từ đầu kháng chiến 9 năm và một số người con
tham gia kháng chiến ở địa phương. Anh Lưu đi bộ đội từ tháng 8 năm 1945, về
hưu hàm đại tá ở Sài Gòn (đã mất). Anh Quỳnh đi bộ đội địa phương (Tỉnh đội) từ
năm 1946 hay 1947 gì đó. Anh Bích cũng vào công tác ở Văn phòng Tỉnh đội. Anh Lữ
tham gia bộ đội địa phương huyện. Chị Yêm tham gia kháng chiến ở xã. Thế mà người
ta vẫn đem ra đấu tố. Không hiểu vì sao họ lại đối xử tệ với gia đình ông Hương
Đồ như vậy? Một gia đình có nhiều người đi tham gia kháng chiến ngay từ đầu???!!!
Qua chuyện này và qua sách báo nói về cải cách ruộng đất
ở miền bắc, tôi có biết bà địa chủ Năm ở Thái Nguyên có con đi bộ đội từ đầu
kháng chiến vẫn bị đem ra đấu tố rồi bị xử bắn tại chỗ.
Cuối năm 2015 hay đầu năm 2016, nghe Đài Truyền hình
baó tin có cuộc triển lãm về cải cách ruộng đất, tôi chưa kịp đi xem thì nghe
nói đã đóng cửa. Không biết ai chủ trương triển lãm CCRĐ là nhằm mục đích gì?
Đành rằng CCRĐ có thắng lợi là người cày có ruộng, nhưng đau thương mất mát còn
nặng nề và nhiều hơn.
Thời gian công tác ở Vinh - Nghệ An, tôi cũng được cho
đi dự các cuộc đấu tố. Cấp trên chỉ thị cho các cơ quan cho cán bộ nghỉ việc để
đi dự các cuộc đấu tố để nâng cao lòng căm thù và lập trường giai cấp vô sản…”
( Trích từ trang 103 đến trang 104 bàn thảo Hồi ký Trần Đức Long).
Tác
giả, nhà thơ Xuân Bảo không có “vinh dự” được tham
gia đấu tố ở làng nên không biết những sự kiện xảy ra trong thời gian này!
Bài viết này đã tuyển vào tập sách Những chuyện nhỏ làng quê và đã đăng trên Fb của tôi, nay đăng lại.
Bên bờ Phước Long Giang, ngày 22/5/2021.
Nhà thơ Xuân Bảo.
Câu chuyện thứ 20. Về bài
thơ Em nữ cứu thương người Pháp.
Thời 9 năm, làng ngoại của tôi là miền tiền chiến khu (Chiến khu Ba
Lòng). Tuy ở gần đồn bốt của giăc Pháp, nhưng chính quyền vẫn thuộc về cách mạng.
Mọi sinh hoạt của các đoàn thể như Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Đội Thiếu nhi Cứu
quốc, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Mẹ Chiến sĩ…vẫn diễn ra bình thường. Riêng
chi bộ cộng sản thì hoạt động bí mật.
Nhà của Mạ tôi bị Tây đốt đến lần thứ 2.
Nhưng như người Quảng Trị thường nói “rộng bụng hơn rộng nhà”, cho nên các ông,
các chú trong các cơ quan của tỉnh như Tỉnh đội Dân quân, Ty Thông tin – Tuyên
truyền, Ty Giáo dục, Ty Bình dân học vụ…mỗi khi về Thượng Phước đều đóng trong
nhà dân.
Nhà Mạ tôi thường được các bác trong Tỉnh
Đội bộ Dân quân nghỉ lại. Do đó, tôi được biết bác Hồ Sĩ Thản, Tỉnh đội trưởng
Dân quân, cậu Nguyễn Thành Chương, ban Chính trị Tỉnh đội, cậu Lê Thế Diện, tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn 230, bộ đội đia phương. Sở dĩ tôi gọi cậu Chương, cậu Diện
bằng cậu vì Mạ tôi nhận các cậu là em nuôi.
Tôi có người bạn tên Trần Đức Long, học
cùng lớp chơi với nhau rất thân. Nhà Long rộng, nên mỗi khi có các chú, các bác
về ở lại, chúng tôi được các chú trong Ban Văn nghệ dạy hát, dạy ngâm thơ, độc
tấu, nói vè v.v…có khi dạy cả khiêu vũ. Bài hát Xuân chết trong lòng tôi của Hoàng Thi Thơ, chúng tôi đều thuộc và
hát rất say sưa.
