167. Ký ức về một làng quê yên ả.
2- Ngôi làng ven sông.
2- Ngôi làng ven sông.
Thôn Thượng Phước nằm ngay vị trí
tiền chiến khu Ba Lòng, chỉ cách thị xã Quảng Trị không đầy 5 cây số, cách bốt
Cầu Ga hơn 2 kilômet. Nhưng Thượng Phước được coi là vùng tự do. Làng Thượng
Phước là một làng thuộc miền duyên sơn, là vùng đất bán sơn địa, chạy dài từ cuối
làng An Đôn lên đến xóm Chuối, dưới Bến Trấm, dài trên 7 cây số và chiều rộng
trung bình là 2 cây số - nơi rộng nhất
có thể lên tới 4, 5 cây số. (Trạng Mốc, Tràu…). Bên phải làng là những độộng,
hác như bức thành che chắn mặt bắc. Con sông Thạch Hãn chảy theo chiều dọc bờ
nam của làng, hình thành thế thành cao hào sâu, bảo vệ xóm làng.
Cách đầu làng, tính từ An Đôn lên
đoạn Phường Sãi, non 2 cây số là hai khu rừng nguyên sinh: Lùm Miệu Dưới và Lùm
Miệu Trên. Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 trở về trước hai khu rừng này có rất nhiều
loại cây rừng quý thuộc hạng tứ thiết, có mây song, có rất nhiều cây bồ kết trái
dùng gội tóc, gai mọc từ thân cây. Nơi đây có nhiều loại thú rừng quý như cọp,
beo, heo rừng, mang (mển),nhím, thỏ rừng, rắn hổ các loài, rắn mai, kỳ đà, tê
tê, trăn…có nhiều loại ong: ong ruồi, ong mật, ong bò vẽ, ong hầm. Hai loại ong
bò vẽ và ong hầm là loài nguy hiểm nhất, dễ gây tử vong cho người, nhất là trẻ
con. Các loài chim cũng rất phong phú: công, gà rừng, chim lợn, quạ, diều, chim
cắt, cu kỳ, cu cườm, sáo đen, sáo chân vàng, cà cưỡng, cuốc, nghịch, chàng
làng, bìm bịp, rôộc rộôc, con chim “Cha kèo con cột” (mà sau này các anh lính
giải phóng quân nghe ra là “ Khó khăn khắc phục” để động viên nhau ra trận diệt
Mỹ). Đặc biệt, có một loài chim ăn đêm mà tiếng kêu của chúng rất não nề. Tên
gì thì ít người biết, nhưng chỉ nghe tiếng con đực kêu: “Cùng cực chi tui, cùng
cực” thì con mái đáp “Rủ rỉ, rù rì”. Hai con chim này không bao giờ bay song
đôi. Đêm đến, con chim đực bay từ cây ươi Cồn Quả và con cái bay từ hàng cây cổ
thụ - nơi Dinh Ngài khai khẩn – bay lên làng. Hai con chim này thường gặp nhau
tại kiệt ông Phó Tiệm. Có người đã nhìn thấy chúng thân hình to như con gà mái,
lông màu xám, nhảy múa và gù nhau khi vào mùa giao phối. Rồi thì “eng đi đàng
eng, ả đi đàng ả “ về hai phía dầu và cuối làng, đổi chỗ cho nhau, để đến hôm
sau lại tiếp tục hành trình xuyên đêm. Chim kêu đêm còn có con te te hót, thường
sống ở các trảng trống. Có một loài chim nhỏ mình nhưng chiến thắng cả loài quạ
to xác, dó là chim chèo bẻo.
Tất cả rừng rú và các loài động vật
sống nơi đó và trên dải đất miền Nam đều bị bom đạn 2 cuộc chiến tranh chống
Pháp và đuổi Mỹ làm cho tan tác, tản mác. Giờ đây chỉ còn lại những vạt rừng mới
trồng keo lai, tràm, bạch đàn. Thú rừng và chim muông còn lại ít loài như chèo
bẻo, chào mào đít đỏ.
Bãi cát ven sông của làng còn có
vạn chài của ông Yên, ông Dĩ. Hai gia dình này sống trên sông, chuyên nghề chài
lưới, sau được nhập tịch vào thôn Thượng Phước. Và ở đây có người con ông Dĩ
tên là Tấn được cắp sách tới trường cùng học với học sinh Thượng Phước. Tấn là
học sinh giỏi và được cử đi dự Hội nghị Chiến sĩ Thi đua Liên khu Bốn, cùng thời
với Chiến sĩ thi đua Hà Học Trạc.
Ở dưới Dốc Cồn Thang có một xóm
dân từ nơi khác đến khai hoang, lập ấp. Sau ngày Toàn thắng 30-4-1975, Thượng
Phước đã cắt 30 hecta tại đây và tại xóm Chuối Mía để lập thành thôn Tân Xuân mới.
Thượng Phước từ ngàn xưa có phường
Đá Đứng – một bán đảo rất đẹp mà con sông Thạch Hãn uốn lượn vòng cung hình
thành một mảnh đất trù phú. Đá Đứng và Giang Quan cùng với Trảng Mốc, tổng cộng
hơn 100 mẫu tây của làng mãi mãi chìm vào lòng công trinh Đại thủy nông Nam Thạch
Hãn, thường gọi không chính xác là Đập Trấm. Đất đai tự nhiên của Thượng Phước
hiện còn là 1.500 hecta. Trong đó diện tích canh tác là gần 100 hecta, bao gồm
cả ruộng nước và đất đồi. Đất thổ cư có 30 hecta. Số dân sống ở làng hiện tại
có 14 dòng tộc với 187 hộ, 870 nhân khẩu, không kể những con dân làng bỏ xứ đi
mưu sinh ở quê người, kể cả định cư ở nước ngoài mà phần lớn ở Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ.
