213.
CHÚNG TÔI LÀM LỄ CƯỚI TRONG THỜI GIAN KHÓ.
(MỘT
ĐÁM CƯỚI THEO ĐỜI SỐNG MỚI)
Hồi
ức của nhà thơ Xuân Bảo.
Sau Hiệp định Genève, năm 1954, tôi tập kết ra Bắc trong
quân ngũ, ở Đại đội 235 của Huyện đội
Triệu Phong do ông Lê Trường Lữ làm đại đội trưởng. Làng Thượng Phước có hơn phần
nửa quân số gồm có tôi, Lê Ngọc Ngoãn, Lê Ngọc Bích, Bùi Hũu Tư, Lê Văn Thượng,
Trần Thị Dàn, Lê Thị Phụ. Tôi nhớ anh Lê Ngọc Ngoãn được tạm thời làm tiểu đội
trưởng tiểu đội 1. Lúc này tôi đã 20 tuổi. Tôi và một số chiến sĩ có trình độ
văn hóa cấp II nên được chọn đi học Khóa Kế toán cấp tốc tại làng Kim Liên, huyện
Nam Đàn, Nghệ An. Sau 3 tháng mãn khóa, tôi và một số anh chị em, trong đó có
Tân Thủy, Kim Biên, người Huế được điều ra công tác tại Chi sở Mậu dịch Đặc biệt
Thanh Hóa, đóng ở Bái Thượng, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Chi sở này làm nhiệm vụ
thu mua những mặt hàng thuốc bắc như thiên niên kiện, sa nhân, đậu khấu và các
mặt hàng xuất khẩu khác. Tháng 2 năm 1955 thì giải thể. Tôi và một số anh chị
em khác được điều qua Công ty Lương thực Thanh Hóa. Lúc này, ông Lưu Trọng Lạc,
em ruột nhà thơ Lưu Trọng Lư làm chủ nhiệm. Nơi đây, tôi quen biết Lưu Lương
Sơn và Lưu Thanh Sơn. Hai người con gái của ông Lưu Trọng Lạc. Lưu Thanh Sơn là bạn gái của Hồ Viết Năng, bạn
tôi. Sau này, trong kháng chiến chống Mỹ, Hồ Viết Năng là Trưởng nhóm Văn công
bộ đội 559.
Cô dâu đang trang điểm.
Ngày 1 tháng 1 năm 1955, Cụ Hồ và Chính phủ về thủ đô ra mắt đồng bào tại sân Vận động Quần Ngựa. Tháng 3 năm đó, tôi lại được chọn đi học tại trưởng Thương nghiệp Trung ương của Bộ Nội thương, đóng tại 66 phố Hoàng Hoa Thám, Khu Ba Đình, Hà Nội. Trường này có lần được Bác Hồ đến thăm. Sau khi tốt nghiệp, tôi là một trong số 200 cán bộ được cử lên tăng cường cho Khu Tự trị Thái Mèo (sau này đổi thành Khu Tự trị Tây Bắc). Khi Khu Tự trị đã ổn định. Bọn phỉ Đèo Văn Long, Vàng Pao và vài nhóm khác bị tiêu diệt. Một số cán bộ tăng cường được điều động đi làm nhiệm vụ khác hoặc đi học.
Năm 1959, 1960 tôi được
điều sang công tác tại Ban Cải tạo Công Thương nghiệp tư bản tư doanh của Sở
Lương thực Hà Nội. Rồi sau đó sang làm việc tại Công ty Vật liệu Xây dựng rồi về
Công ty Bông Vải Sợi May mặc Hà Nội.
Năm 1961, tôi đã 26 tuổi
và bắt đầu nghĩ đến chuyện xây dựng gia đình. Tôi quen biết nhà tôi vào những
tháng cuối năm 1960. Là đoàn viên Thanh niên, tôi phải báo cáo việc lấy vợ cho
đoàn thể biết, cho chính quyền biết, cho Đảng biết.
