Nhân Tháng Đại lễ Vu lan Báo hiếu Quý
Tỵ, tôi đăng bài Văn ai Khóc Mẹ để tưởng niệm về Người Mẹ kính yêu- Cụ Bà Nguyễn Thị Kim Dung- sinh ngày 20
tháng Giêng năm Bính Thìn, nhằm ngày…tháng…nắm 1916, tạ thế ngày 22
tháng Giêng năm Mậu Tý, nhằm ngày 28 tháng 2 năm 2008,hưởng thọ 93
tuổi và 2 ngày.
Văn
ai khóc Mẹ
Hỡi ôi!
Hoàng
thiên đặt để
Luật
Trời khắt khe
Trăm
năm dâu bể
Một
cõi đi về
Hôm
nao còn nơi dương thế
Mà
nay đã phải chia lìa
Khóc
Mẹ muôn vàn giọt lệ
Đưa
Người một áng Văn ai
Nhớ
Mẹ xưa!
Con
dòng thế phiệt
Thuộc
hàng Nho gia
Này,
Thạch Hãn Giang đôi bờ xanh ngắt
Nọ,
Mai Lĩnh Sơn một ngọn uy nghi
Ông
ngoại hành nghề thầy thuốc
Bà
thời nội trợ tề gia
Hai
Cậu nên diêu nên tước
Bốn
Dì gia thất yên bề
Thuở thiếu thời Mẹ đã được
Đèn sách có dịp cận kề
Quốc ngữ biết đọc biết viết
Văn thơ hiểu nghĩa hiểu chương
Nhuần thông đạo lý Thánh hiền:
Tứ đức
Thấu suốt nhân văn khuôn phép:
Tam tòng
Kíp
đến:
Tuổi đời đôi mươi vừa lúc
Cơ duyên lá thắm chỉ hồng
Trong một bài thơ Ba viết
Được ghép tên của hai thân
Thơ
rằng:
“Thung DUNG
yên ngựa bước du xuân
Học TẬP đắc thành sách
Thánh nhân…”
Mấy tháng lửa duyên thắm thiết
Bao năm tình nghĩa tạm xa
Ba lênh đênh trời Tây biền biệt
Mẹ lận đận nơi dất Tổ quê nhà
Đầu năm Ất Hợi
Mẹ sinh con ra
Cả nhà phấn khởi
Hai họ chan hòa
Ba mừng bời có con đầu nam tử
Nội thích vì được đứa cháu đích tôn
Ngẫm
câu:
Nghĩa Mẹ công Cha như trời như bể
Đức cù lao ấy lấy lượng nào đong
Chín mươi đêm Mẹ thức vò võ
Ba tháng tròn con khóc phòng long
Mẹ che Mẹ chở
Mẹ đỡ Mẹ nâng
Bên ướt Mẹ nằm phần con bên ráo
Những lúc thiếu sữa bú chực bú nhờ
Lúc mem cơm lúc mớm cháo
Lúc trai gió lúc trở trời
Mẹ chăm con ngày đêm không quản
Mong cho con sớm tối nên người
Đạo
phu thê,
Mẹ theo Ba dù mưa dù nắng
Ba quý Mẹ trọn tháng trọn năm
Khi Thừa Thiên Huế, Faifô, Đà Nẵng
Lúc Nghệ-Tĩnh, Cambốt, Nam Vang
Mười mấy năm theo chồng đằng đẵng
Bốn em con lần lượt chào đời
Có trai có
gái
Tay dắt tay bồng
Mẹ đâu quản ngại
Mẹ rất vui lòng
Cho
tới,
Một ngày rợp trời cờ đỏ
Tháng Tám Cách mạng thành công
Ba được lui về quê cũ
Tham gia vào Vệ quốc quân
Mẹ thời ruộng đồng lam lũ
Phận gái
thay chồng nuôi con
Chịu thương chịu khó
Không một lời than
Dù cực dù khổ
Không chút phàn nàn
Có
ngờ đâu,
Độc lập chưa được bao ngày
Giặc Pháp mưu đồ gây hấn
Những tưởng đã hết
thời nô lệ,được hưởng hòa bình từ đây
Hay đâu loài lang sói
bạo tàn,mưu toan chiến tranh xâm lấn
Đất nước muôn người
như một,đứng lên kháng chiến trường kỳ
Trị Thiên một khối
trường thành,lao vào mịt mù khói lửa
Ba ra đi theo bước Trung đoàn
Mẹ ở nhà tảo tần lam lũ
Mình Mẹ nuôi cả bầy con
Sức đang tuổi ăn tuổi ngủ
Mẹ phải làm mướn làm công
Gạo tiền đem về chẳng đủ
Xót
thay!