Thì ra Phúc Khê chính là tên hiệu
của tác giả Phúc Khê thi tập, tên thật là Hoàng Hữu Kiệt (1885-1951)
tự Châu Thần, đỗ cử nhân năm 1915, đang làm tri huyện, thừa hành trái
ý quan trên, bị buộc thôi chức về ở ẩn tại miền sơn cước An Đôn, lập
trang trại ở Khe Bội. Ông là em ông nội nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
người làng Bích Khê. Cái làng Bích Khê này có hai dòng họ lớn: họ
Đỗ và họ Hoàng. Họ Hoàng thời nào cũng có nhiều người đỗ đạt,
làm quan. Làng này là quê hương nữ chiến sĩ cộng sản Hoàng Thị Ái
và của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ nổi tiếng một thời. Trong những năm
đánh Pháp Hoàng Thi Thơ (tên thật là Hoàng Hữu Ngạnh) được cho ra
vùng tự do Thanh – Nghệ – Tĩnh học và công tác. Ở đây chàng trai hào
hoa này đã yêu người con gái cùng quê, học cùng trường, con một nhà
tư sản dân tộc, một thương nhân lớn tên là Trương Công Huy, người làng
Mai Xá, Do Linh, Quảng Trị. Người con gái đó có giọng hát tuyệt vời,
khi hát bài Xa Khơi của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ đã làm rung động
biết bao trái tim trong thời chống
Mỹ. Đó chính là nghệ sĩ nhân dân Tân Nhân.
Trận Nam Đông, lính Pháp và lính lê
dương chết rất nhiều. Nhưng tối đến khi cọp ra “tìm mồi” thì chỉ ăn
xác lính bảo hoàng người Việt mà thôi. Người ta đồn rằng chúng chê
thịt Tây đen, Tây trắng hôi nên không ăn. Trận này, sau đó nhà thơ Văn
Tôn (tức Hải Bằng) viết bài thơ “Em nữ cứu thương người Pháp” và bị
đì khá lâu. Bài thơ có câu:
…Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ
Thấy xác em
nằm giữa cỏ tranh…
Anh đắp cho
em mền trấn thủ
Còn đâu nhìn
thấy mắt xanh xanh
Trong một đêm liên hoan mừng thắng trận, tổ chức tại
Trấm, người được giới thiệu lên diễn ngâm bài thơ tên là Lê Cháu. Kết thúc bài
thơ là những tràng pháo tay rất dài. Ông Lê Bá Vận, trung đoàn trưởng 95 lên
sân khấu và có vài câu phát biểu. Ông nói: Em, em cái con c… và bị ông nhận
xét là: “Mất lập trường, thương không đúng chỗ, khóc chẳng nhằm nơi”.
Bài thơ này được đưa ra
mổ xẻ tại Hội nghị Văn nghệ 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên năm 1952 tại Cùa (Cam Lộ) do nhà thơ Chế Lan Viên trình bày báo
cáo. Phần chủ yếu là qua phân tích một số tác phẩm “Để nâng cao lập
trường giai cấp, xác định rõ bạn thù, tăng cường tính chiến đấu
trong sáng tác”.
Bài “Em nữ cứu thương người Pháp” và bài thơ “Người Bố Trạch”
của Nguyễn Xuân Hoàng cũng được mang ra phân tích, phê phán, trong đó
có những câu:
Bố Trạch huyện nghèo
đất đỏ
Dưới chân Ba Rền thăm
thẳm mịt mờ xanh…
Tại Hội nghị này, bài hát “Lời người ra đi” của nhạc sĩ Trần
Hoàn cũng được đưa ra phân tích và sau đó không thấy xuất hiện nữa.
Về bài hát này, lũ trẻ chúng tôi ngày đó cũng nghêu ngao hát và
được người huynh trưởng Đội Thiếu niên cứu quốc Lê Ngọc Ngoãn rèn cho
một mẻ nên thân.
Câu chuyện thứ 21. Ôn dịch năm Ất Dậu - 1945
Cả Phường Sãi và làng Thượng Phước người ta
nuôi tới hàng ngàn con bò và trâu, cho nên phải dành ra một con đường
cho chúng đi. Chúng được đi riêng, thường gọi là kiệt trâu bò đi. Cái
kiệt dành cho trâu bò đi bắt đầu từ đầu đường xe, (đường dùng xe hoặc
trâu kéo gỗ từ rừng ra) phía biền Đù Đù đến bến Mè Xèng thì ra bãi
cát.
Đoạn sông này, phía bên kia là bên lở có
làng Như Lệ thuộc phủ Hải Lăng. Vào trong một đoạn là nhà thờ Công giáo Phước
Môn do Ngài Quận công Nguyễn Hữu Bài gầy dựng.