Khi biết tôi sắp lấy vợ
là con nhà tư sản Tân Việt thì bí thư Đảng ủy Ph. Đ. Q. đã hai lần khuyên tôi
nên từ bỏ ý định cưới con nhà tư sản. Ông nhẹ nhàng phân tích cho tôi rõ giai cấp
tư sản là giai cấp đối kháng của cách mạng. Ông còn xác định cho tôi hãy đứng vững
trên lập trường của giai cấp vô sản để không ngừng rèn luyện đạo đức, tư tưởng
và tác phong của người cán bộ. Tôi không nghe theo lời răn đe đó nên cùng với
Thúy Minh ra Ủy ban Hành chính xin làm giấy kết hôn. Sau 1 tháng, chúng tôi được
cấp Giấy kết hôn hợp pháp.
Cô dâu đang trang điểm.
Tôi được ông thủ trưởng Lê Xứng, người Huế coi như đứa em xa nhà chăm lo tận tình như người anh cả. Ông đứng ra làm chủ hôn và đại diện họ nhà trai lo việc đi hỏi, đi cưới vợ cho tôi. Ông bố trí cho tôi một căn phòng tân hôn gần 16 mét vuông trên gác 2 của Trạm May mặc số 7, đóng tại 58 phố Huế, cách nhà ông bà Tân Việt tại 60A phố Huế một căn. Ông chỉ đạo Chi đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh làm các công việc trang trí sân lễ Thành hôn, cho cho mượn địa điểm là phân xưởng may làm hội trường hôn lễ.
Bàn là những chiếc máy
khâu xếp dồn lại thành 3 hàng dọc, đủ chỗ ngồi cho hơn trăm khách. Ghế là những
chiếc ghế đẩu thợ may ngồi hàng ngày. Bàn cô dâu chú rể là hai cái bàn và hai
chiếc ghế tựa ba nan làm việc hàng ngày của bộ phận văn phòng. Bàn này được phủ bằng vải sa tanh màu xanh nước
biển, trên bàn có một bình hoa cắm đúng mười bông lay-ơn màu hồng. Khăn trải bàn là những súc vải phin trắng,
phông là vải phin xanh có sẵn trong kho của cửa hàng. Tất cả công nhân và cán bộ
của Trạm đều được mời dự cưới (mời mồm). Đồng thời, mỗi người thợ cho mượn một
bộ ấm chén pha trà, ba cái dĩa đựng bánh kẹo, hạt bí và một cái dĩa đựng bao
thuốc lá và diêm Thống nhất. Tàn thuốc được gạt thẳng xuống sàn nhà. Một cái lọ
hoa thủy tinh, loại rẻ tiền mà Hợp tác xã Thủy tinh Hà Nội thời đó sản xuất kỹ
thuật còn quá thô sơ nên có nhiều bọt. Trên mỗi lọ hoa được cắm 2 nhành hồng.
Người cho mượn chén dĩa ngồi ngay tại bàn đó lo tiếp tân luôn. Sau lễ, thì tự
thu dọn các thứ cho mượn mang về. Nước sôi thì do bà Hai Thụy Khuê, lao công của
Trạm đun nấu. Mấy nữ đoàn viên lo pha trà.
Thiếp mời cưới phần lớn
khách là bạn bè của chú rể, cô dâu, được đánh máy trên giấy lụa hồng (pelure)
và gửi trước mươi hôm, đối với những người ỏ xa. Trong nội ô thì mang thiếp đến
tận nhà. Phong bì thì mua ở Bưu điện Chợ Hôm, ngay cạnh nhà, loại in sẵn có hai
mục, trên cùng phía trái là địa chỉ có ghi chữ: Người gửi, giữa là 2 chữ Kính gửi,
chung quanh có sọc nghiêng in đều khoảng 3 cm cách nhau xanh, trắng (trắng là
màu có sẵn của giấy phong bì) và đỏ, nhìn như lá cờ tam tài của Tây Phú- lang-
sa.
Phông treo gần hết chiều
ngang bức tường của xưởng. Trên cùng phông có câu cắt giấy thủ công màu đỏ cờ:
Vui duyên mới không quên nhiệm vụ! Chính giữa phông có hai chữ lồng in hoa B và
M, nằm trong hình trái tim, cũng màu đỏ. Phía trên hai chữ B và M có đôi chim bồ
câu màu trắng chụm hai cái mỏ hồng vào nhau, bốn cái chân bồ câu cũng màu hồng.
Cạnh trái có một chữ Hỷ tiếng Tàu, màu đỏ nằm trong hình trái tim màu hồng. Phần
dưới phông có mấy chữ: Hà Nội, ngày 4 tháng 2 năm 1961.