Trước đây, dân làng sinh sống chủ
yếu khu vực giữa làng. Trước mặt là sông trên bờ là những biền dâu, biền bắp, đậu
xanh, đậu phụng bốn mùa xanh ngắt. Giũa
làng, đường ngang kiệt nhỏ, (hiện nay đã bê-tông hóa) nối vào nhau bằng những lối
đi tắt, nhà này sang nhà khác, biểu hiện đậm đà tình làng nghĩa xóm,”tối lửa tắt
đèn” có nhau. Cổng chính chỉ để tiếp đón những vị khách nơi xa đến. Những bức
nương xưa kia xanh tươi nhiều loại cây ăn trái lưu niên: mít, chè, cau, chuối,
bưởi bòng, cam, quýt, dâu gia, bồ quân bị chiến tranh tàn phá nay đã hồi sinh. Màu
xanh không những phủ khắp làng mà những cồn, những độộng, những hác, những trảng
xưa kia mọc đầy sim, mua, muồng muồng… bị chất độc khai quang gần như đất trắng,
đều được xanh lại màu xanh lá cây của những cành rừng trồng mới: keo lai, tràm,
bạch đàn… Con đường làng (liên thôn) đã được tôn cao và đúc bê-tông để thành
con đường cứu nạn, cứu hộ.
Thượng Phước có rất nhiều cánh đồng
lúa nước Bàu Lác, Bàu Ông Phe. Ngoài ra còn có những khu ruộng không nhiều diện
tích như Cầu Đất, Độông Ôi, La Nghìn, Phúc Rèn, Khe Bội…Năm 2015, Thượng Phước
hưởng ứng phong trào “Đoàn kết chung tay xây dựng Nông thôn mới” đã thu được những
kết quả ban đầu: Thực hiện “dồn điền đổi thửa”, chỉnh trang đồng ruộng cải tạo
được 22 hecta, khắc phục 3 hecta ruộng hoang hóa lâu ngày, chia lô làm “to thửa
ít vùng” thuận lợi cho thâm canh; đào đắp 2.300 mét kênh mương tưới tiêu với tổng
kinh phí đầu tư là 845,700.000 đồng bằng nguồn vốn tự có.
Cồn Cự là một qủa đồi độc lập,
hình thế rất đẹp, giống như lưng rùa, án ngữ mặt bắc, nằm ngay vị trí gần như
trung tâm của làng được bao bọc bởi những cành đồng Bàu Ông Phe, Bàu Lác, hác Cồn
Lê. Những ngày còn nhỏ, bọn trẻ chúng tôi thường hay chơi đá bóng ở một vạt đất
bằng phẳng ngay đầu Cồn Cự. Bóng là những trái bưởi còn non, to bằng cái chén
ăn cơm. Nương nhà tôi và nương Ông Mệ ngoại có rất nhiều bưởi, thường rụng khi
có gió, nên chúng tôi nhặt về, hơ lửa cho mềm vỏ ngoài rồi dùng để đá thay trái
bóng da. Sau này, có mấy mụ bà con ở thị xã lên thăm làng. Cha mẹ chúng tôi nhờ
họ mua giùm trái bóng da mà trong ruột có cái vét-si bằng cao su màu đỏ, khi
trái bóng xẹp thì dùng bơm xe đạp bơm lên, còn thì thường dùng hơi từ hai lá phổi
của bọn trẻ thay nhau thổi.
Tôi đã có ý tưởng và đã viết thành đề án xây dựng
Cồn Cự trở thành một khu văn hóa, trong đó có Nhà bia Tưởng niệm các anh hùng
liệt sĩ, các Bà Mẹ Việt Nam anh hùng và những người dân của làng đã hy sinh.
Trong 2 cuộc trường chinh đánh Pháp và đuổi Mỹ, Thượng Phước đã cống hiến cho Tổ
quóc 45 liệt sĩ, 7 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, 16 thương binh, 28 gia đình có công
với cách mạng. Và còn nhiều liệt sĩ vô danh khác, trong đó có những người dân
thường bị địch tàn sát, mổ bụng, moi gan, chôn sống mà hiện nay chưa tìm được hết.
Bạn học thời phổ thông của tôi, cụ
Trần Đức Long, 82 tuổi, hiện đang sống ở Hà Nội gọi điện thoại cho tôi bảo rằng
ông Trần Đức Hinh, thường gọi là ông Bộ Hinh, thân phụ của Trần Đức Long bị giặc
Pháp bắt và bị bắn chết tại xóm Chuối cùng với ông Nguyễn Văn Dần trong trận
càn mà du kích Thượng Phước giật mìn làm bọn lính Pháp thiệt hại nặng nề ở trận
Soi Mè. Ông Bộ Hinh lúc này là cán bộ Nông hội. Giờ này vẫn chưa được xét tặng
thưởng về thành tích kháng chiến. Nên chăng, các cấp chính quyền thôn Thượng
Phước, xã Triệu Thượng và huyện Triệu Phong cần lưu ý xét truy tặng.
Nơi đây cũng có vị trí rất đẹp để
xây Cụm Văn hóa – Thể thao: sẽ có thư viện,
phòng chiếu bóng, sân khấu ca kịch; sẽ có sân bóng đá, bóng chuyền và các loại
hình thể thao khác như bóng bàn, cầu lông và sàn tập thể dục…Ngoài ra, sẽ quy
hoạch Cồn Cự thành một Công viên vĩnh hằng hay còn gọi là Nghĩa trang nhân
dân của người dân Thượng Phước. Tất cả
những việc làm có ý nghĩa này sẽ góp phần đưa Thượng Phước trở thành một làng
văn hóa tiêu biểu.
(Còn tiếp)