Trâu bò suốt ngày gặm cỏ trong các
trảng, hác, độộng được lùa về khi chiều tối. Có cái hay là đến khúc
nhà người nào thì đàn bò rẽ xuống sông đoạn đó uống nước, trâu thì
đằm tắm thoải mái rồi theo con đường quen thuộc về ràn (chuồng) của
mình, không bao giờ lộn đường, nhầm chuồng.
Bãi cát sông Thạch Hãn chạy dài từ
Mè Xèng đến Cồn Kết. Chiều về, hàng ngàn con trâu bò chạy rầm rập về chuồng
theo kiệt trâu bò đi. Những lúc đó dân Phường Sãi có 2 kiệt xuống rào Thạch
Hãn, nhưng không ai dám xuống sông để tắm táp hoặc gánh nước.
Cái kiệt này cũng đã đi vào lịch sử.
Đó là việc dân hai làng Thượng Phước và Như Lệ chặn bắt tên tri phủ
Triệu Phong Trần Mậu Trinh trong những ngày đầu khởi nghĩa Tháng Tám.
Và cũng tại cái kiệt này, khi Nhật làm đảo chính Pháp (ngày 9
tháng 3 năm 1945), bọn Phú - lang - sa chuồn khỏi thị xã Quảng Trị
chạy lên núi thoát thân. Chúng đã chui qua cái kiệt này. Dân làng
biết nhưng mặc kệ vì lúc đó phương tiện truyền thông chưa như bây giờ,
dân vẫn tưởng còn bọn Pháp cai trị!
ĐẠI ÔN DỊCH GIA SÚC
Năm đói Ất Dậu 1945, đàn trâu của ông mệ bị
dịch chết và còn đúng một con trâu và một con bò. Ông đã tước vỏ cây
sầu đâu để sắc cho trâu uống, thế mà cũng qua được, khỏi bệnh mới
tài! Còn bò thì chết như ngả rạ, chết trong chuồng, chết trên đường,
chết trong độộng.
Con
bò duy nhất sống sót được ông bán cho ông Trần Đăng Mai. Ông tôi không
muốn bán, vì cả đàn hơn trăm con bị dịch không cứu vãn được, huống
hồ…
Bọn trẻ chúng tôi nghe ông Mai nói
chuyện với ông tôi từ sáng cho tới gần trưa. Ông ta nói như bẻ lẻ,
tức là người nói nhiều, nói dai và rồi cuối cùng ông cũng mua được
để về giết thịt? Ông ta làm nghề đồ tể. Sau này con gái của ông tên
Trần Thị Lựu lấy em ruột của tôi – Nguyễn Xuân Bổng.
Dòng họ Trần làng Thượng Phước có đến 4
nhánh: Trần Văn, Trần Đức, Trần Đình và Trần Đăng. Chẳng hiểu vì sao các nhánh
và họ tộc Trần không cho nhánh Trần Đăng tham gia việc họ??? Nhưng rồi sau 1945
thì người ta lại chung lưng đấu cật để tham gia kháng chiến chống Pháp. Hận thù
xưa cũng tan đi theo thời gian!!!
Có lần, tôi được nghe ông ngoại kể. Trong
những ngày đêm đại dịch. Ban đêm ông nghe thấy đoàn quân ôn dịch kéo nhau đi
trên không trung nghe ầm ầm. Chúng đi đến đâu trâu bò lăn ra chết đến đó.
Không biết chuyện có thật hay không, nhưng
những đưa trẻ chúng tôi thì tin, Cho nên khi đêm xuống chúng tôi rất sợ phải ra
khỏi nhà!
Câu chuyện thứ 22. Chú Mõ Hồ Văn Ốm.
Thượng Phúc ( vì kiêng húy chữ Phúc
của chúa Nguyễn nên gọi là Thượng Phước. Đây là ngôi làng được chúa Nguyễn
Hoàng di dân từ khi Chúa trấn nhậm Đàng Trong vào năm 1558.
Thượng Phước cùng với hai làng Thượng Trạch
và Thượng Nghĩa cùng một ông Tổ cho nên cả ba làng đều giỗ chung một ngày là
ngày Rằm tháng Ba âm lịch. Lễ hội làng Thượng Phước là lễ hội săn bắt thú rừng
truyền thống để nhớ về Ngài Tiền khai Võ Nguyên Hùng Dõng tặng Hùng Quốc Công –
người đã có công truyền nghề săn bắt thú rừng để bảo vệ mùa màng, thể hiện sức
mạnh đoàn kết của cộng đồng.