Hai bức tường hai bên phân xưởng (nơi bấy giờ
thành phòng hôn lễ) đã có sẵn những câu khẩu hiệu của xưởng may để nhắc nhở
tinh thần lao động sản xuất của công nhân. Đó là những câu thường ngày, gần như
câu kinh nhật tụng mà nơi nào cũng có: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến
thắng! Thi đua lao động sản xuất đạt năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm
nhiều, giá thành hạ!
Ảnh chụp hôm sinh nhật Thúy Minh 77 tuổi.Ngày 6/11/1941 - 6/11/2017 tại Biên Hòa.
Chiều ngày 4 tháng 2 năm
1961, nhằm vào ngày 20 tháng Chạp năm Canh Tý, ông Lê Xứng dẫn theo mấy người đại
diện chính quyền, đoàn thể gồm có các chị Nguyễn Thị Mỹ, Nguyễn Thị Đức, Ngô Thị
Thái và chú rể, mang theo một mâm lễ gồm có một buồng cau, một xấp lá trầu, một
chai rượu trắng (sản xuất tại nhà máy rượu Hà Nội - phố Nguyễn Công Trứ, khu
Hai Bà) sang nhà ông bà Tân Việt để gọi là có chút lễ xin rước dâu. Ông bà nhạc
tôi chấp thuận và miễn luôn cho cái lễ cúng gia tiên.
Khác với đám cưới năm 1957 của chị Nguyễn Ngọc
Bích, chị cả của vợ tôi, có xe ôtô Traction của hãng Cytroyen. Loại xe mà nhà văn Vũ Trọng Phụng đã viết
trong tiểu thuyết Giông tố. Xe chở Nghị Hách bị patinet giữa đường, gặp Thị Mịch…và
mọi thứ chuyện xẩy ra trên xe.
Ông bà Tân Việt cũng có một
chiếc xe loại này. Chúng tôi còn lưu giữ được những bức ảnh ông Tân Việt cùng với
các ông cậu Trọng, cậu Chi lái chiếc xe này đi chơi chùa Trầm, chùa Trăm Gian
trước giải phóng thủ đô 1954. Mấy chiếc
xe đưa dâu chị Ngọc Bích và chàng rể quý tử “cậu ấm kháng chiến” chạy mấy vòng
quanh Hồ Gươm rồi mới về nhà mới ở phố Huyền Trân công chúa (sau đổi là phố Bùi
Thị Xuân). Mặc dầu, nhà cô dâu cách nhà mới không đầy ba dãy phố. Ngôi nhà này
là chú rể mua lại nguyên căn, thuê thợ sửa chữa, tân trang lại và mua sắm vật dụng
là những thứ đồ cổ đắt tiền như sập gụ, tủ chè, sa lông Tàu…Bốn cô phù dâu được
nhà trai may biếu không bốn chiếc áo gấm thất thể Thượng Hải. Bốn cậu phù rể được
chú rể may tặng bốn bộ complet bằng dormueil màu trắng ngà, một loại tissu len
rất đắt tiền.
Đám cưới của chị Ngọc
Bích không biết có chi hết 20 triệu đồng không? Nhưng sau đó khoảng gần hai
mươi ngày thì tờ báo tư nhân có tên Thời Mới do ông Hiền Nhân làm chủ bút đã
đăng feuilleton bài 18 ngày trăng mật? Và tác gia Trần Huyền Trân có vở cải
lương Ngược dòng, làm xôn xao dư luận Hà Thành?!
Áo cưới của cô dâu Thúy
Minh, may bằng gấm thất thể (bảy màu) Thượng Hải – chiếc áo mà hôm 6/11/2017 vừa
rồi – Thúy Minh mang ra mặc để phục dựng bộ ảnh cưới thì không mặc được vì chật.
Đây là chiếc áo dài do hiệu may ta nổi tiếng Phúc Trạch ở phố Lương Văn Can đo
may từ đầu năm 1957. Bộ complet croisé bằng tissue len của tôi may tại Trạm May
mặc số 3, 63 hàng Trống. Tiền do ba me nuôi của tôi là ông bà Vũ Thư cho. Chiếc
cravate màu đỏ thì mua ở hiệu Đức Minh, phố Tràng Tiền. Đôi giầy da đen thì thửa
tại hiệu giầy Nguyên ở ngõ Văn Chương.