Năm (19)48 bao nỗi kinh hoàng
Tháng 11 dập dồn tin dữ
Ông nội bị Tây bắn thả xác xuống ao
Chú Tịch hy sinh gần làng Da Độ
O Nghiện chết bệnh thương hàn
Còn Ba, Trung đoàn báo tử
Xuân Lộc em con thiếu thuốc đói cơm
Giã từ dương thế lúc tuổi còn nhỏ
Năm này Mẹ đẻ song sinh
Tháng ấy vào tuần ở cữ
Nguyễn Vô Danh tử tại phúc trung*
Bà nội đổ bệnh ưu phiền sầu não
O Chuyển đưa về
Thuốc thang chạy chữa
Lúc đêm canh
Khi ngày đỡ
Chẳng được bao lâu
Vì quá đau khổ
Bà cũng ra đi
Về theo tiên tổ
Thương ôi! Tử
biệt sinh ly
Giận thay chiến tranh bùng nổ
Gớm
thay!
Từ ngày Pháp nống ra
Mẹ con về quê ngoại
Ba lần giặc đốt nhà
Ba lần phải làm lại
Kháng chiến Mẹ tham gia
Cùng bà con hăng hái
Ngày hỏa tuyến dân công
Đêm đào đường phá hoại
Cái chết luôn rập rình
Lòng son đâu có ngại
Còn con,
Còn con,
Mới
mười bốn tuổi đầu
Đã phải đi ở đợ
Ngày cắt cỏ chăn trâu
Tối trông con cho chủ
Bốn thúng lúa tiền công
Áo quần cộc hai bộ
Hết hạ lại sang đông
Càng ở càng thấy khổ
Cũng
may,
Được mấy chữ vỡ lòng
Học từ hồi trong Huế
Có người thuê dạy kèm
Con đi gõ đầu trẻ
Mấy đứa cháu Dì Cầm
Vài thằng con Ông Thứ
Thằng Oạc con trưởng thôn
Và hai con Eng Lữ
Lớp học kể cũng xôm
Ngày dạy năm ba chữ
Tối về tập viết văn
Nhiều đề tài đủ thứ
Báo của tỉnh bài đăng
Bước đầu tuy còn dở
Nhưng phấn chấn vô ngần
Thế
rồi,
Cuộc
chiến đi qua thời cầm cự
Quân
dân náo nức tổng phản công
Vì
ngày mai kiên quốc, trường học mở
Bởi
sự nghiệp tồn vong của núi sông
Cắp
sách tới trường lòng con hăm hở
Gặp
thầy gặp bạn bao nỗi vui mừng
Ngày
20-7,
Hiệp
định Giơ-neo được ký
Đất
nước tạm chia hai miền
Hòa
bình là điều đáng quý
Nhưng
còn nửa nước chưa yên
Con
tập kết ra Bắc
Mẹ
ở lại miền Nam
Nhiều
lần con tim thổn thức
Lắm
lúc bụng dạ bổn chồn
Hai
tiếng Quê hương thúc dục
Một
nỗi nhớ Mẹ cháy lòng
Nhiều
khi con ước
Mình
được như chim
Về
bên câu hát
Nôi
cũ con tìm
À
ơi! Tiếng Mẹ
Giấc
ngủ nhẹ êm
Con
viết bài thơ ứa lệ
“Gửi
cánh chim xa” nỗi niềm
Hai
năm đầu còn thư đi thiếp lại
Mười
mấy năm sau vắng bặt tin nhà
Năm
(19)64 nhận được thư Mẹ
Có cả hình thỏa dạ chờ mong
Ở Hà Nội nơi trái tim Tổ quốc
Con được cưu mang con được học
hành
Được sống hạnh phúc
Bên người vợ hiền
Dẫu đời chưa sung túc
Vẫn trong ấm ngoài êm
Vợ
con,
Thân liễu vóc đào mà phải gian
truân cực nhọc
Tay yếu chân mềm mà phải lao
lực ngày đêm
Cùng chồng nuôi ba con nhỏ
Vượt qua nghèo khó triền miên
Lúc
đó,