Thượng Phước có nhiều họ tộc: Trần,
Lê, Nguyễn, Bùi...Cho đến khi tôi được Ba Mạ cho về quê ngoại Phường Sãi – một
phường của làng Xuân Yên lập thành – nằm lọt thỏm giữa làng Thượng Phước.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp thì tôi được
biết Thượng Phước chỉ có duy nhất một hộ mang họ Hồ, có tên là Hồ Văn Ốm.
Chú
Hồ Văn Ốm được ông lý trưởng họ Bùi tên là Bùi Hữu Đạt cho làm Mõ hay còn gọi
là anh Seo, anh Xâu. Chú Ốm không có nhà ở trong làng mà chỉ được
ở bên Xóm Mộ, cũng là đất đai của làng Thượng Phước, nhưng chỉ có đất đôộng,
không có ruộng nước và cũng có nhiều dân ngụ cư tới ở?!
Có
lần, tôi chạy theo chú khi chú đi rao việc làng. Tôi còn nhớ chú rao câu này bằng
cái loa làm bằng mo nang của tre lồ ồ: Ban đầu chú đánh một hồi mõ dài, rồi sau
thêm mấy tiếng cóc,cóc cóc rồi chú kề miệng vào đầu nhỏ của cái loa và rao:
Loa, loa, loa ! Nghe đây nghe đây ! Ới dân làng côi xóm đưới ! Ới quan viên, chức
sắc: Túi ni ra đình để nghe quan phủ về chỉ dụ!
Tôi
thấy cái mỏ cong cong như cái sừng trâu. Tôi tò mò hỏi chú: cái mỏ ni làm bằng
cấy chi? Chú nói rằng: Mõ ni mần bằng gộộc tre tra. Nó khác với mõ trâu hay mõ
nhà chùa làm bằng gỗ.
Sau
này tôi mới ngộ ra cái bài thơ Vịnh Thằng Mõ của Chủ súy Tao đàn nhị thập bát
tú Lê Thánh Tôn:
Mõ này
cả tiếng lại dài hơi,
Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi!
Mộc đạc vang lừng trong bốn cõi,
Kim thanh chuyển động khắp đôi nơi.
Trẻ già chốn chốn đều nghe hiệu,
Làng nước ai ai cũng cứ lời.
Thứ bậc dưới trên quyền cắt đặt,
Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi.
Theo sách Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng
của Nha Học chính Đông Pháp đã giao cho các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc.Đặng
Đình Phúc và Đỗ Thận biên soạn.
Phần giải nghĩa thì Mộc đạc là cái mõ gỗ.
Trong sách này không đề tên tác giả mà chỉ
đề là thơ cổ.
Bản chất nghề mõ là đưa tin . Trước đây mõ
bị khinh rẻ, không có ruộng để canh tác, chỗ ở được làng cấp cho mảnh đất gần
bãi tha ma cuối làng, thậm chí không nằm trong thứ bậc làng xã.
Chỉ có dân ngụ cư từ nơi khác tha phương cầu
thực. Hết đời cha thì đến đời con thay nhau làm mõ. Chỉ đến khi nào làm mõ 3 đời
thì mới có cơ hội đổi đời.
Vì phải làm mõ lâu năm, đi hầu hạ giúp cỗ
cho cả làng mà nhiều khi trình độ băm thịt gà đạt đến mức thượng thừa, một con
gà 1 người ăn cố mới hết được chặt làm 92 miếng đều tăm tắp, xương liền thịt,
thịt liền da, đầu gà được chặt làm 5 miếng, miếng nào cũng dính 1 tý mỏ và mào
( Nghệ thuật băm thịt gà - Ngô Tất Tố) .
Sau 1945, chú Ốm được ông thôn đội trưởng
bố trí làm thông tin liên lạc của làng, Đến khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ
và Quảng Trị bị chiếm đóng (tháng 2 năm 1947), rất nhiều người dân tản cư lên
chiến khu Ba Lòng và nhiều nơi khác.
Gia đình chú Hồ Văn Ốm cũng rời làng đi
đâu không rõ? !
Bên bờ Phước Long Giang, sáng ngày 29/5/2021
Nhà thơ Xuân Bảo.
Thằng
Mõ Bắc kỳ thời trước
Bên
bờ Phước Long Giang, sáng ngày 29/5/2021
Nhà thơ Xuân Bảo.
Câu
chuyện thứ 23. Ông Thợ Trì người làm vè và nói vè nổi tiếng
Cụ Nguyễn Văn Tề là con cụ
Nguyễn Văn Dinh và bà Lê Thị Kiều (trắc thất) có những người con là
ông Nguyễn Văn Trì (còn gọi là ông thợ Trì) làm nghề may quần áo may
bằng khâu tay. Ông là tay thợ giỏi, may rất đẹp nên được bà con tín
nhiệm. Ông còn là một nhà làm vè nổi tiếng cả tổng. Trong làng,
trong tổng có chuyện gì xảy ra thì chỉ từ sáng đến chiều là có
thơ, có vè ngay, thường là vè, thơ châm biếm. Vè của ông động chạm
đến những tay cường hào, hách dịch và những phú hộ, trọc phú hợm
của, khinh người. Ông đả kích những thói hư tật xấu của con người.