Đến giờ khai mạc, ông Lê Xứng thay mặt họ nhà trai nói
mấy lời vắn tắt đại khái là đôi tân hôn làm lễ cưới chính thức được luật pháp
công nhận. Ông chúc mừng đôi bạn trẻ “bách niên giai lão”! Chúc mừng ông bà Tân
Việt có rể thảo! Chúc mừng cơ quan và nhà trai có cô dâu hiền! Ông tỏ lời cảm
ơn quý vị tân khách có mặt hôm nay. Cuối cùng ông mời mọi người dùng tiệc trà.
Phần liên hoan văn nghệ
do Chi đoàn Thanh niên chủ trì. Các bài hát cách mạng và kháng chiến được cất
lên. Hát chay, không có nhạc đệm, không có micro. Cô Chu Minh Hằng và Kim Oanh
góp vui bằng những vần thơ. Minh Hằng diễn ngâm bài thơ của nhà thơ Huy Huyền,
trong đó có những câu:
Em
ơi! Tiếng là cưới, có gì đâu, chỉ ấm nước cơi giầu
Bởi
chúng mình thương nhau, mẹ cha làm lễ cưới
Bạn
bè xa cũng tới, họ hàng gần cũng sang
Thêm
đồng chí Ủy ban. Thế là vui biết mấy!
Cô Kim Oanh diễn ngâm bài
thơ Mừng đám cưới Xuân Bảo – Thúy Minh của nhà thơ trào phúng Nguyễn Đức Xa,
người làng Thanh Liệt, quê của tác giả Thất trảm sớ Chu Văn An. Cụ Nguyễn
Đức Xa là nhà thơ trào phúng, đã có rất nhiều thơ châm biếm đăng trên
báo Hà Nội mới, ở chuyên mục “Chuyện lớn chuyện nhỏ”.
Dưới đây là nguyên văn nội dung
bài thơ đó:
Tặng
đôi bạn trẻ: XUÂN BẢO – THÚY MINH
Nhân
NGÀY CƯỚI 04-02-1961.
Xuân Bảo - Thúy Minh đôi bạn trẻ
Lễ Thành hôn vui vẻ giữa trời đông
Xuân đã tươi như một đóa hồng nhung
Tình lại đẹp như bản đàn nhà nhạc sĩ
Xuân Bảo Thúy Minh yêu nhau vì tâm lý
Nên hai bạn Minh - Bảo mến thương
nhau
Uyên ương gối thắm tươi màu
Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời
Thanh Liệt, 04/02/1961
Kính
thưa hương hồn Bác NGUYỄN ĐỨC XA!
Câu thơ Chúc của Bác
giờ đây chúng cháu vẫn lấy làm phương châm cho cuộc sống vợ chồng:
“Uyên ương gối thắm tươi màu/Hai lòng Minh - Bảo yêu nhau trọn đời...”.
Trong những năm gian khó của Hà Nội thời đánh Mỹ, dù gặp nhiều khó khăn trong đời
sống, chúng cháu vẫn âm thầm lặng lẽ hy sinh cùng nhân dân thủ đô hoàn thành sứ
mệnh đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Và hơn 40 năm sau giải phóng đất nước, còn
bao nhiêu khó khăn thiếu thốn, chúng cháu vẫn thầm nhắc câu thơ của Bác để cùng
nhau xây dựng tổ ấm gia đình.
Giờ đây, thế mà đã 58 năm
trôi qua. Trong những năm khốc liệt của chiến tranh chống Mỹ cứu nước, vợ chồng
chúng tôi vẫn toàn tâm toàn ý với chế độ. Và bây giờ tôi đã bước sang tuổi bát
tuần, nhà tôi cũng suýt soát dưới tám mươi. Chúng tôi đã có chắt gọi bằng Cụ.
Chúng tôi luôn tâm niệm câu chúc của anh Lê Xứng ngày đó: Bách niên giai lão!
Và hai câu thơ của Cụ Nguyễn Đức Xa:
Uyên ương gối thắm tươi màu
Hai lòng Minh - Bảo yêu
nhau trọn đời!
Bên
bờ Phước Long Giang – Kỷ niệm 58 năm ngày cưới 4.2.1961 – 4.2.2018