Xếp hàng cả ngày , hòn gạch
mấy nơi giữ chỗ
Áo quần quanh năm,phiếu vải năm
mét rành rành
Tem thịt tem cá tem đường cả
tem đậu phụ
Cuộc sống con người trong những
ô đỏ ô xanh
Lại
thêm,
Giặc Mỹ leo thang chiến tranh
phá hoại
Miền Bắc chịu đựng muôn vàn
khó khăn
Nhưng rồi chúng phải nếm mùi
thất bại
Chấm dứt mưu đồ hiếu chiến
cuồng ngông
Hiệp định Pa-ri ký kết
Có mặt đầy đủ bốn bên
Thừa nhận chủ quyền nước Việt
Ở Điều Một, chương đầu tiên
Sang sảng hồn thơ Lý Thường
Kiệt
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”
Tạm qua đi đạn bom ác liệt
Con lại về tìm Mẹ nơi quê
Con lên Thượng Phước
Con xuống Đại Hào
Ngai ngùng chân con mỗi bước
Mẹ ơi! Mẹ ở phương nao?
Con gặp O Đạm, được tin O Bút
Con về lại nương cũ ngày nào
Giờ đây nhà tan cửa nát
Giờ đây vườn tược xác xơ
Bên miệng hố bom,lòng con muối
xát
Thắp lên nén nhang tưởng niệm
ông bà
Được
biết,
Trong “Mùa hè đỏ lửa”,Mẹ và
các em suýt chết
Chạy tới chạy lui trên khúc
“Đại lộ kinh hoàng”
Sau đó bị địch xúc tát
Đưa vô Xuân Lộc miền Nam
Con lại trở ra miền Bắc
Nhớ Mẹ bao nỗi ngổn ngang
Năm
1975,
Chiến tranh tới hồi kết thúc
Giải phóng toàn bộ miền Nam
Mừng đất nước hòa bình thống
nhất
Vui giang sơn độc lập hoàn toàn
Trên đường vào Nam công tác
Con ghé Quảng Trị mấy lần
Hỏi ra thì con mới biết
Mẹ đang ở tại Xuân Tâm
Mẹ ơi! Hơn hai chục năm trời
cách biệt
Gặp lại Mẹ, niềm vui nhân đến
vạn lần
Để được gần Mẹ,
Con chọn Đồng Nai làm quê hương thân thiết
Con chọn Đồng Nai làm quê hương thân thiết
Là bởi vì chốn ấy có Mẹ và
các em
Rời Thủ đô mà lòng con nuối
tiếc
Về Biên Hòa để bụng Mẹ thêm
vui.
* Tử tại phúc trung là thai nhi chết trong bụng mẹ
* Tử tại phúc trung là thai nhi chết trong bụng mẹ
Tôi
viết bài Văn Ai này năm 2000, khi đó Mẹ tôi bị đau tim nặng phải cấp
cứu và điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn.Rất may là Mẹ qua
khỏi.Thể theo nguyện ước của Mẹ, tôi ra Quảng Bình di dời hài cốt Ba
tôi về Lăng gia đình tại làng Đại Hào,xã Triệu Đại,huyện Triệu
Phong, tỉnh Quàng Trị.Tôi coi đây là hành động báo hiếu của chúng tôi
đối với người Cha đã khuất núi và thực hiện điều mong muốn da diết
cùa Mẹ tôi
Và những ngày cuối
đời của Mẹ cũng được phần nào an ủi,khi linh hồn và thể xác của người
chồng thương yêu của Mẹ đã về yên nghỉ nơi cố hương.
Biên Hòa, ngày 9
tháng 8 năm 2013 tức ngày mùng 3 tháng 7 năm Quý Tỵ
Nguyễn Xuân Bảo,
Con trai trưởng của
Mạ cẩn bút.