Ông còn có tài kể chuyện vè và giọng của ông rất hay, rất hấp dẫn
nên không những trẻ con mà cả người lớn cũng thích. Mỗi khi ông ngân
nga kể vè thì có hàng chục người đứng vòng trong vòng ngoài nghe
một cách chăm chú và có nhiều người thuộc vè của ông. Có thể nói
ông là một nhà thơ dân gian, chuyên làm thơ trào phúng. Rất tiếc là
những bài vè, bài thơ của ông chỉ được truyền khẩu cho nên hiện nay coi
như thất tán hoàn toàn.
Tuy nhiên, ông vẫn rất
nghèo đến nỗi một mảnh nương nho nhỏ, hơn sào, đã phải cắt đi một
phần ba, bán lại cho ông Nguyễn Văn Xuân. Người con đầu của ông có tên
là Nguyễn Văn Loan cũng đi ở chăn trâu cho ông Xuân. Cách mạng về, ông
Loan đi bộ đội và đến khi Hiệp định Geneve được ký kết thì tập kết
ra Bắc, lấy vợ người Vĩnh Linh, gần giới tuyến quân sự tạm thời.
Hiện nay người cháu nội của ông thợ Trì tên là Nguyễn Văn Lực vẫn
sống trên mảnh nương đó, làm nghề đóng gạch táp -lô.
Người em kế ông thợ
Trì tên là Nguyễn Văn Thanh (còn gọi là ông Con) ở sát nương người em
út là ông Dần. Hiện nay những người con Ông Con tản mác, không có ai
ở lại Phường Sãi. Ông Nguyễn Văn Hiếu ở tận tỉnh KonTum, đã gần 80
tuổi thường về việc họ, tết nhất, giỗ chạp. Ông là người rất có
tình, có nghĩa với cố hương. Và người cháu tên Nguyễn Tăng, con ông
Hiếu, sống ở Tánh Linh (Bình Thuận) cũng thường về quê trong những
ngày giỗ chạp.
Ông Nguyễn Văn Dần, thường hay gọi theo tên con, gọi là ông Đuổi
(tên tục ông Thiều) ở sát nương. Ông Dần sinh được hai người con trai.
Người con cả tên là Nguyễn Hồng Thiều, trước đi ở cho địa chủ làng
Thượng Phước. Ông đã từng nhai cơm trún vào nồi cá kho để chủ nhà
tưởng lầm mèo mửa đem cho người làm ăn.
Thời đi ở có lần ông giả vờ điên để có
thể chửi bới địa chủ mà không bị bắt tội. Cách mạng về ông đi bộ
đội và tập kết ra Bắc, lấy vợ người Quảng Bình, sinh được bốn
người con. Ông Nguyễn Văn Quýnh, em ông Thiều, lấy vợ họ Phan, người
làng An Đôn. Ông Quýnh có tất cả là 10 người con. Hiện nay ở tỉnh
Khánh Hòa. Người em gái tên là Nguyễn Thị Cầm thì lấy một người tên
Trần Đức Hứa ở làng Thượng Phước. Còn cô em út là Nguyễn Thị Huệ,
lấy chồng ở làng An Đôn.
Bên
bờ Phước Long Giang, sáng ngày Tết Thiếu nhi 01/6/2021
Nhà thơ Xuân Bảo.
Câu
chuyện thứ 24. Quan làng
Giữa làng Thượng Phước - một
cái làng sầm uất, có đến hàng chục nhà ngói gỗ mít có chiều dài
hàng chục cây số từ cuối làng An Đôn lên đến Trấm lại mọc lên cái
ấp Xuân Sơn gồm mấy gia đình họ Nguyễn Văn từ Đông Bích vào. Mọi sinh
hoạt đều phụ thuộc vào bộ máy hành chính của làng Xuân An.
Cứ đến sau Tết Nguyên Đán hàng năm,
có một đoàn hương hào, lý dịch làng Xuân An đi đò dọc cập bến Phường
Sãi. Họ ăn mặc chỉnh tề, đi đứng đạo mạo, áo lương đen, quần vải
quyến trắng, dận giầy Gia Định, đầu đội khăn đóng (xếp), cặp dù ở
nách hoặc che trên đầu. Họ ăn nói thưa gửi đàng hoàng, lịch lãm.
Đúng là các quan cai trị cấp thấp nhất của cái thời phong kiến. Họ
đến Phường Sãi để thu thuế đinh, thuế điền và các khoản lao dịch
khác.
Xong việc quan, một bữa tiệc
linh đình được dọn ra. Có rượu Sica, một loại rượu gạo do nhà nước
Đại Pháp quản lý thời còn mồ ma thực dân. Hiện nay tại làng Kim Long
(Hải Lăng) có xây lên một nhà máy rượu để giữ lại cái thương hiệu
nổi tiếng rượu Kim Long mà bọn Pháp đã chiếm độc quyền khai thác.
Đó là rượu SICA. SICA là chữ viết tắt của Société Industrièlle
Compagnie d’ Alcool. Không hiểu vì lý do gì mà những người xây dựng nhà
máy rượu này viết thành Xica và lắp một cái be rượu hình quả bầu
eo treo lơ lửng phía cổng.
Thời Pháp thuộc, người dân không được nấu rượu. Ai nấu rượu
lậu mà bị nhà đoan tóm được thì chỉ có đi tù là cầm chắc. Không
như bây giờ nhà nhà nấu rượu, người người nấu rượu. Ngon có, dở có,
độc tố trong rượu làm chết người cũng có. Sướng thật!
Bữa
tiệc ông ngoại thết đãi các vị quan làng có đủ món gia súc: bò heo,
gia cầm: gà vịt và độc đáo hơn là có cả thịt rừng. Chú Đáo, quê
làng Lâm Thủy, người giúp việc cho ông mệ, từ mấy ngày trước đã xua
bầy chó săn vào hác Sủng Moong, độộng Cầu Đất hoặc xa hơn là Khe
Quao, Độộng Thọt…, để bắt về những con chồn, con nhím, con thỏ, có
khi được cả heo rừng con để làm tiệc khoản đãi các vị chức sắc
làng Xuân An. Cho đến ba bốn giờ chiều tiệc tàn. Chiếc rương đã đầy
tiền kẽm, tiền chinh (sau này mới có bạc giấy Đông Dương), họ lại
đủng đỉnh tay cầm quạt phe phẩy, miệng ngậm cái tăm tre của vườn nhà
tự vót lấy. Họ lên chiếc đò có mui che trở về Xuân An. Xuôi dòng,
thuyền lướt trôi nhanh, chợp tối đã về đến bến làng.
Lời
bình thêm: Tôi nhớ hồi nhỏ học phổ thông tôi thường được nghe mấy từ sau: Dưới thời phong kiến thực dân thối nát. Như mấy ông quan làng Xuân An này ở vào thời kỳ nước ta vừa chế độ
phong kiến lại bị bọn Tây đô hộ thì tôi chẳng thấy họ thối nát tý nào.
Bên
bờ Phước Long Giang, trưa ngày 21 tháng Tư năm Tân Sửu
Nhằm
ngày 1 thâng năm 2021
Nhà thơ Xuân Bảo
Câu chuyện thứ 25. Ngoại
ngữ Quảng Trị
Quảng Trị, quê tôi thì có cách nói mà như anh
bí thơ tỉnh trước đây khi ở tỉnh khác mới về, ông ta cho rằng tiếng Quảng Trị
là một ngoại ngữ. Thực ra đây là địa phương ngữ. Thí dụ câu thơ mà nhà thơ Hoa
Dại đã viết trong một bài thơ dài, viết toàn giọng Quảng Trị của tôi:
“Có
một ôông đưa về mần bí thơ quê miềng.Ôông mần được nửa mùa, rồi ông rút.Ôông nớ
nói rằng tiếng Quảng Trị là một ngoại ngữ.Vì vậy ôông nớ xin đi nơi khác. Ai có
dớ người đó là ai không hý?”
Fb
Hoa Dại viết:
Trước khi đọc yêu cầu bạn
phải có bằng C tiếng Quảng Trị hoặc A1 tiếng miền trung.
Sao không dịch ra tiếng phổ thông để mọi người hiểu?
Vậy thì Xuân Bảo này xin dịch :
Ai
Quảng Trị mí hiểu hí.
Diễn dịch: Ai người Quảng
Trị mới hiểu nhé
Ngó
trộ mưa rào, út lại dớ quê,
Diễn dịch: Thấy trận mưa rào, Út lại
nhớ quê
Bảy
tám năm ni, út chưa về Quảng Trị,
Diễn dịch: Bảy tám năm nay,Út chưa về Quảng Trị
Dớ
mạ, dớ ba, dớ eng, dớ chị,
Diễn dịch: Nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ
anh, nhớ chị
Mới
nghị rứa thôi, nác mắt chảy dài,
Diễn dịch: Mới nghĩ thế thôi, nước
mắt chảy dài
Dớ
ngày mùa, sương ló trẹo cả bai.
Diễn dịch: Nhớ ngày mùa,gánh lúa sụn
cả vai
Sáng
đi mót khoai, chiều đi mò ốốc
Diễn dịch; Sáng đi mót khoai, chiều
đi mò ốc
Nỏ
mũ nón chi, nắng e nẻ trốốc,
Diễn dịch: Không mũ nón chi, nắng e nứt trốc
Dọọc
thì dọọc mà bui quái eng hè?
Diễn dịch: Nhọc thì nhọc mà vui
quá anh hè
Cả
dà miềng chỉ có một cấy xe.
Diễn dịch: Cả nhà mình chỉ có một
cái xe
Ngày
mô cũng nghe, mạ kêu lủng lốp.
Diễn dịch: Ngày nào cũng nghe, mẹ kêu thủng lốp
Ba
lại soạn ra bốn năm cấy hộp.
Diễn dịch: Cha lại soạn ra bốn năm cái hộp...
Cạy
lốp ra, rồi bá chịt bá chằng.
Diễn dịch: Cạy lốp ra rồi vá chịt
vá chằng
Dớ
mỗi lần soạn chén đọi dọn ăn.
Diễn dịch: Nhớ mỗi lần soạn chén bát
dọn ăn
Chộ
nồi cơm, sắn hấp đằn trặt cứng.
Dịch: Thấy nồi cơm, sắn hấp đè chặt
cứng
Mạ
đi mần rọọng, lặt mô về cấy trớớng.
Diễn dich:. Mẹ đi làm ruộng, nhặt
đâu về cái trứng
Lọọc
vội lọọc vàng, chế nác mắm chắm rau.
Dịch: Luộc vội, luộc vàng chế nước
mắm chấm rau
Eng
thì ưng ceng chứa nấu cá tràu
Diễn dịch:Anh thì thích canh chua
nấu cá tràu
Chị
thì ưng nấu canh rau bù lột.?
Diễn dịch: Chị thì ưng nấu canh
rau ngót
Dớ
có bựa đang ăn thì mưa, dà dột.
Diễn dịch: Nhớ có bữa đang ăn thì mưa, nhà dột
Mấy
eng tam bơơng thau hớớng khắp dà.
Dịch: Mấy anh em bưng thau hứng khắp
nhà
Dớ
cấy ngày út đi lấy dôông xa.
Diễn dịch: Nhớ cái ngày Út đi lấy
chồng xa
Eng
chị chạy ra cuối đàng để tiễn.
Diễn dịch:Anh chị chạy ra cuối đường
để tiễn
Út
nghị vài bựa chắc đi về cũng tiện
Diễn dịch: Út nghĩ vài bữa chắc đi
về cũng tiện
Có
ngờ mô, biền biệt tới hôm ni.
Diễn dịch: Có ngờ đâu, biền biệt tới
hôm nay
Ngó
trộ mưa rào, út lại dớ quái đi..
Diễn dịch: Thấy trận mưa rào, Út lại
nhớ quá đi.
(Mới lượm)
Toàn văn bài thơ đã được nhà thơ
Xuân Bảo dịch:
Ai người Quảng Trị mới hiểu nhé!
Thấy
trận mưa rào, Út lại nhớ quê
Bảy
tám năm nay, Út chưa về Quảng Trị
Nhớ
mẹ, nhớ cha, nhớ anh, nhớ chị
Mới
nghĩ thế thôi, nước mắt chảy dài
.
Nhớ
ngày mùa, gánh lúa sụn cả vai
Sáng
đi mót khoai, chiều đi mò ốc
Không
mũ nón chi, nắng e nứt trốc
Nhọc
thì nhọc mà vui quá anh hè!
Cả
nhà mình chỉ có một cái xe
Ngày
nào cũng nghe, mẹ kêu thủng lốp
Cha
lại soạn ra bốn năm cái hộp...
Cạy
lốp ra rồi vá chịt vá chằng
Nhớ
mỗi lần soạn chén bát dọn ăn
Thấy
nồi cơm, sắn hấp đè chặt cứng
Mẹ
đi làm ruộng, nhặt đâu về cái trứng
Luộc
vội, luộc vàng chế nước mắm chấm rau
Anh
thì thích canh chua nấu cá tràu
Chị
thì ưng nấu canh rau bù ngót
Nhớ
có bữa đang ăn thì mưa, nhà dột
Mấy
anh em bưng thau hứng khắp nhà
Nhớ
cái ngày Út đi lấy chồng xa.
Anh
chị chạy ra cuối đường để tiễn
Út
nghĩ vài bữa chắc đi về cũng tiện
Có
ngờ đâu, biền biệt tới hôm nay
Thấy
trận mưa rào, Út lại nhớ quá đi.
Hoa Dại Mới lượm.
Để tặng Đồng hương Quảng Trị, nhân
này họp mặt đầu năm Tân Sửu -17/1/2021.
Nhà thơ Xuân Bảo, người làng Đại
Hào, xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong, Quảng Trị.
Câu
chuyện thư 25. Rắn trả thù
Ở thế kỷ trước khi Minh Hải còn là một tỉnh,
ông Đặng Thành Học làm bí thư, ông Út Nghệ, tức nhà văn Nguyễn Hải Tùng, làm
phó chủ tịch tỉnh, tôi được mời về dự hội nghị HĐND xã Đất Mới.
Đây là chuyến đi mang nhiểu bổ ích
cho cuộc đời làm báo của tôi. Tôi đã viết được cái Ký Đường về Đất Mũi và cái
Phóng sự Giàu lên nhờ trồn nấm rơm.
Anh Út Nghệ đã dẫn đoàn nhà báo
chúng tôi, có cả cố nhà báo Trần Mộng Cẩn, cộng tác viên chính của báo Công an
Nhân dân cùng đi về xã Đất Mới
Tư
liệu.
1.
3 giọt máu rắn ở làng Nhị Khê Nguyễn Trãi.
2.
Mãng xà vương ở vủng U Minh – Cà Mau
3.
Rắn là con vật lớn thứ 3 trong “nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng
(rắn to mắc kẹt ở cầu Bạch Hổ ,lụt năm Thìn – 1952
4.
Phường Sãi có nhiều loại rắn,trong đó có rắn học trò.
Chỉ biết rằng khi trôi về đến cầu
Bạch Hổ thì đám cây rừng bị mắc kẹt, không trôi qua được mấy trụ cầu. Người dân
phát hiện trong đám lá rừng đó có một con rắn khổng lồ. Được tin, tên quan hai
chỉ huy đồn Kim Long cho bố trí mấy khẩu đại liên cả hai bờ bắc và bờ nam, rồi
cho xả súng vào chỗ có con rắn. Chuyện có thật hay không thì tôi không được biết
tường tận mà chỉ nghe thiên hạ đồn thổi mà thôi.Nhưng chuyện rắn to (mãng xà
vương) thì miệt rừng U Minh có rất nhiều. Trừ những chuyện vui Bác Ba Phi kể,
không mấy đáng tin thì vẫn có những con rắn thật mà người dân đã từng chứng kiến.
Bác Ba Phi - một kỳ lão xứ U Minh vốn nổi tiếng
về tài nói khoác, có đoạn viết: “Hồi xưa trong rừng U Minh Hạ có những con rắn
hổ mây khổng lồ không biết sống từ thời nào, chỉ biết khi nó say mồi nằm ngủ
trong rừng, mấy ông thợ săn len lén tới ôm thử thì chu vi vòng bụng hết ba vòng
tay người lớn. Con rắn giật mình thức dậy, đầu cất cao khỏi ngọn cây rừng, há
miệng toang hoác khiến chim chóc tưởng thân cây nên đậu trên đầu và làm tổ trong
miệng, bị nuốt chửng”.Những bậc cao niên ở U Minh Hạ cam đoan rằng nơi đây
chính là vương quốc bất khả xâm phạm của loài rắn hổ mây khổng lồ, loài vật được
tôn là "mãng xà vương" của rừng U Minh đã truyền tụng qua hàng trăm
năm. Những người từng gắn bó lâu năm dưới tán rừng tràm U Minh Hạ cũng quả quyết
rằng nếu trừ đi những phần thêm mắm dặm muối của bác Ba Phi thì câu chuyện về
những con rắn hổ mây khổng lồ của rừng U Minh là hoàn toàn có thật.
Tìm gặp ông
Ba Dương, người sống tại rừng U Minh Hạ này nhiều năm, ông cho biết, loại rắn
khổng lồ trong rừng này thuộc giống hổ mây, từ lâu đã được người dân xem như một
vị chúa tể của cả khu rừng. Mặc dù to lớn và đáng sợ như thế nhưng mãng xà
vương ít khi xâm phạm đến con người, “rắn ăn tất cả các loại thú rừng nhưng tuyệt
đối không ăn thịt người”, ông Ba khẳng định. Cả đời mình, ông chưa từng nghe thấy
có trường hợp rắn chúa vô cớ tự nhiên tấn công hay ăn thịt người bao giờ, dù
cho đói bụng.